Thứ Hai, 19 tháng 11, 2018

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÀM VIỆC TRONG MÔI TRƯỜNG QUỐC TẾ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở CÁC CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ


NÂNG CAO NĂNG LỰC LÀM VIỆC TRONG MÔI TRƯỜNG QUỐC TẾ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở CÁC CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Để phát huy tính tích cực và chủ động hội nhập quốc tế của đội ngũ cán bộ, Nghị quyết số 26/NQ-TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đã xác định các mục tiêu, yêu cầu, lộ trình cụ thể về năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của đội ngũ cán bộ các cấp. Đây là một thách thức rất lớn đối với cả chủ thể quản lý và bản thân cán bộ, đòi hỏi các cấp, các ngành phải xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ rất khoa học, bài bản và mỗi cán bộ phải xác định rõ trách nhiệm và tìm động lực mới cho phát triển.
Năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý: Quan niệm, nội dung và yêu cầu cấp bách
Năng lực là tổ hợp những đặc điểm, thuộc tính tâm lý của tổ chức hoặc cá nhân phù hợp với yêu cầu một dạng hoạt động nhất định nhằm bảo đảm cho hoạt động đạt hiệu quả tối ưu. Ứng với từng môi trường, dạng thức hoạt động nhất định đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có những phẩm chất, năng lực, kỹ năng chuyên biệt phù hợp. 
Nói tới môi trường quốc tế là nói tới không gian có sự tham gia của các cá nhân, tổ chức nước ngoài với nhiều cấp độ: từ cấp cao đến cấp thấp, từ song phương đến đa phương, từ chính thức đến phi chính thức... Môi trường quốc tế là tổng thể các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại, an ninh - quốc phòng..., đại diện cho quan hệ lợi ích trên các lĩnh vực then chốt, đan xen, tương tác, ràng buộc lẫn nhau giữa nước ta với các nước và các tổ chức quốc tế; là không gian mà từng chủ thể (quốc gia, doanh nghiệp, cá nhân...) thể hiện quá trình hội nhập quốc tế cũng như khẳng định vị thế, năng lực cạnh tranh, bản sắc của mình trước thế giới, trước các định chế quốc tế, trước các đối tác. Trong quá trình hội nhập quốc tế, mỗi nước đều theo đuổi lợi ích của mình thông qua việc tự giác, chủ động hợp tác, liên kết sâu rộng với các quốc gia khác trên từng lĩnh vực hoặc nhiều lĩnh vực dựa trên sự chia sẻ về nhận thức, lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực và chủ động chấp nhận; tuân thủ, tham gia xây dựng các luật chơi chung, chuẩn mực chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế(1). Hội nhập quốc tế là xu hướng khách quan đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có được những năng lực nội sinh nhất định mới có khả năng đáp ứng được những yêu cầu cả trước mắt và lâu dài. 
Năng lực làm việc trong môi trường quốc tế là những đặc điểm, thuộc tính tâm lý bảo đảm cho chủ thể hoạt động (cán bộ lãnh đạo, quản lý) thực hiện một cách chủ động, có hiệu quả nhất những nhiệm vụ thuộc bộ, ban, ngành, lĩnh vực được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó trong điều kiện phải xử lý hài hòa các mối quan hệ lợi ích về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại, an ninh - quốc phòng... của nước ta với các quốc gia, các tổ chức trên thế giới, phù hợp với luật pháp nước ta và luật pháp quốc tế. 
Làm việc trong môi trường quốc tế là hoạt động tương tác giữa những con người thuộc nhiều quốc gia, tộc người, tôn giáo, nền văn hóa, ngôn ngữ đa dạng. Căn cứ cho hoạt động là dựa trên cả luật pháp quốc gia, luật pháp nước sở tại và luật pháp/tập quán quốc tế, mà ở đó, lợi ích cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, dân tộc và nhân loại đan cài rất phức tạp. Hoạt động trong môi trường quốc tế có thể diễn ra theo cơ chế song phương hoặc đa phương, chính thức hoặc phi chính thức, được bảo đảm bằng nguồn tài chính ngân sách hoặc nguồn lực quốc tế. Tư cách hoạt động có khi là “chủ”, có khi lại hoán đổi thành “khách”, ngày nay còn phải hoạt động trên cả môi trường không gian số. Làm việc trong môi trường quốc tế có thể với tư cách hoạt động tập thể hoặc hoạt động cá nhânhoạt động tổng hợp hoặc hoạt động chuyên biệt trên một phân hệ - lĩnh vực (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường, an ninh, quốc phòng...) mà giữa chúng có quan hệ tương tác lẫn nhau.
Không thể hội nhập quốc tế thành công nếu không có đội ngũ cán bộ đủ năng lực tương ứng, bởi “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Vì tính phức tạp nêu trên, nên người cán bộ lãnh đạo, quản lý làm việc trong môi trường quốc tế chỉ thành công khi hội đủ trình độ, phẩm chất, năng lực nhất định, thậm chí đó là năng lực vượt trội so với các hoạt động mang tính quốc nội (trình độ học vấn, chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, vốn văn hóa, sự trải nghiệm). Tùy theo trình độ, khả năng nhận thức và sự trải nghiệm của từng cán bộ lãnh đạo, quản lý mà sự tác động của từng yếu tố này cũng khác nhau. Điều này lý giải tại sao trong thực tế cùng một trình độ như nhau, môi trường làm việc như nhau, nhưng có người làm việc có hiệu quả, có người làm việc lại kém hiệu quả.
Yêu cầu về năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan Trung ương trong điều kiện mới
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan Trung ương có vai trò quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị và hội nhập quốc tế.
Yêu cầu về số lượng: 
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp xác định rõ mục tiêu cụ thể đến năm 2030 là: 1- Đối với cán bộ cấp chiến lược: Thực sự tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, phẩm chất, năng lực và uy tín; trên 15% dưới 45 tuổi; từ 40% đến 50% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; 2- Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tổng cục, cục, vụ, phòng và tương đương ở Trung ương: Từ 20% đến 25% dưới 40 tuổi; từ 50% đến 60% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế(2).
Mục tiêu này thể hiện tính cấp bách của thực tiễn và chiến lược hết sức rõ ràng của Đảng ta về công tác cán bộ trong điều kiện hội nhập quốc tế đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đặc biệt là yêu cầu hội nhập quốc tế tinh thần mới. Vì vậy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung và ở các cơ quan Trung ương nói riêng cần phải được xây dựng theo một khung năng lực được thiết kế bài bản, khoa học, có tầm nhìn và lộ trình cụ thể thì mới đáp ứng được yêu cầu làm việc trong môi trường quốc tế, trong đó cần tập trung vào những phẩm chất, năng lực cốt lõi sau đây:
Về tư tưởng, lập trường, bản lĩnh chính trị
Cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là ở các cơ quan Trung ương phải thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng ta, đặc biệt là các quan điểm nêu trong Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế. Trong đó, những vấn đề cốt lõi phải nắm vững, biến thành phương pháp xử lý nhuần nhuyễn khi tác nghiệp hằng ngày, như giữa đối tác và đối tượng, hợp tác và đấu tranh, kiên định lợi ích quốc gia dân tộc và hội nhập quốc tế, hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy văn hóa, xã hội(3)... Môi trường làm việc quốc tế đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có bản lĩnh chính trị vững vàng; hiểu rõ bản chất chính trị của đối tác, đối tượng, không lơ là mất cảnh giác, xa rời nguyên tắc khi hoạt động hoặc quá cứng nhắc, thiếu linh hoạt cần thiết; nhạy bén, tỉnh táo trong nhận diện những cạm bẫy được ngụy trang rất tinh vi, dưới nhiều hình thức khác nhau, nhất là những cám dỗ về tiền tài, vật chất khi phải làm việc với những đối tác quốc tế liên quan đến những dự án thuộc lợi ích tầm quốc gia; phải hiểu và thấm nhuần triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” và vận dụng sáng tạo, linh hoạt phương pháp và cách xử trí trước mọi tình huống trong môi trường làm việc quốc tế với phương châm: hội nhập nhưng không hòa tan, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc trong môi trường làm việc quốc tế, vì hòa bình, hợp tác và phát triển; cảnh giác với những âm mưu của các thế lực thù địch thông qua hội nhập để thực hiện “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam.
Về vốn văn hóa - lịch sử dân tộc và đạo đức cách mạng
Hội nhập quốc tế sâu rộng đòi hỏi cán bộ phải đứng vững trên nền tảng văn hóa dân tộc thì mới khai thác tốt nhân tố thời đại phục vụ cho lợi ích quốc gia - dân tộc, biến ngoại lực thành nội lực. Không có nền tảng văn hóa dân tộc vững chắc, cán bộ khi hội nhập dễ bị “lóa mắt” trước những cái mới lạ, rồi rơi vào bi lụy, xem nhẹ giá trị dân tộc, hình thành tư tưởng vọng ngoại. Nền tảng văn hóa dân tộc chính là vốn hiểu biết về đất nước, con người, lịch sử, văn hóa của dân tộc không phải ở cái hình thức bề ngoài, mà phải thẩm thấu các giá trị minh triết của cha ông, biến thành phương pháp, cốt cách, giá trị của mỗi cán bộ cả trong tác nghiệp hằng ngày lẫn phong cách sống mang bản sắc Việt Nam. Đến lượt nó, bản sắc văn hóa dân tộc khi thấm sâu vào mỗi cán bộ không chỉ tạo điểm tựa, căn cước cho hội nhập quốc tế mà còn trở thành “vốn đối ứng” để hấp thu có hiệu quả mọi nguồn lực bên ngoài, biến ngoại lực thành nội lực, xây dựng ý thức tự lực, tự cường, tự chủ quốc gia. Trong hội nhập quốc tế, nền tảng văn hóa còn giúp cho cán bộ luôn biết danh dự, tự tôn dân tộc để khi thấy cái yếu của mình mà không rơi vào tự ti, thậm chí phải tìm cách bứt phá vươn lên; thấy cái hay của người không bị “mê hoặc”, mà luôn tỉnh táo, biết chọn lọc cái phù hợp để học tập, phòng ngừa chủ nghĩa giáo điều. Trong môi trường làm việc quốc tế, mỗi người cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là cấp chiến lược và cán bộ ở các cơ quan Trung ương còn có sứ mệnh hết sức cao cả là những sứ giả quảng bá những giá trị văn hóa, cốt cách, tâm hồn con người Việt Nam ra với thế giới. Để thực hiện được sứ mệnh ấy, đội ngũ này còn phải hiểu biết sâu sắc lịch sử và những giá trị đặc sắc của văn hóa dân tộc, biết chắt lọc, kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với tinh hoa văn hóa nhân loại trong công việc thuộc lĩnh vực được phân công. Hoạt động trong môi trường quốc tế luôn cần đến khả năng chia sẻ giá trị giữa các nền văn hóa, giúp đối tác, bạn bè hiểu biết về Việt Nam. Trên những vấn đề thường xảy ra đụng độ giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển, giữa Đông và Tây, giữa các tôn giáo, giữa các nước theo các mô hình thể chế chính trị khác nhau... thì hiểu biết về văn hóa giúp chia sẻ cách nhìn khoan dung, tránh rơi vào định kiến hoặc áp đặt giá trị, nhất là đối với các vấn đề nhạy cảm, như dân chủ, nhân quyền, tôn giáo,.. mà ngày nay còn được chuyển hóa thành cả thao tác kỹ thuật trong đàm phán tự do kinh tế theo các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Vì vậy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII cùng với yêu cầu nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của cán bộ đã xác định giải pháp phải “chú trọng nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc”(4).
Người cán bộ lãnh đạo, quản lý không chỉ giỏi về chuyên môn, vững vàng về lập trường chính trị, mà còn phải là người có đạo đức cách mạng. Hội nhập quốc tế là tham dự vào một môi trường rất phức tạp, mà ở đó người cán bộ phải luôn đối diện với cả đối tượng và đối tác, lợi ích cá nhân và lợi ích quốc gia - dân tộc, cơ hội mang lại và khả năng thua thiệt, hào quang và cạm bẫy,... đan xen nhau. Vì vậy, tăng cường phẩm chất đạo đức bảo đảm cho người cán bộ trong hội nhập quốc tế luôn giữ vững phương hướng, không mơ hồ, mất cảnh giác, không vì lợi ích cá nhân mà xem nhẹ lợi ích quốc gia - dân tộc. Đạo đức là thành tố cốt lõi của văn hóa, do đó, một khi nó được hóa thân vào trong tư tưởng, tình cảm, lẽ sống, sẽ trở thành động lực mạnh mẽ cho cán bộ hội nhập quốc tế thành công; một khi trở thành phong cách công tác và phong cách sinh hoạt đời thường sẽ tham dự tích cực vào phong cách ngoại giao mang cốt cách riêng để chinh phục và tranh thủ đối tác, cảm hóa và đấu tranh với đối tượng. 
Về trình độ, năng lực chuyên môn
Môi trường làm việc quốc tế là môi trường cạnh tranh rất khốc liệt về chuyên môn, trí tuệ và công nghệ cao, với những tiêu chuẩn, tiêu chí của giới tinh hoa các nước. Do đó, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ công tác, có hiểu biết sâu, rộng về văn hóa, phong tục, tập quán của các nước và định chế, luật pháp và thông lệ quốc tế. Để làm việc hiệu quả trong môi trường quốc tế, người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải được trang bị đủ những kiến thức về thể chế, hệ thống chính trị quốc tế và hiểu biết sâu sắc về chính trị quốc tế, đặc biệt là về quan hệ giữa các nước lớn trên thế giới, những nước có quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam, các nước ASEAN, những nước láng giềng và bạn bè truyền thống. 
Năng lực chuyên môn là cơ sở cho đàm phán, thương thảo, thực hiện các thỏa thuận hợp tác trong hội nhập quốc tế. Đặc biệt trong nhiều lĩnh vực mới mẻ đối với chúng ta trong hội nhập quốc tế, đòi hỏi cán bộ phải có nỗ lực vượt bậc để nắm bắt thì mới đủ khả năng đàm phán, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, hạn chế các thua thiệt ở mức cao nhất. Trong những lĩnh vực chuyên ngành, cán bộ không thể nắm vấn đề hời hợt, mà phải rất cụ thể, chuyên sâu về từng loại hình, cấp độ, phạm vi, quy mô với cả lợi thế và bất lợi thế,... nhờ đó mà khi thương thảo, xác định lộ trình thực hiện các cam kết hội nhập cũng như tình hình thực hiện bảo đảm cho chúng ta tận dụng được lợi thế và hạn chế bất lợi thế, vừa hội nhập, vừa tranh thủ thời gian củng cố, tăng cường năng lực các lĩnh vực, rộng hơn là năng lực cạnh tranh quốc gia. Năng lực chuyên môn sâu là cơ sở giúp nắm bắt lợi thế và bất lợi thế của từng nước, trên cơ sở đó lựa chọn đối tác và phương pháp hợp tác có khả năng bổ sung cho hạn chế của Việt Nam trong hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế cũng tạo ra các thách thức; vì vậy, trình độ, kiến thức chuyên ngành phải đủ để nhận diện, phân tích các mối đe dọa, nhờ đó xác định cách thức hợp tác hiệu quả, phòng ngừa các rủi ro và ứng phó có hiệu quả với các thách thức. 
Về tác phong, kỹ năng giao tiếp 
Làm việc trong môi trường quốc tế phải tuân theo những kỷ luật, tác phong nghiêm ngặt nhất định, đặc biệt đối với những phong cách đã trở thành giá trị phổ quát mang tính thông lệ quốc tế. Do đó, cán bộ lãnh đạo, quản lý cần có kỷ luật cao; có khả năng làm việc độc lập trong điều kiện không phải lúc nào cũng có liên hệ được với bộ phận lãnh đạo ở trong nước; có khả năng tổ chức nhóm và làm việc nhóm. Trong các cuộc đàm phán, đối tác bao giờ cũng tìm cách áp đặt các luật chơi có lợi cho họ, nên cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế phải thích ứng với cường độ lao động cao, có phong cách làm việc chuyên nghiệp, hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế. Một yêu cầu cấp bách là phải khắc phục tình trạng yếu kém về ngoại ngữ. Nhiều cán bộ làm việc chủ yếu qua phiên dịch, thường rơi vào trạng thái thụ động, tự ti trong giao tiếp, làm việc. Vì vậy, cần phải xây dựng chiến lược quốc gia về đào tạo ngoại ngữ cho cán bộ, thông qua những cách làm phù hợp, khắc phục cách đào tạo không hiệu quả tồn tại bấy lâu nay. Trong thời đại không gian số phát triển thì cán bộ phải làm chủ cả về tin học, cách thức sử dụng các phương tiện kỹ thuật số phục vụ cho hội nhập quốc tế. 
Người cán bộ lãnh đạo, quản lý không chỉ giao tiếp giỏi, mà còn phải nắm vững nghệ thuật đàm phán, thương lượng, biết cách chia sẻ các giá trị chung, quảng bá những giá trị của dân tộc khi làm việc với các đối tác quốc tế. Ngày nay, trong điều kiện bùng nổ thông tin toàn cầu, kỹ thuật số... giao tiếp không chỉ là bằng lời nói và chữ viết, cử chỉ hay ngôn ngữ cơ thể, mà còn thông qua tương tác trên nền tảng đa phương tiện, qua các ứng dụng số, mạng xã hội. Vì vậy, người cán bộ lãnh đạo, quản lý cần chủ động, nhanh chóng làm chủ kỹ năng giao tiếp này trong kỷ nguyên số. 
Về khả năng nắm bắt, đánh giá, dự báo tình hình, nhất là dự báo chiến lược
Cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan Trung ương, nhất là cán bộ cấp chiến lược có một nhiệm vụ rất quan trọng và nặng nề là tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Chính phủ và các ban, bộ, ngành về chiến lược, sách lược đối ngoại phù hợp. Vì vậy, khi làm việc trong môi trường quốc tế họ còn phải chủ động nắm bắt, đánh giá đúng thông tin, sát hợp với tình hình thực tiễn. Để khả năng dự báo đúng đắn tình hình, cục diện quốc tế, phải có tầm nhìn dài hạn, tư duy chiến lược và năng lực dự báo khoa học, nhạy bén trong nhận diện thách thức và nắm bắt thời cơ. Năng lực dự báo không hẳn là bẩm sinh, tiên nghiệm, mà nó là kết quả của quá trình được đào tạo cơ bản, nhất là các phương pháp và và dữ liệu cần thiết cho dự báo. Khả năng nhanh nhạy, linh hoạt của người cán bộ dự báo khi hoàn cảnh thay đổi dựa trên chính nguyên lý “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. 
Thực trạng và giải pháp tăng cường năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan Trung ương
Cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan Trung ương hiện có 29.093 đồng chí, trong đó có 660 cán bộ cấp tổng cục; 9.741 cán bộ cấp vụ và 18.692 cán bộ cấp phòng(5).
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII nêu rõ: Nhìn chung, đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực nói chung được nâng lên. Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. 
Tuy nhiên, năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế(6). Thực tế cho thấy, vì hạn chế về trình độ ngoại ngữ, nên nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý còn tỏ ra thiếu tự tin khi giao tiếp, làm việc với các đối tác nước ngoài. Ngoài ra, còn tình trạng một số cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan Trung ương chưa am hiểu luật pháp quốc tế, nên khả năng đàm phán, tham mưu còn hạn chế; thiếu khả năng nắm bắt, đánh giá và dự báo cục diện, tình hình quốc tế, nhất là những dự báo tầm chiến lược.
Một thực trạng khá phổ biến hiện nay là nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan Trung ương có đầy đủ bằng cấp, chứng chỉ ngoại ngữ, tin học..., nhưng lại không đủ năng lực sử dụng thực sự, lúng túng khi làm việc trong môi trường quốc tế. Một số cán bộ đi học chỉ vì bằng cấp để chuẩn hóa chức danh. Do vậy, vẫn còn khoảng cách khá xa, độ vênh rất lớn giữa bằng cấp và trình độ, năng lực thực và điều này ảnh hưởng rất nhiều tới chất lượng công việc và khả năng hội nhập quốc tế.
Tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày một sâu rộng hơn, không chỉ có những thời cơ, thuận lợi mà còn phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn. Để hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả hơn, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII chỉ rõ: Thời gian tới cũng là giai đoạn chuyển giao thế hệ từ lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, được rèn luyện, trưởng thành trong chiến tranh, chủ yếu được đào tạo ở trong nước và tại các nước xã hội chủ nghĩa, sang lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, trưởng thành trong hòa bình và được đào tạo từ nhiều nguồn, nhiều nước có thể chế chính trị khác nhau. Do đó, xuất hiện những thuận lợi, nhưng đồng thời cũng làm nảy sinh nhiều khó khăn, thách thức đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung và ở các cơ quan Trung ương nói riêng khi phải làm việc trong môi trường quốc tế. Về cơ bản, những cán bộ lãnh đạo, quản lý có lập trường chính trị vững vàng, kiên định với sự nghiệp cách mạng, song thường gặp nhiều khó khăn về trình độ ngoại ngữ, tin học, luật pháp quốc tế khi làm việc trong môi trường quốc tế hiện nay.
Những cán bộ được đào tạo bài bản ở nước ngoài, nhất là các nước phát triển trên thế giới, có được những thuận lợi rất cơ bản, như giỏi ngoại ngữ, tin học, am hiểu văn hóa, luật pháp của các nước sở tại, có tác phong, kỹ năng giao tiếp tốt, tư duy năng động, sáng tạo và được học tập, làm việc trong môi trường quốc tế, tỏ ra thích ứng tốt với môi trường làm việc quốc tế vốn mang tính đa văn hóa. Mặc dù vậy, một số cán bộ trong số đó lại chưa có phẩm chất chính trị thật sự vững vàng, chưa nắm chắc những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thiếu hiểu biết sâu sắc về lịch sử, văn hóa của dân tộc.
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách tuyển dụng sinh viên tài năng, thủ khoa xuất sắc được đào tạo ở trong nước và nước ngoài vào làm việc tại các cơ quan đảng, cơ quan nhà nước hoặc đã cố gắng cử cán bộ lãnh đạo, quản lý (từ cấp vụ trở lên) đi đào tạo, bồi dưỡng, học tập kinh nghiệm ở các nước phát triển nhằm tạo nguồn, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, nhưng kết quả đạt được vẫn chưa được như mong muốn. Chất lượng đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý đã được nâng lên một bước, nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng yêu cầu về trang bị kiến thức mới, đổi mới tác phong, kỹ năng giao tiếp... cho học viên. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ vẫn nặng về lý thuyết, ít về thực hành, chồng chéo về nội dung, cho nên cán bộ không có được những kỹ năng, năng lực cần thiết để có thể đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hội nhập quốc tế và của môi trường làm việc quốc tế. 
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới, giải pháp tăng cường năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan Trung ương cần tập trung vào mấy định hướng cơ bản sau đây: 
Thứ nhất, cần sớm sơ kết việc thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-04-2013, của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế. Trong đó cần làm rõ: 1- Nguyên nhân của hạn chế và yếu kém xuất phát từ vấn đề chất lượng nguồn nhân lực, từ cán bộ, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị; 2- Đánh giá cụ thể mức độ chuyển biến chất lượng nguồn nhân lực sau 5 năm thực hiện Nghị quyết bảo đảm sát hợp với từng ngành, từng lĩnh vực với các tiêu chí có thể đo đạc; 3- Nhận diện rõ những biến chuyển của tình hình quốc tế và nhu cầu mới về hội nhập quốc tế hiện nay để xây dựng tiêu chí và giải pháp tăng cường năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của cán bộ phù hợp, trong đó cán bộ ở các cơ quan Trung ương phải được đặt một vị trí đặc biệt quan trọng. 
Thứ hai, đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cấp về tầm quan trọng của năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là ở các cơ quan Trung ương trong điều kiện hội nhập quốc tế. Làm tốt công tác thông tin đối ngoại về hội nhập quốc tế, bao gồm cả tuyên truyền trong nước và tuyên truyền ở nước ngoài. Tuyên truyền không chỉ dừng lại ở những lời kêu gọi, động viên chung chung mà phải tổng kết được những mô hình hay, cách làm hiệu quả, những cá nhân tiêu biểu để nêu gương, tạo hiệu ứng lan tỏa sâu rộng trong xã hội. Những trường hợp tụt hậu, chậm tiến, không đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế phải bị phê bình, tạo áp lực dư luận để cán bộ không ngừng tự mình vươn lên. Các báo, đài phải dành những “giờ vàng”, những vị trí trang trọng để tuyên truyền cho hội nhập quốc tế và tăng cường năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của cán bộ. Tận dụng mạng xã hội để tuyên truyền, cổ vũ, động viên các mô hình tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, có nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu làm việc trong môi trường quốc tế. 
Thứ ba, gắn trách nhiệm của bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cơ quan Trung ương trong nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế. Bản thân người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị phải nêu gương về nâng cao năng lực làm việc trong môi trường quốc tế cả về bản lĩnh chính trị, đạo đức, khả năng sử dụng ngoại ngữ, định hình phong cách, kỹ năng hội nhập. Bí thư cấp ủy, thủ trưởng phải xây dựng chương trình, kế hoạch rất cụ thể cho toàn thể ngành, cơ quan, đơn vị về tăng cường năng lực làm việc trong môi trường quốc tế với những mục tiêu, lộ trình cụ thể gắn với xác định nguồn lực đầu tư, các hạng mục công việc phải hoàn thành, thứ tự ưu tiên. Hằng năm có đánh giá rất cụ thể mức độ hoàn thành chương trình, kế hoạch đó gắn với đổi mới chế độ thi đua - khen thưởng. Phải gắn đánh giá năng lực làm việc trong môi trường quốc tế của cán bộ với đánh giá khả năng hoàn thành nhiệm vụ của bản thân mỗi cán bộ. 
Thứ tư, xây dựng Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp (trong đó có cán bộ ở các cơ quan Trung ương) có đủ năng lực làm việc trong môi trường quốc tế, đáp ứng tốt yêu cầu hội nhập quốc tế. 
Chương trình quốc gia phải bao quát toàn diện các năng lực hội nhập từ các năng lực nhân văn, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học đến các kỹ năng khác. Đó là phải nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị bảo đảm cho cán bộ nắm vững chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đủ bản lĩnh, kiên định và vững vàng trước mọi thay đổi của môi trường quốc tế, trước mọi đối tác và đối tượng; quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng, luật pháp của Nhà nước để thao tác, xử lý những vấn đề cụ thể mà chuyên môn - nghiệp vụ đòi hỏi khi hội nhập quốc tế; có vốn văn hóa để mỗi cán bộ đủ bản lĩnh, tự tin, danh dự, ý thức tự cường trong hội nhập, không bị các thách thức của môi trường quốc tế làm hòa tan, biến chất, nhất là với cán bộ được đào tạo ở nước ngoài; có đạo đức cách mạng để luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, cảnh giác với mọi cám dỗ, đấu tranh với những hành vi đe dọa đến an ninh quốc gia; có chuyên môn sâu, vững chắc để đàm phán, thương thảo, thực thi các cam kết quốc tế một cách chuyên nghiệp, bảo vệ lợi ích quốc gia, hạn chế các thua thiệt do áp lực của hội nhập quốc tế; sử dụng thành thục ngoại ngữ; có phong cách, kỹ năng mềm và kiến thức tin học phục vụ cho làm việc trong môi trường quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, cấp bách nhất của Chương trình quốc gia là phải nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ ở các cơ quan Trung ương một cách thực chất, có thời gian thỏa đáng đào tạo tại nước ngoài, có thời gian thực hành, áp dụng vào vị trí việc làm. 
Ban Tổ chức Trung ương chủ trì phối hợp với Bộ Nội vụ xây dựng khung năng lực về làm việc trong môi trường quốc tế phù hợp với từng vị trí, chức danh của cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, trong đó xác định rõ những tiêu chí về năng lực làm việc trong môi trường quốc tế (trên các phương diện: tư tưởng, lập trường chính trị; trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ; tác phong, kỹ năng giao tiếp, khả năng đánh giá, dự báo...). Đây là cơ sở cho thiết kế Chương trình quốc gia về đào tạo cán bộ đủ năng lực làm việc trong môi trường quốc tế. Đồng thời, mỗi cơ quan, đơn vị dựa vào đó để đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ. 
Thứ năm, tạo cơ chế, chính sách thu hút, tuyển dụng những sinh viên tốt nghiệp loại xuất sắc, những trí thức, nhà khoa học, doanh nhân giỏi... ở nước ngoài về làm việc trong các cơ quan đảng, nhà nước, cùng với chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, sàng lọc nhằm tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý có năng lực làm việc tốt trong môi trường quốc tế, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực cho công tác đối ngoại và phát triển đất nước. 
Thứ sáu, có chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ hoạt động đối ngoại chuyên nghiệp, có năng lực xuất sắc, đáp ứng yêu cầu làm việc trong các định chế quốc tế, thông qua đó góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Những cán bộ này cần được đào tạo một cách bài bản, căn cơ, có đầu tư đặc biệt, xứng đáng cả về tinh thần lẫn vật chất và tạo điều kiện cho họ rèn luyện, đóng góp, phát huy hết khả năng của mình trong môi trường làm việc quốc tế.
Thứ bảy, đẩy mạnh hợp tác quốc tế và thu hút tư nhân tham gia đào tạo nguồn nhân lực đủ năng lực làm việc trong môi trường quốc tế. Đối với những lĩnh vực mà các đối tác, các nước có thế mạnh, chúng ta phải chủ động thúc đẩy hợp tác để tranh thủ nguồn lực hỗ trợ, đặc biệt trên các phương diện luật quốc tế, chuyên môn sâu với những ngành mới, đào tạo ngoại ngữ... Hội nhập quốc tế là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, vì vậy, phải thu hút cả khu vực doanh nghiệp tham gia đào tạo nguồn nhân lực thông qua các cơ chế đối tác công tư; tạo thành một phong trào xã hội, một xu hướng phản ánh tiến bộ xã hội khi mỗi người đều có ý thức tự giác, định hình nhu cầu tăng cường năng lực làm việc trong môi trường quốc tế./.
-------------------------------------------------

(1) Xem: GS, TS. Phùng Hữu Phú, GS, TS. Lê Hữu Nghĩa, GS, TS. Vũ Văn Hiền, PGS, TS. Nguyễn Viết Thông (Đồng chủ biên): Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 761
(2) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII (lưu hành nội bộ), Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2018, tr. 58 - 60
(3) Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, của Bộ Chính tri,̣ Về hội nhập quốc tế
(4) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII (lưu hành nội bộ), Sđd, tr. 61
(5) Ban Tuyên giáo Trung ương: Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tr. 39
(6) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII (lưu hành nội bộ), Sđd, tr. 47
Nguyễn Chí Hiếu
PGS, TS, Tạp chí Cộng sản

VIỆT NAM ĐÓNG GÓP TÍCH CỰC, CÓ TRÁCH NHIỆM TẠI APEC 26


VIỆT NAM ĐÓNG GÓP TÍCH CỰC, CÓ TRÁCH NHIỆM TẠI APEC 26
Phát huy vai trò của nước chủ nhà APEC 2017, Đoàn đại biểu cấp cao nước ta do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc dẫn đầu đã đóng góp tích cực chủ động và có trách nhiệm tại Tuần lễ Cấp cao năm nay.
Từ ngày 12-18/11 tại Papua New Guinea đã diễn ra Tuần lễ Cấp cao APEC lần thứ 26, kết thúc Hội nghị, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn, đã trả lời phỏng vấn về kết quả của Hội nghị, và những đóng góp của Đoàn Việt Nam tại hội nghị lần này.
Phóng viên (PV): Xin Thứ trưởng thường trực cho biết những kết quả chính của Tuần lễ Cấp cao 2018 vừa diễn ra từ ngày 12-18/11 tại Papua New Guinea?
Thứ trưởng Bùi Thanh Sơn: Tuần lễ Cấp cao APEC lần thứ 26 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực chuyển biến nhanh chóng và sâu sắc. Cạnh tranh thương mại giữa các nước lớn gay gắt. Hệ thống thương mại đa phương đứng trước nhiều thách thức.
Trong bối cảnh đó, các thành viên đã thúc đẩy một số kết quả quan trọng nhằm triển khai cam kết của các nhà Lãnh đạo tại Tuần lễ Cấp cao APEC 2017 về liên kết kinh tế khu vực, kết nối toàn diện, kinh tế số, tăng trưởng bền vững và bao trùm.
Thứ nhất, các thành viên nhất trí nỗ lực hoàn tất thực hiện các Mục tiêu Bogor về tự do hóa thương mại và đầu tư vào năm 2020, thúc đẩy thương mại điện tử, dịch vụ, giải quyết các hàng rào phi quan thuế, hướng tới hình thành Khu vực Thương mại tự do châu Á – Thái Bình Dương (FTAAP). Hội nghị nhất trí đẩy nhanh thực hiện
Kế hoạch tổng thể kết nối APEC đến năm 2025, chú trọng kết nối hạ tầng - thể chế - con người, đầu tư hạ tầng chất lượng, kết nối chuỗi cung ứng, tiểu vùng, vùng sâu, vùng xa, tăng tính bổ trợ giữa các sáng kiến kết nối khu vực….
Thứ hai, triển khai Chương trình hành động về phát triển bao trùm và Khuôn khổ phát triển nguồn nhân lực trong kỷ nguyên số được thông qua tại Đà Nẵng, các thành viên ủng hộ thúc đẩy tăng trưởng bền vững, sáng tạo, bao trùm, đẩy mạnh cải cách cơ cấu, hỗ trợ doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa (MSMEs), phát triển nông thôn-đô thị, nâng cao quyền năng kinh tế của phụ nữ. Những kết quả này tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của APEC đóng góp thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên hợp quốc (SDGs).
Thứ ba, theo Lộ trình kinh tế mạng và kinh tế số được thông qua năm 2017, tại Hội nghị lần này, các thành viên đã đề ra một số biện pháp nhằm tạo môi trường mở, dễ tiếp cận và an toàn cho kinh tế số, tăng trưởng bao trùm về số, phát triển cơ sở hạ tầng số, thương mại số, thúc đẩy sáng tạo và các công nghệ số, đào tạo kỹ năng và thu hẹp khoảng cách số.
Thứ tư, các thành viên nhất trí đẩy mạnh triển khai cam kết đạt được năm 2017 về xây dựng Tầm nhìn APEC sau năm 2020. Hội nghị ủng hộ xây dựng Tầm nhìn APEC sau 2020 hướng tới cộng đồng châu Á – Thái Bình Dương hòa bình, ổn định, năng động, gắn kết và thịnh vượng, vì người dân và doanh nghiệp.
Bên cạnh nhiều kết quả quan trọng đạt được, Hội nghị cũng bộc lộ quan điểm khác biệt sâu sắc giữa một số thành viên, nhất là giữa Mỹ và Trung Quốc về bảo hộ thương mại và hệ thống thương mại đa phương. Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến Hội nghị Cấp cao kết thúc không thông qua được Tuyên bố của các nhà Lãnh đạo APEC như thông lệ.
Hội nghị năm nay là lần đầu tiên trong 26 kỳ Hội nghị Cấp cao APEC mà các nhà Lãnh đạo không đưa ra được Tuyên bố chung. Đây là kết quả thất vọng đối với tất cả các thành viên, song cũng phản ánh tình hình căng thẳng trong quan hệ thương mại quốc tế giai đoạn hiện nay.
Tuy vậy, các thành viên đều bày tỏ tin tưởng vào vai trò quan trọng không thể thiếu của APEC, một cơ chế liên kết kinh tế đã đứng vững qua nhiều thăng trầm trong ba thập niên phát triển, đồng thời đã khẳng định vị thế là cơ chế liên kết kinh tế hàng đầu, có quy mô lớn nhất tại châu Á – Thái Bình Dương, góp phần quan trọng đưa khu vực trở thành động lực của tăng trưởng và liên kết kinh tế toàn cầu.
Các nhà Lãnh đạo APEC sẽ gặp lại nhau tại Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ 27 vào tháng 11/2019 tại thủ đô Santiago của Chile để tiếp tục thúc đẩy hợp tác và liên kết kinh tế trong APEC và tại châu Á – Thái Bình Dương.
PV: Xin Thứ trưởng cho biết Việt Nam tiếp tục tham gia và những đóng góp như thế nào tại Tuần lễ Cấp cao năm nay?
Thứ trưởng Bùi Thanh Sơn: Phát huy vai trò của nước chủ nhà APEC 2017, Đoàn đại biểu cấp cao nước ta do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc dẫn đầu đã đóng góp tích cực, chủ động và có trách nhiệm tại Tuần lễ Cấp cao năm nay.
Thủ tướng Chính phủ đã đề xuất nhiều định hướng đẩy mạnh thương mại và đầu tư tự do và mở, liên kết kinh tế khu vực, kết nối và phát huy vai trò đi đầu của APEC trong thúc đẩy trật tự quốc tế dựa trên luật lệ, ủng hộ vai trò của các định chế toàn cầu, hệ thống thương mại đa phương mở, minh bạch, công bằng và vai trò trung tâm của WTO.
Thủ tướng Chính phủ đề nghị APEC cần đóng vai trò khởi xướng, “vườn ươm” cho những ý tưởng về đổi mới sáng tạo để châu Á – Thái Bình Dương trở thành trung tâm công nghệ toàn cầu. Thủ tướng Chính phủ cũng đưa ra nhiều đề xuất nhằm phát triển kinh tế số, nổi bật là, kết nối số, thương mại số, công nghệ tài chính, kết nối các trung tâm đổi mới sáng tạo, đầu tư hạ tầng số, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số, hỗ trợ các thành viên đang phát triển chuyển đổi cơ cấu, xây dựng năng lực quản trị, nền tảng công nghệ số, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo tại châu Á – Thái Bình Dương.
Đoàn ta đã phối hợp với các thành viên đẩy mạnh triển khai các kết quả quan trọng của Năm APEC 2017. Thủ tướng Chính phủ đề nghị APEC cần thúc đẩy tăng trưởng bao trùm và sáng tạo, thực hiện SDGs, đặt người dân vào trung tâm của phát triển, bảo đảm an ninh lương thực, an ninh nguồn nước và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Với vai trò khởi xướng xây dựng Tầm nhìn APEC sau năm 2020 của Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra nhiều đề xuất nhằm hướng tới xây dựng cộng đồng châu Á - Thái Bình Dương hòa bình, ổn định, năng động, gắn kết và thịnh vượng.
Đoàn ta cũng tích cực đóng góp thúc đẩy những quan tâm chung về duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực, kết nối tiểu vùng, vùng sâu vùng xa, nâng cao năng lực, quản lý và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên, trong đó có nguồn nước.
Trước tình hình căng thẳng của Hội nghị, trên cơ sở kinh nghiệm và những kết quả của năm 2017, Đoàn ta cũng phối hợp chặt chẽ với các nước ASEAN và chủ nhà Papua New Guinea đưa ra nhiều giải pháp để hỗ trợ tháo gỡ khó khăn.
Trong dịp Tuần lễ Cấp cao, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã có các cuộc hội đàm, trao đổi sâu rộng với nhiều lãnh đạo các nền kinh tế, trong đó có Thủ tướng chủ nhà Papua New Guinea, New Zealand, Vanuatu, Lãnh đạo các quốc đảo Thái Bình Dương và nhiều thành viên APEC khác. Thủ tướng đã tọa đàm với nhiều doanh nghiệp lớn thành viên ABAC và Liên minh doanh nghiệp Hoa Kỳ trong APEC.
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh cũng đã có cuộc gặp với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao New Zealand, các Bộ trưởng Ngoại giao Papua New Guinea, Nhật Bản, Australia và nhiều Bộ trưởng Ngoại giao APEC, gặp và trao văn bản phê chuẩn Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cho Bộ trưởng Thương mại và Xuất khẩu New Zealand.  
Nhiều thành viên chúc mừng và đánh giá cao việc chúng ta chính thức trao văn kiện phê chuẩn Hiệp định CPTPP cho New Zealand - nước lưu chiểu Hiệp định - trong dịp Tuần lễ Cấp cao APEC cũng như những thành tựu phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế của ta thời gian gần đây. 
Thủ tướng và Lãnh đạo các nước đã nhất trí về những phương hướng và các biện pháp thúc đẩy quan hệ song phương và tăng cường hợp tác, phối hợp trên các diễn đàn đa phương. Các nhà lãnh đạo nhất trí phối hợp chặt chẽ để thúc đẩy các kết quả mà APEC đã đạt được trong năm 2017 tại Việt Nam và 2018 tại Papua New Guinea. Lãnh đạo các nước cũng khẳng định hoặc tái khẳng định sự ủng hộ đối với việc Việt Nam ứng cử vào vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021 và tin tưởng Việt Nam sẽ đảm nhiệm thành công vai trò này.
Lãnh đạo các doanh nghiệp đánh giá cao vai trò ngày càng tăng của Việt Nam trong chuỗi sản xuất khu vực và toàn cầu cũng như quyết tâm của chính phủ trong kiến tạo phát triển, tiếp tục đổi mới và hội nhập quốc tế. Các doanh nghiệp đã khẳng định sẽ sớm thúc đẩy các hoạt động kinh doanh hoặc tiếp tục tăng cường, mở rộng đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam.
Những hoạt động song phương nói trên đã góp phần làm tăng thêm hiệu quả của Việt Nam khi tham gia các hoạt động của Tuần lễ Cấp cao APEC 2018, đem lại những lợi ích thiết thực cho đất nước và nâng cao vị thế quốc tế của nước ta.
PV: Xin cảm ơn Thứ trưởng./.
Mạnh Hùng
http://dangcongsan.vn/thoi-su/viet-nam-dong-gop-tich-cuc-co-trach-nhiem-tai-apec-26-505465.html

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC BẢN CHẤT CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA DO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO


KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC BẢN CHẤT CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA DO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO

Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam ngày nay do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng. Bản chất của chế độ đó là quyền làm chủ của nhân dân gắn liền với bảo vệ độc lập dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Tư tưởng đó xuyên suốt các giai đoạn cách mạng Việt Nam từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (năm 1930), qua các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược cho đến ngày nay-sự nghiệp xây dựng đất nước, hội nhập quốc tế. Thế nhưng, vì những mục tiêu xấu độc, trên internet, mạng xã hội (MXH) có kẻ cho rằng “Nhà nước Việt Nam theo mô hình Xô viết”, chế độ “độc tài toàn trị'', ''lệ thuộc vào nước ngoài''... Vậy lịch sử và thực tiễn chế độ xã hội XHCN ở Việt Nam đã vận động và phát triển như thế nào?
 Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo-Chính cương vắn tắt của Đảng (năm 1930)-xác định mục tiêu trước mắt của Đảng Cộng sản Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Về xã hội: “Dân chúng được tự do tổ chức; nam, nữ bình quyền”… Về chính trị: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập”…
Sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám, trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, tư tưởng gắn chế độ dân chủ với nền độc lập dân tộc được Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng cao từ những giá trị tư tưởng lớn trong Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ (năm 1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (năm 1789). Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”… “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Vào năm 1966, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đang ở giai đoạn quyết liệt, kế thừa, phát triển tư tưởng gắn liền chế độ dân chủ với độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát một chân lý thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”!
Sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, Bắc-Nam sum họp một nhà (năm 1975), mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam là “Dân giàu, nước mạnh”. Tuy nhiên, nhận thức về chế độ dân chủ có lúc cũng phạm những sai lầm. Thời kỳ từ khi đất nước được hoàn toàn giải phóng đến trước Đại hội VI (1975-1985), Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng xã hội theo mô hình cũ của CNXH. Về chính trị, đó là xây dựng “Nhà nước chuyên chính vô sản”; về kinh tế đó là xây dựng “nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung” với hai thành phần duy nhất là kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Do đó, nhiều quyền về chính trị, kinh tế của người dân không được tôn trọng, bảo đảm.
Từ Đại hội VI (năm 1986) đến Đại hội XI (năm 2011) và Đại hội XII (năm 2016), Đảng Cộng sản Việt Nam đã chuyển sang đường lối đổi mới. Mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam là xây dựng chế độ XHCN gắn với độc lập dân tộc. “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)” được Đại hội XI của Đảng thông qua, xác định mục tiêu tổng quát của Đảng Cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam là xây dựng xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;… có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011, Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể hơn các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Có thể khẳng định Hiến pháp năm 2013 và hệ thống pháp luật của Việt Nam không chỉ tương thích với pháp luật quốc tế mà còn tiên tiến hơn nhiều quốc gia, trong đó có việc ký kết các công ước quốc tế về quyền con người. Thực tế, có quốc gia phát triển cao nhưng chưa phê chuẩn “Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa”, hoặc có quốc gia không gia nhập “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị”. Trong khi đó, Việt Nam đã gia nhập cả hai công ước nói trên.
Không phải ngẫu nhiên Điều 4, Hiến pháp 2013 quy định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo xã hội và Nhà nước. Lịch sử hơn 80 năm, từ khi ra đời đến nay (1930-2018), Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng chính trị duy nhất lãnh đạo cuộc đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam; đồng thời, cũng là tổ chức chính trị dẫn dắt dân tộc Việt Nam sớm đi vào trào lưu văn minh của nhân loại.
Đại hội XII của Đảng xác định đường lối đối ngoại, quan hệ quốc tế của Việt Nam là “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển... Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước”(1).
Trong giai đoạn 1989-1991, Việt Nam luôn phải đối diện với nhiều nguy cơ, thách thức, việc xác định “đối tác”, “đối tượng” của cách mạng là vấn đề chính trị mới và nhạy cảm. Hội nghị Trung ương 8, khóa IX của Đảng đề ra “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Trên tinh thần thêm bạn, bớt thù, phân hóa, cô lập các thế lực thù địch, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định “đối tác” và “đối tượng” của cách mạng Việt Nam có nguyên tắc và linh hoạt: “Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh…”, trong đối tác có thể có đối tượng và ngược lại. Như vậy, thay vì quan điểm chính trị trong thời kỳ chiến tranh lạnh-lấy ý thức hệ làm tiêu chí “bạn”, “thù”, thì nay Đảng Cộng sản Việt Nam lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm tiêu chí bạn-thù. Đồng thời, lấy nguyên tắc tôn trọng chế độ chính trị, hai bên cùng có lợi làm tiêu chí để hợp tác với các quốc gia không phân biệt chế độ chính trị, ý thức hệ.
Ngày nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đặt trong bối cảnh chính trị quốc tế, khu vực và sự ra đời của internet, MXH, nguy cơ những cuộc chiến tranh xâm lược bằng vũ trang cổ điển dường như giảm đi, thì nguy cơ mất chế độ xã hội từ những chiến lược “mềm”-chiến lược “diễn biến hòa bình” với thủ đoạn lợi dụng internet, MXH có xu hướng tăng lên. Ứng phó với cuộc chiến này, vũ khí của chúng ta không chỉ bằng công tác tư tưởng, chính trị, mà còn bằng pháp luật và các chế tài theo luật định.
Các thế lực thù địch trong và ngoài nước gần đây đã tăng cường hoạt động nhằm từng bước chuyển hóa chế độ xã hội ở Việt Nam sang con đường tư bản chủ nghĩa. Những vụ án liên quan đến tội “lợi dụng quyền tự do ngôn luận…” gần đây là một ví dụ. Chẳng hạn, Tòa án Nhân dân (TAND) tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm bị cáo Lê Đình Lượng về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” (ngày 16-8-2018). Trước đó, vụ Trần Thị Nga (Hà Nam), Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Đà Nẵng) cùng tội danh và cùng thủ đoạn sử dụng internet, MXH để tung tin xuyên tạc chế độ xã hội và Nhà nước Việt Nam. Gần đây nhất, ngày 19-9-2018, TAND tỉnh Hòa Bình xét xử bị cáo Đào Quang Thực về tội danh “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Những bản án nghiêm khắc cho các đối tượng chống phá chế độ nói trên để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân là cần thiết.
Chế độ dân chủ nhân dân, nay là dân chủ XHCN do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng. Bản chất của chế độ là bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân gắn liền với bảo vệ độc lập dân tộc. Chế độ đó đã trải qua nhiều thời kỳ lịch sử và phát triển cùng với nền văn minh nhân loại. Toàn thể dân tộc Việt Nam không cho phép bất cứ ai, với bất cứ lý do gì để xuyên tạc, bôi nhọ chế độ xã hội mà cả dân tộc đã đổ không biết biết bao nhiêu mồ hôi, xương máu để giành và bảo vệ chế độ đó.
BẮC HÀ
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia, 2016, tr.153.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...