KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC
BẢN CHẤT CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA DO
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
Chế
độ dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam ngày nay do Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng. Bản chất của chế độ đó là quyền làm chủ
của nhân dân gắn liền với bảo vệ độc lập dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Tư tưởng đó xuyên suốt các giai đoạn cách mạng Việt Nam từ
khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (năm 1930), qua các cuộc kháng chiến chống
thực dân, đế quốc xâm lược cho đến ngày nay-sự nghiệp xây dựng đất nước, hội
nhập quốc tế. Thế nhưng, vì những mục tiêu xấu độc, trên internet, mạng xã hội
(MXH) có kẻ cho rằng “Nhà nước Việt Nam theo mô hình Xô viết”, chế độ “độc tài
toàn trị'', ''lệ thuộc vào nước ngoài''... Vậy lịch sử và thực tiễn chế độ xã
hội XHCN ở Việt Nam đã vận động và phát triển như thế nào?
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ
tịch Hồ Chí Minh khởi thảo-Chính cương vắn tắt của Đảng (năm 1930)-xác định mục
tiêu trước mắt của Đảng Cộng sản Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Về xã hội: “Dân chúng
được tự do tổ chức; nam, nữ bình quyền”… Về chính trị: “Đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập”…
Sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám, trong Tuyên ngôn
Độc lập ngày 2-9-1945, tư tưởng gắn chế độ dân chủ với nền độc lập dân tộc được
Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng cao từ những giá trị tư tưởng lớn trong Tuyên ngôn
Độc lập của Hoa Kỳ (năm 1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp
(năm 1789). Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền
bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong
những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”…
“Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh
ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Vào năm 1966, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân Việt Nam đang ở giai đoạn quyết liệt, kế thừa, phát triển tư tưởng
gắn liền chế độ dân chủ với độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát
một chân lý thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”!
Sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, Bắc-Nam sum họp
một nhà (năm 1975), mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam là “Dân giàu, nước
mạnh”. Tuy nhiên, nhận thức về chế độ dân chủ có lúc cũng phạm những sai lầm.
Thời kỳ từ khi đất nước được hoàn toàn giải phóng đến trước Đại hội VI
(1975-1985), Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng xã hội theo mô
hình cũ của CNXH. Về chính trị, đó là xây dựng “Nhà nước chuyên chính vô sản”;
về kinh tế đó là xây dựng “nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung” với hai thành
phần duy nhất là kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Do đó, nhiều quyền về
chính trị, kinh tế của người dân không được tôn trọng, bảo đảm.
Từ Đại hội VI (năm 1986) đến Đại hội XI (năm 2011) và Đại hội
XII (năm 2016), Đảng Cộng sản Việt Nam đã chuyển sang đường lối đổi mới.
Mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam là xây dựng chế độ XHCN gắn với độc
lập dân tộc. “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)” được Đại hội XI của Đảng thông qua, xác
định mục tiêu tổng quát của Đảng Cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam là xây
dựng xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm
chủ; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện;… có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế
giới.
Thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011,
Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể hơn các quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân. Có thể khẳng định Hiến pháp năm 2013 và hệ thống pháp luật
của Việt Nam không chỉ tương thích với pháp luật quốc tế mà còn tiên tiến hơn
nhiều quốc gia, trong đó có việc ký kết các công ước quốc tế về quyền con
người. Thực tế, có quốc gia phát triển cao nhưng chưa phê chuẩn “Công ước quốc
tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa”, hoặc có quốc gia không gia nhập
“Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị”. Trong khi đó, Việt Nam đã
gia nhập cả hai công ước nói trên.
Không phải ngẫu nhiên Điều 4, Hiến pháp 2013 quy định Đảng
Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo xã hội và Nhà nước. Lịch sử hơn 80 năm,
từ khi ra đời đến nay (1930-2018), Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng chính trị duy
nhất lãnh đạo cuộc đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc của nhân dân Việt
Nam; đồng thời, cũng là tổ chức chính trị dẫn dắt dân tộc Việt Nam sớm đi vào
trào lưu văn minh của nhân loại.
Đại hội XII của Đảng xác định đường lối đối ngoại, quan hệ
quốc tế của Việt Nam là “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc, trên cơ
sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển... Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững
hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất
nước”(1).
Trong giai đoạn 1989-1991, Việt Nam luôn phải đối diện với
nhiều nguy cơ, thách thức, việc xác định “đối tác”, “đối tượng” của cách mạng
là vấn đề chính trị mới và nhạy cảm. Hội nghị Trung ương 8, khóa IX của Đảng đề
ra “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Trên tinh thần thêm
bạn, bớt thù, phân hóa, cô lập các thế lực thù địch, Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định “đối tác” và “đối tượng” của cách mạng Việt Nam có nguyên tắc và linh
hoạt: “Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng
quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác
của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của
nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu
tranh…”, trong đối tác có thể có đối tượng và ngược lại. Như vậy, thay vì quan
điểm chính trị trong thời kỳ chiến tranh lạnh-lấy ý thức hệ làm tiêu chí “bạn”,
“thù”, thì nay Đảng Cộng sản Việt Nam lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm
tiêu chí bạn-thù. Đồng thời, lấy nguyên tắc tôn trọng chế độ chính trị, hai bên
cùng có lợi làm tiêu chí để hợp tác với các quốc gia không phân biệt chế độ
chính trị, ý thức hệ.
Ngày nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đặt trong bối
cảnh chính trị quốc tế, khu vực và sự ra đời của internet, MXH, nguy cơ những
cuộc chiến tranh xâm lược bằng vũ trang cổ điển dường như giảm đi, thì nguy cơ
mất chế độ xã hội từ những chiến lược “mềm”-chiến lược “diễn biến hòa bình” với
thủ đoạn lợi dụng internet, MXH có xu hướng tăng lên. Ứng phó với cuộc chiến
này, vũ khí của chúng ta không chỉ bằng công tác tư tưởng, chính trị, mà còn
bằng pháp luật và các chế tài theo luật định.
Các thế lực thù địch trong và ngoài nước gần đây đã tăng
cường hoạt động nhằm từng bước chuyển hóa chế độ xã hội ở Việt Nam sang con
đường tư bản chủ nghĩa. Những vụ án liên quan đến tội “lợi dụng quyền tự do
ngôn luận…” gần đây là một ví dụ. Chẳng hạn, Tòa án Nhân dân (TAND) tỉnh Nghệ
An xét xử sơ thẩm bị cáo Lê Đình Lượng về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính
quyền nhân dân” (ngày 16-8-2018). Trước đó, vụ Trần Thị Nga (Hà Nam), Nguyễn
Ngọc Như Quỳnh (Đà Nẵng) cùng tội danh và cùng thủ đoạn sử dụng internet, MXH
để tung tin xuyên tạc chế độ xã hội và Nhà nước Việt Nam. Gần đây nhất, ngày
19-9-2018, TAND tỉnh Hòa Bình xét xử bị cáo Đào Quang Thực về tội danh “Hoạt
động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Những bản án nghiêm khắc cho các đối
tượng chống phá chế độ nói trên để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng,
bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân là cần thiết.
Chế độ dân chủ nhân dân, nay là dân chủ XHCN do Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng. Bản chất của chế độ là bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân gắn liền với bảo vệ độc lập dân tộc. Chế độ đó đã
trải qua nhiều thời kỳ lịch sử và phát triển cùng với nền văn minh nhân loại.
Toàn thể dân tộc Việt Nam không cho phép bất cứ ai, với bất cứ lý do gì để
xuyên tạc, bôi nhọ chế độ xã hội mà cả dân tộc đã đổ không biết biết bao nhiêu
mồ hôi, xương máu để giành và bảo vệ chế độ đó.
BẮC HÀ
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia, 2016, tr.153.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét