Chủ Nhật, 12 tháng 11, 2023

Lật tẩy những chiêu trò lợi dụng dịch bệnh để móc túi người dân

Sử dụng phương tiện vận tải, treo băng rôn cứu trợ đồng bào miền Nam nhưng thực chất là vận chuyển hàng hóa kinh doanh; đăng tải thông tin buôn bán thực phẩm trên mạng xã hội trong thời điểm giãn cách xã hội, nhận tiền chuyển khoản nhưng không giao hàng; hay giả bộ gửi quà từ thiện nhưng thực chất giao nhận ma túy…

Ông Lê Minh Hiếu - Chủ tịch UBND phường 26, quận Bình Thạnh (TP Hồ Chí Minh) cho biết, thời gian giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ, các đoàn kiểm tra của phường ghi nhận nhiều trường hợp xe ôtô, xe tải dán băng rôn “người dân ở… hướng về Sài Gòn”, “chuyến xe 0 đồng”,“đoàn xe từ thiện”, xe chữ thập đỏ hay “tôi yêu Sài Gòn”… qua chốt kiểm soát với lý do đem quà vào chung sức cùng người dân TP Hồ Chí Minh chồng dịch nhưng thực tế là để…giao hàng chui.

Tại bãi xe 397 Đinh Bộ Lĩnh, các tổ công tác đã phát hiện nhiều người dân tập trung chờ nhận hàng hóa nên đã tạm phong tỏa, yêu cầu nhà xe dùng dịch vụ giao hàng tận nhà hoặc hẹn giờ khách đến nhận để tránh tập trung đông người. Không vào được bãi, nhiều nhà xe chuyển sang giao hàng ngay trên lề đường quốc lộ 13. Tại đây nhiều xe dán băng rôn trá hình “cứu trợ” để vận chuyển hàng hóa, đa phần là thực phẩm từ các tỉnh gởi vào cho những người đặt trước, hoặc người ngoài quê mua chuyển vào cho bà con trong TP Hồ Chí Minh, nhà xe thu phí chuyên chở. 

Việc tụ tập, giao nhận hàng hóa với số lượng người đông gây nguy cơ lây nhiễm dịch bệnh cao. Các tổ công tác liên tục tuần tra kiểm soát, khi bị phát hiện nhiều nhà xe bỏ mặc hàng hóa tại chỗ. “Vì hàng hóa chủ yếu là thực phẩm nên UBND phường đã tạo điều kiện cho bà con đến nhận. Với những trường hợp mạo danh cứu trợ để kinh doanh vận chuyển hàng hóa, chúng tôi đang tìm phương án xử lý thích hợp!” - Ông Hiếu cho biết.

Thời điểm mới bắt đầu giãn cách theo Chỉ thị 16, người dân lo sợ thiếu nguồn thực phẩm nên đổ xô đi mua về dự trữ. Nhiều người không mua được hàng hóa nên đã tìm mọi cách để có thực phẩm thiết yếu cho gia đình, và cách lựa chọn vừa an toàn lại không phải xếp hàng đợi hàng giờ để được vào siêu thị mua đồ đó là đặt hàng qua mạng. Nhiều đối tượng đã lợi dụng mạng xã hội đăng tải thông tin có thực phẩm bán với giá rẻ khiến nhiều người mắc bẫy…

Do biết thông tin giãn cách xã hội trễ, ngày cuối chị P.T.H (nhà ở quận 6) mới huy động các thành viên trong nhà đến siêu thị, trung tâm mua sắm mua thực phẩm về dự trữ. Dù chia các thành viên trong gia đình ra đến đến 3-4 siêu thị, AEON, Bách Hóa Xanh nhưng nơi nào cũng đông nghẹt người. Hàng hóa đã bị “vét sạch” nên cả gia đình chị H ra về tay trắng. 

Dạo quanh mạng xã hội, chị H thấy nhiều người đăng tải thông tin bán thực phẩm, các thành viên trong gia đình nhanh chóng vào cuộc “đặt hàng online”. Có nơi không trả lời tin nhắn, có trang nói phải 5 ngày đến 1 tuần mới giao hàng. Trong lúc chán nản thì chị H lướt thấy trang “H.T.T” bán đủ các loại thực phẩm từ tôm thịt đến rau củ, có cả đặc sản thú rừng nên chị nhanh tay đặt hàng với số lượng lớn. Chủ trang yêu cầu chị H phải đặt cọc 650 ngàn vì sợ bị “bom hàng”. 

Sau khi chuyển khoản và được chủ trang hứa hẹn sẽ nhận hàng trong vòng 1 ngày, chị H chờ đợi. Tuy nhiên một tuần trôi qua, phía chủ trang không thấy hồi âm. Vào trang đăng tải thông tin mua bán thực phẩm thì trang này bị chặn, hình ảnh bị xóa, gọi điện thì máy ò í e… Kiểm tra các nguồn thông tin, chị H mới biết có hàng chục nạn nhân bị lừa giống như chị.

Thêm một kiểu lừa đảo trong thời điểm dịch bệnh nữa là các chương trình khuyến mãi. Gần đây, các trang cá nhân trên mạng xã hội (facebook) tại TP Hồ Chí Minh và các tỉnh thành xuất hiện các tin nhắn thông báo kỷ niệm 10 năm sinh nhật Coop Mart kèm theo đường link. Khi người chơi facebook nhấn vào đường link này sẽ nhận được thông báo trúng thưởng thẻ quà tặng trị giá 5 triệu đồng. Trong đường link trên, các đối tượng hướng dẫn ghi chép thông tin cá nhân để nhận thưởng. 

Tuy nhiên, đại diện của Coop Mart cho biết, chuỗi siêu thị không triển khai bất cứ chương trình khuyến mãi kỷ niệm 10 năm nào. Phía Coop Mart cũng nhận được khá nhiều phản ánh của khách hàng về việc nhấp vào đường link trúng thưởng, điền thông tin theo yêu cầu và bị các đối tượng yêu cầu trả một khoản phí nhận thưởng. Đây là một hình thức lừa đảo, các đối tượng ngoài việc lừa đảo bằng cách lấy phí, nhờ nạp thẻ cào điện thoại thì còn chiếm dụng số tài khoản, mã pin ngân hàng.

Trong ngày 17/7, tại chốt kiểm soát dịch giáp ranh giữa Bình Chánh (TP Hồ Chí Minh) và Cần Giuộc (Long An), tổ công tác đã phát hiện 2 vụ các đối tượng giả bộ giao hàng để vận chuyển ma túy. Vì không có giấy xét nghiệm âm tính với SARS-Cov-2 nên một thanh niên không được qua chốt. Người thanh niên này đứng tại chốt gọi điện cho bạn ra…nhận hàng. Điều lạ là với một túi hàng chỉ mấy gói mì tôm nhưng “người bạn” kia phải trả 500 ngàn. Nghi ngờ có vấn đề bất minh, tổ công tác đã tiến hành kiểm tra và phát hiện bên dưới mấy gói mì là một túi nilon chứa ma túy. Cả 2 bị đưa về trụ sở.

Cũng trong ngày, một thanh niên đến chốt này để nhận từ bạn một hộp giấy chứa…đường phèn. Tuy nhiên qua kiểm tra, bên trong tổ công tác phát hiện đó là ma túy đá nên đã khống chế các đối tượng đưa về trụ sở.

Tại quận Tân Phú, tối 11/7, tổ Cảnh sát hình sự - Công an quận Tân Phú phát hiện Nguyễn Văn Cảnh (SN 1999, ngụ Tân Bình) mặc áo bảo vệ dân phố xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh điều khiển xe máy trên đường Lê Thúc Hoạch, phường Phú Thọ Hòa, với dấu hiệu khả nghi nên ra hiệu lệnh dừng phương tiện kiểm tra. Kiểm tra, tổ công tác phát hiện một túi nilon chứa ma túy Cảnh giấu trong người. Cảnh khai do lên cơn thèm thuốc nên giả dạng bảo vệ dân phố ra đường mua ma túy sử dụng.

Rất nhiều đối tượng lợi dụng thời điểm giãn cách xã hội để vi phạm pháp luật, vì vậy người dân cần nâng cao cảnh giác, nhất là đối với các đối tượng lừa đảo, trộm cắp, cướp giật tài sản…

Nguồn: Báo QĐND


Lại giở trò lố “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals”

Giải thưởng nhân quyền hiểu theo nghĩa gốc vốn thiêng liêng, vì mục đích cao cả nhưng các cá nhân, tổ chức thù địch với Việt Nam lại mượn danh giải thưởng này để trao cho những “nhà dân chủ giả hiệu”, làm vỏ bọc ngụy trang, tạo động lực để các đối tượng gia tăng hoạt động chống phá, gây rối an ninh.

Năm 1993, 10 tổ chức tự nhận là hoạt động vì nhân quyền trên thế giới đã đứng ra thành lập cái gọi là “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals” để trao cho người được họ cho rằng “đã thể hiện thành tích xuất sắc trong việc chống lại các hành vi vi phạm nhân quyền bằng những biện pháp can đảm, cần được bảo vệ”. Từ đó đến nay, giải thưởng này liên tục được trao cho những đối tượng mà  họ coi là “nhà hoạt động nhân quyền”, được tán tụng ví như “giải Nobel về nhân quyền”!

Tuy nhiên, thực tế cho thấy “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals” ra đời không phục vụ ý nghĩa trong sáng như mục đích họ rêu rao là “những người dũng cảm đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền, vì sự tiến bộ của nhân loại”. Nếu để tâm theo dõi các hoạt động của họ thời gian qua, chúng ta sẽ thấy trong suốt quá trình hoạt động, “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals” không đúng nghĩa là một giải thưởng bởi phần lớn giải được trao cho những người có hoạt động chống lại lợi ích quốc gia, dân tộc ở đất nước mà họ đã sinh ra và lớn lên… Đa phần những người được tổ chức nhân quyền Martin Ennals trao giải khi đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc đã mãn hạn tù vì phạm tội lợi dụng tự do, dân chủ, nhân quyền, xâm phạm an ninh quốc gia, bị chính quyền và nhân dân nước sở tại đấu tranh, yêu cầu xử lý.

Bản chất của tổ chức nhân quyền Martin Ennals không giống như cái “bánh vẽ ngọt ngào” mà thoạt đầu nghe có vẻ rất tốt đẹp, rất cần thiết để xây dựng một thế giới mà ở đó quyền con người làm trung tâm. Cho nên, về góc độ nào đó, chúng ta hiểu rằng, tổ chức nhân quyền Martin Ennals được tạo ra và hoạt động không đúng theo tôn chỉ, mục đích cao đẹp như họ rêu rao mà chủ yếu núp bóng nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của một số quốc gia. Đối với Việt Nam, thông qua hình thức trao giải cho các đối tượng trên, tổ chức nhân quyền Martin Ennals hướng tới mục tiêu là đưa Việt Nam vào thế vi phạm dân chủ, nhân quyền, từ đó soạn thảo các bản phúc trình, lập hồ sơ “những nạn nhân bị đàn áp bởi tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam”, vận động tổ chức các diễn đàn, tạo cơ hội cho số chống đối cực đoan trong và ngoài nước lên tiếng tố cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo trên diễn đàn quốc tế. Họ cũng không quên kêu gọi sự can thiệp của cộng đồng quốc tế vào tình hình nội bộ Việt Nam.

Theo dõi danh sách những người được trao “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals” từ năm 1994 đến năm 2022 cho thấy rõ sự bất công bằng trong cách điều hành của ban tổ chức khi đa số những người được trao giải đều đến từ các quốc gia vốn đã nằm trong “tầm ngắm” với quan điểm mà tổ chức này cho là thù địch vì đã lựa chọn con đường phát triển không theo ý muốn của một số thế lực quốc tế, đặc biệt họ hướng trọng tâm vào các nước thuộc khối XHCN, trong đó có Việt Nam. Chính vì thế, gần như tuyệt nhiên không thấy người ở các quốc gia vẫn thường xuyên có những hành động xâm phạm quyền con người, phân biệt chủng tộc một cách đáng lo ngại như Mỹ và một số nước phương Tây được nhận giải.

Phải chăng lâu nay các tổ chức HRW, AI, FIDH, FLD, HURIDOCS… đang cố tình tảng lờ, tránh đưa những sự việc đình đám về vi phạm dân chủ, nhân quyền tại các quốc gia trên. Trong khi mạng xã hội và các kênh truyền thông quốc tế đồng loạt đưa tin những hành vi, vụ việc vi phạm nhân quyền của nhiều quốc gia phương Tây nhưng những vấn đề đó đều bị họ phớt lờ đi. Điều đó cho thấy sự mất công bằng hay nói cách khác là trò hề của tổ chức nhân quyền Martin Ennals hay những tổ chức với danh xưng tương tự vẫn thực hiện lâu nay với các quốc gia mà họ cho rằng “đối nghịch”!

Để dẫn tới sự bất công bằng đó, một phần là do giám khảo “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals” gồm thành viên là các tổ chức lập giải thưởng nên chỉ lựa chọn người phù hợp ở các quốc gia theo mục đích của họ. Mặt khác, cơ sở để đánh giá, lựa chọn người trao giải dù được quảng bá bao gồm các tổ chức đang hoạt động ở mọi nơi trên thế giới nhưng điểm danh lại chỉ thấy chủ yếu tập hợp tình hình ở châu Phi, châu Á và nhất là các nước thuộc khối XHCN. Do đó, rõ ràng “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals” là công cụ quyền lực kép để các thế lực quốc tế sử dụng nhằm áp đặt những lệnh trừng phạt hoặc tạo cớ để can thiệp một cách thô bạo vào công việc nội bộ của các quốc gia mà họ xếp vào danh sách “thù địch” hoặc “thiếu thiện cảm”.

Theo dõi hoạt động của tổ chức nhân quyền Martin Ennals, có thế thấy rõ mục đích thâm hiểm của những người sáng lập ra giải thưởng này. Nó không hoàn toàn theo nghĩa tốt đẹp như đã nêu trên mà chính là nhằm tạo động lực về vật chất, chống lưng về tinh thần để hà hơi, tiếp sức, kích động số đối tượng chống đối ở trong và ngoài nước gia tăng các hoạt động chống phá Việt Nam.

Mặt khác, họ còn thông qua hình thức trao “giải thưởng nhân quyền” vừa nhằm khuếch trương thanh thế, tạo chỗ dựa cho các đối tượng chống đối trong nước và cũng là thủ đoạn để họ hợp thức hóa việc hỗ trợ về vật chất qua các phần thưởng có giá trị lớn. Cho nên “giải thưởng nhân quyền” chẳng khác nào là “mồi nhử” của các tổ chức đội lốt nhân quyền sử dụng để câu móc, lôi kéo và tạo dựng thêm những phần tử chống đối chính trị, những nhân vật có tư tưởng bất mãn, hám tiền bạc, sẵn sàng nhận lệnh và tiến hành các hoạt động chống phá ngay trong nước ta. Điều này càng minh chứng rõ ràng cho vấn đề mang tính quy luật, đó là các tổ chức ở bên ngoài dù có tiềm lực kinh tế mạnh nhưng không thể trực tiếp tiến hành chống phá Việt Nam mà phải thông qua số “chân rết” ở trong nước và ngược lại, các đối tượng chống đối ở nội địa cũng luôn trông ngóng các nguồn tài trợ từ bên ngoài để được chống lưng về vật chất lẫn tinh thần nhằm duy trì hoạt động.

Do vậy, “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals” được xem là động lực để các đối tượng chống đối tích cực chống phá. Đồng thời, thông qua giải thưởng này, các đối tượng có cơ hội đánh bóng tên tuổi bằng việc khoe khoang thành tích về số lần, số năm phải chấp hành hình phạt tù, hình phạt bổ sung của pháp luật hành chính, hình sự, qua đó tạo tiếng vang nhằm thu hút sự chú ý của các tổ chức thù địch, thiếu thiện chí với Việt Nam.

Thực tế thời gian qua cho thấy, ở Việt Nam đã xuất hiện không ít hội nhóm phản động, chống đối trong và ngoài nước đã được lập ra như “Hội anh em dân chủ”, “Hội bầu bí tương thân”, “Hội phụ nữ nhân quyền”, “Hội nhà báo độc lập”... với vỏ bọc đòi đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền nhưng thực chất là nhằm tập hợp số chống đối chính trị, bất mãn để thực hiện các hành động chống phá Đảng, Nhà nước. Và muốn tồn tại, muốn có kinh phí tự nuôi sống bản thân, triển khai các hoạt động chống phá, các tổ chức này phải sống “dựa hơi” vào nhiều thế lực khác.

Một lần nữa chúng ta khẳng định rằng, các tổ chức đứng ra trao cái gọi là “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals” chưa bao giờ có thiện chí với Việt Nam. Thông qua giải thưởng, các tổ chức này vừa “lên dây cót” tinh thần, vừa giúp đỡ về vật chất cho các đối tượng chống phá trong nước tích cực hoạt động. Theo đó, “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals” đã bị đánh lận về mục đích, thực hiện không đúng theo tên gọi và chỉ là bình phông cho các tổ chức này thực hiện mưu đồ chống phá. Trong thời gian tới, để tiếp tục dung dưỡng cho các phần tử chống phá Việt Nam, “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals” vẫn tiếp tục sẽ là chủ đề thu hút được sự quan tâm, chú ý.

Mặc dù mưu đồ của các thế lực thù địch, phản động là hết sức nguy hiểm, gây những hiểu nhầm trong dư luận nhưng trò lố đó không thể phủ nhận được những tiến bộ về nhân quyền của Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đổi mới. Với việc Việt Nam trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 tiếp tục khẳng định mạnh mẽ và chứng minh hùng hồn, sống động những thành tựu to lớn của Việt Nam trên mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực bảo vệ và bảo đảm quyền con người. Đồng thời, những thành tựu ấy càng làm cho những luận điệu, chiêu trò “trao giải nhân quyền” trở nên lố lăng, kệch cỡm.

Nguồn: Báo CAND

Lại nhạo báng giá trị nhân quyền bằng thủ đoạn rêu rao “giải thưởng”

 Hôm 1/11/2023, trang web của tổ chức khủng bố Việt Tân lại diễn trò “giải thưởng nhân quyền Lê Đình Lượng” với những “thông báo mới”. Thông tin trên trang web này nói rằng, “giải thưởng nhân quyền Lê Đình Lượng” năm 2023 sẽ được tổ chức tại Paris, Pháp với chủ đề “75 năm Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền – tự do, bình đẳng, công lý cho Việt Nam”! 

Bằng những thông tin bị bóp méo, tổ chức Việt Tân quy kết rằng, từ đầu năm 2023, Việt Nam chính thức là một thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, “thế nhưng tình trạng nhân quyền trong nước vẫn bị các tổ chức bảo vệ nhân quyền thế giới đánh giá là ngày càng tồi tệ”! Bài viết trên trang này vu cáo Việt Nam “tiếp tục tăng cường đàn áp, bắt giam các nhà báo độc lập, các nhà hoạt động nhân quyền, các lãnh đạo xã hội dân sự và những người sử dụng mạng xã hội bình thường với các điều luật mơ hồ và những phiên tòa bỏ túi”.

Bài viết đưa ra những viện dẫn sai trái khi quy kết rằng, “gần đây nhất, Hà Nội đã gán tội trốn thuế cho những nhà bảo vệ môi trường hàng đầu ở Việt Nam nhằm ngăn cản sự hoạt động của các tổ chức dân sự bảo vệ môi trường đang được nhiều sự hỗ trợ trong cũng như ngoài nước”! Bằng việc nêu ra chủ đề “75 năm Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền – tự do, bình đẳng, công lý cho Việt Nam”, Việt Tân thể hiện sự bịp bợm khi rêu rao việc trao giải thưởng nhân quyền là “đề cao sự hy sinh can đảm của các nhà hoạt động, ngay cả khi ở trong tù, vẫn miệt mài tranh đấu để đòi tự do, bình đẳng và công lý cho dân tộc Việt Nam”.

Thủ đoạn không gì khác là đánh lận bản chất, đưa ra những lời loè bịp dư luận dưới danh nghĩa “ủng hộ các nhà hoạt động nhân quyền”, đồng thời lộ rõ ý đồ trục lợi, kiếm tiền khi kêu gọi sự tham gia tài trợ của các tổ chức, cá nhân. 

Việc lừa bịp dư luận bằng cái từ mỹ miều “giải thưởng nhân quyền” vốn là thủ đoạn quen thuộc của các tổ chức chống phá đất nước. Nó khôi hài ngay từ việc lấy tên giải thưởng, ở đây là Lê Đình Lượng – một đối tượng phạm tội bị TAND cấp cao y án 20 năm tù hồi tháng 10/2018 về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Những năm trước, Việt Tân cũng rêu rao “giải thưởng” này và lập ra cả “hội đồng” để chấm và trao giải, với những cái tên vừa nghe đã biết chân tướng, gồm: Lê Công Định, dân biểu Hoa Kỳ Alan Lowenthal, Phạm Minh Hoàng...

Tiêu chí được rêu rao là “tuyển chọn dựa theo 2 tiêu chuẩn: quá trình tranh đấu cho nhân quyền tại Việt Nam và một số hoạt động hay thành quả nổi bật” song kỳ thực, những đối tượng này làm điều phản dân, hại nước, bị chính người dân địa phương tẩy chay. Việt Tân cũng chốt bằng câu rất khôi hài: “giải thưởng nhân quyền Lê Đình Lượng sẽ là một nỗ lực đóng góp cụ thể vào công cuộc tranh đấu cho nhân quyền và tự do của dân tộc Việt Nam”!

Với “hội đồng” và tiêu chí như trên, dễ hình dung số này sẽ trao giải thưởng cho ai. Và kết quả những lần “trao giải” trước đây cho thấy, trò hề tiếp tục diễn ra khi những “nhà hoạt động nhân quyền” như Hoàng Đức Bình, Trần Thị Nga, Phạm Đoan Trang được xướng tên. Bình chính là đối tượng phạm tội, bị toà phúc thẩm tuyên y án 7 năm tù về tội “Chống người thi hành công vụ” và 7 năm tù về tội “Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.

Theo HĐXX, Hoàng Đức Bình thường xuyên đăng tải, chia sẻ trên Facebook cá nhân những thông tin, tài liệu tuyên truyền nói xấu chế độ, cổ vũ phong trào đa nguyên, đa đảng. Lợi dụng sự cố môi trường biển miền Trung, với tư cách Phó Chủ tịch “Phong trào Lao động Việt”, Hoàng Đức Bình đã xúc tiến, thành lập “Hiệp hội ngư dân miền Trung” với ý đồ tạo dựng tổ chức ngoại vi, tập hợp lực lượng, lôi kéo giáo dân, ngư dân miền Trung tham gia vào tổ chức, tìm chọn “hạt nhân” kích động biểu tình, phá rối an ninh trật tự…

Một đối tượng như Bình gây sách nhiễu, phá hoại chính sách phát triển kinh tế và gây mất ổn định trật tự tại địa phương, hành vi đó làm ảnh hưởng cuộc sống của người dân, xâm phạm đến các quyền mà người dân được hưởng, nay lại được Việt Tân dựng lên trao thưởng vì “có thành tích trong đấu tranh cho nhân quyền” thì đủ hiểu tiêu chí đó là gì. Hồ sơ phạm tội của Bình lại được viết rất màu mè là “một nhà hoạt động tranh đấu bảo vệ quyền lợi cho người lao động, bảo vệ môi trường, giúp dân khiếu kiện Formosa”.

Tương tự, Trần Thị Nga, đối tượng bị TAND tỉnh Hà Nam tuyên phạt 9 năm tù về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” thì được vôi ve thành “bà vẫn tham gia các cuộc biểu tình ôn hòa, phản đối Formosa xả thải hủy diệt môi trường”. Còn Phạm Đoan Trang – đối tượng có các bài viết, cuốn sách sai trái, đi ngược lợi ích đất nước, nhân dân thì được tô màu “là một những người phát động chiến dịch bảo vệ cây xanh Hà Nội”, có lý lịch “đã tổ chức các lớp đào tạo về báo chí, chính trị học, chính sách công quyền cho các nhà hoạt động xã hội dân sự tại Việt Nam” và “tham gia chiến dịch “cứu dân cứu biển” sau tai họa môi trường ở miền Trung”…  

Lâu nay, Việt Tân và các tổ chức, hội nhóm phản động vẫn bấu víu “giải thưởng nhân quyền”, lập ra vô số tên gọi khác nhau mà không hiểu rằng, trò hề đó chính là sự xúc phạm nghiêm trọng đến giá trị nhân quyền. Có thể kể tới các giải thưởng mà các tổ chức này đưa ra như: “giải thưởng Hellman/Hammet” của tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW), “giải thưởng Stephanus” của Hiệp hội quốc tế nhân quyền tại Ðức; “giải thưởng quốc tế Gruber” của Nghiệp đoàn luật sư quốc tế, rồi “giải nhân quyền Gwangju”...

Bên cạnh đó, một số giải thưởng và danh hiệu như “Công dân mạng” của Tổ chức phóng viên không biên giới (RSF); “Phụ nữ tiêu biểu về bảo vệ quyền tự do ngôn luận” của tổ chức Tự do ngôn luận quốc tế (IFEX) có trụ sở tại Canada; giải “Phụ nữ can đảm nhất thế giới” của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ... Ngoài ra, hội nhóm lập ra “Mạng lưới nhân quyền Việt Nam” tại Mỹ còn công bố trao giải thưởng “nhân quyền Việt Nam” cho những đối tượng như Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Lê Quốc Quân…

Vậy, mưu đồ của “giải thưởng nhân quyền” trên là gì? Với  những đối tượng càng chống phá Nhà nước, chống phá nhân dân Việt Nam thì lại càng được “lên bục nhận thưởng” với “hội đồng giám khảo” là những thành phần bất hảo như vậy thì động cơ, mưu đồ này không khó để nhận biết. Thông qua giải thưởng, các tổ chức này vừa tạo dư luận, vừa giúp đỡ về vật chất cho các đối tượng chống phá trong nước, đồng thời tạo cớ để khuếch trương thanh thế, từ đó để nhận được sự hỗ trợ tài chính từ các tổ chức đứng sau.

Hãy điểm danh những đối tượng lên bục nhận thưởng trước đây như Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Lê Quốc Quân, Tạ Phong Tần, Nguyễn Văn Hải (blogger “Ðiếu cày"), Phan Thanh Hải (blogger "Anh ba Sài Gòn"), Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Hoàng Đức Bình, Trần Thị Nga, Phạm Đoan Trang... thì thấy rõ bản chất. Rõ ràng, việc cổ suý, trao giải cho những đối tượng chống Nhà nước, chống nhân dân chính là một chiêu bài bịp bợm của những tổ chức thù địch với Việt Nam. Họ cố gắng tô vẽ cho các đối tượng này qua các danh hão như “nhà báo tự do”, “nhà hoạt động dân chủ, nhân quyền”, “tù nhân lương tâm”, “công dân yêu nước”... nhưng họ không thể che đậy được ý đồ chống phá Ðảng, Nhà nước,  nhân dân Việt Nam, đây là hành vi vừa lợi dụng tự do báo chí, tự do ngôn luận, dân chủ, nhân quyền để tiến hành hoạt động nhằm gây bất ổn chính trị ở trong nước.

Xét đến cùng thì việc trao các loại “giải thưởng nhân quyền” cho các đối tượng đã đề cập ở trên chính là một thủ đoạn, một yếu tố cấu thành của kịch bản trong chiến lược “diễn biến hoà bình”, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Điều đáng nói là những đối tượng được xướng tên như vậy không biết đấy là điều hổ thẹn, vẫn tỏ ý đắc chí, như thể làm được công lao gì ghê gớm lắm. Phản dân, hại nước, thực sự thì những người nhận giải thưởng đó có khác gì con rối, trò chơi, bị người khác dùng làm trò tiêu khiển mà không ý thức được.

Giải thưởng nhân quyền nếu hiểu và làm đúng nghĩa vốn rất thiêng liêng, vì mục đích cao cả, dành cho những người có đóng góp lớn vì sự tiến bộ trong bảo đảm quyền con người ở các quốc gia, vùng, lãnh thổ hay ở phạm vi khu vực và thế giới. Thế nhưng, điều kỳ quặc là lâu nay, một số tổ chức nhân danh “bảo vệ quyền con người” lại làm điều vừa trái đạo lý, vừa trái pháp lý khi dựng lên cái gọi là “giải thưởng nhân quyền” để trao cho những kẻ phá hoại xã hội, phá hoại cuộc sống của người dân ở các nước mà kẻ đó sinh ra hoặc đang sinh sống, trú ngụ.

Việc giở trò trao giải thưởng cho các đối tượng phạm pháp như vậy, lại vin cớ “hoạt động thiết thực” kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền là sự xúc phạm đến giá trị của Tuyên ngôn, đến lương tri nhân loại. Một Tuyên ngôn ra đời và ảnh hưởng tới nhân loại như vậy mà họ lại đưa ra làm trò đùa giỡn, một Tuyên ngôn có được với bao nỗ lực của các bậc tiền nhân cũng như sự hy sinh xương máu của con người, ở đâu cũng phải tôn trọng, phải gìn giữ, bảo vệ, làm sao có thể chà đạp để thực hiện ý đồ, động cơ thấp hèn? 

Nguồn: Báo CAND

Hợp tác quốc phòng đóng góp tích cực vào phát triển quan hệ Việt Nam - Campuchia

 Việc tăng cường phối hợp, triển khai hiệu quả các hoạt động hợp tác quốc phòng song phương thời gian qua đã đóng góp tích cực vào sự phát triển tốt đẹp của mối quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài Việt Nam-Campuchia.

Có thể khẳng định chính sự gần gũi về địa lý cùng những nét tương đồng về văn hóa, lịch sử là nền tảng vững chắc để hai dân tộc Việt Nam và Campuchia vun đắp cũng như phát triển một trong những mối quan hệ có truyền thống lâu đời tại khu vực Đông Nam Á. Trong suốt chặng đường lịch sử hơn nửa thế kỷ kể từ khi chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, bất chấp biết bao khó khăn, thử thách với những thăng trầm, mối quan hệ Việt Nam-Campuchia đã không ngừng được củng cố, phát triển, góp phần thiết thực cho công cuộc xây dựng, phát triển phồn vinh của hai đất nước, đồng thời đóng góp tích cực vào hòa bình, ổn định, hợp tác ở khu vực và trên thế giới. Trong tổng thể mối quan hệ chung giữa hai nước, hợp tác quốc phòng song phương ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả và thực chất, là một trong những trụ cột quan trọng.

Thời gian qua, các cơ quan, đơn vị của hai bên đã quán triệt tốt sự chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Quốc phòng hai nước, chủ động phối hợp, triển khai đầy đủ các nội dung hợp tác quốc phòng đã được thống nhất giữa hai Bộ Quốc phòng, nổi bật trên các lĩnh vực: Trao đổi đoàn, nhất là đoàn cấp cao; đối thoại chính sách quốc phòng cấp Thứ trưởng; phát huy hiệu quả các cơ chế, mô hình hợp tác như: Tuần tra chung, hội nghị thường niên, kết nghĩa quân dân, giao lưu sĩ quan trẻ; đào tạo nguồn nhân lực...

Hợp tác quốc phòng đóng góp tích cực vào phát triển quan hệ Việt Nam - Campuchia
Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam gặp song phương Đại tướng Tea Seiha, Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Campuchia nhân dịp tham dự Diễn đàn Hương Sơn Bắc Kinh lần thứ 10, tháng 10-2023. Ảnh: THU TRANG 

Cùng với đó, lực lượng bảo vệ biên giới và các quân khu giáp biên hai bên đã phối hợp tốt trong việc bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội khu vực biên giới hai nước. Công tác giáo dục, tuyên truyền cho nhân dân và quân đội hai nước, nhất là thế hệ trẻ về lịch sử, ý nghĩa, tầm quan trọng của tình đoàn kết, tương trợ lẫn nhau giữa hai nước, hai quân đội qua các thời kỳ lịch sử được coi trọng. Trong “Năm hữu nghị Việt Nam-Campuchia, Campuchia-Việt Nam 2022” nhằm kỷ niệm 55 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Campuchia (24-6-1967 / 24-6-2022), Bộ Quốc phòng hai nước đã phối hợp tổ chức nhiều hoạt động lớn, có ý nghĩa lan tỏa tích cực về tình đoàn kết quân dân hai nước Việt Nam-Campuchia.

Đồng thời, hợp tác giữa quân đội 3 nước Việt Nam-Lào-Campuchia được quan tâm, nhất là tập trung phối hợp, tích cực triển khai các hoạt động phục vụ Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam-Lào-Campuchia lần thứ nhất cấp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dự kiến tổ chức trong thời gian tới. Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân đội Hoàng gia Campuchia cũng phối hợp, ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn, cơ chế đa phương, nhất là các cơ chế do ASEAN dẫn dắt...

Mối quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài Việt Nam-Campuchia vốn được xây dựng nên bởi công sức và xương máu của biết bao thế hệ nhân dân hai nước, đã trở thành tài sản vô giá, thiêng liêng của hai dân tộc. Chúng ta tin tưởng rằng, dù bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có biến chuyển như thế nào đi chăng nữa thì hai nước, hai dân tộc Việt Nam-Campuchia vẫn luôn cùng nhau vun đắp cho mối quan hệ này mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững. Với quyết tâm chính trị và nỗ lực của hai bên, hợp tác quốc phòng Việt Nam-Campuchia chắc chắn sẽ còn có những bước phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới, nâng cao được vai trò, vị thế trong tổng thể mối quan hệ song phương, góp phần giữ vững an ninh chính trị, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước.

HOÀNG VŨ

Nguồn: Báo QĐND

Đại tướng Phan Văn Giang chủ trì lễ đón Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Campuchia

 Sáng 13-11, tại trụ sở Bộ Quốc phòng, Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam chủ trì lễ đón Đại tướng Tea Seiha, Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Campuchia sang thăm chính thức Việt Nam.

Tham dự lễ đón có: Thượng tướng Phùng Sĩ Tấn, Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.

Đại tướng Phan Văn Giang chủ trì lễ đón Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Campuchia

Đại tướng Phan Văn Giang đón Đại tướng Tea Seiha. Ảnh: VIỆT TRUNG 

Chuyến thăm chính thức của Đại tướng Tea Seiha diễn ra trong bối cảnh mối quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài Việt Nam-Campuchia không ngừng phát triển trên các lĩnh vực. Trong tổng thể mối quan hệ chung giữa hai nước, hợp tác quốc phòng song phương ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả và thực chất, là một trong những trụ cột quan trọng.

Đại tướng Phan Văn Giang chủ trì lễ đón Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Campuchia

Đại tướng Phan Văn Giang chủ trì lễ đón Đại tướng Tea Seiha. Ảnh: VIỆT TRUNG

 
Đại tướng Phan Văn Giang chủ trì lễ đón Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Campuchia
 

Đại tướng Phan Văn Giang và Đại tướng Tea Seiha duyệt Đội danh dự Quân đội nhân dân Việt Nam. Ảnh: VIỆT TRUNG

Theo đó, thời gian qua, hai bên chủ động phối hợp, triển khai đầy đủ các nội dung hợp tác quốc phòng đã được thống nhất, nổi bật trên các lĩnh vực: Trao đổi đoàn, nhất là đoàn cấp cao; đối thoại chính sách quốc phòng cấp Thứ trưởng; phát huy hiệu quả các cơ chế, mô hình hợp tác như: Tuần tra chung, hội nghị thường niên, kết nghĩa quân-dân, giao lưu sĩ quan trẻ; đào tạo nguồn nhân lực;...

Đại tướng Phan Văn Giang chủ trì lễ đón Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Campuchia
 

Đại tướng Phan Văn Giang giới thiệu với Đại tướng Tea Seiha các thành viên đoàn Việt Nam. Ảnh: VIỆT TRUNG

Đại tướng Phan Văn Giang chủ trì lễ đón Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Campuchia

Đại tướng Tea Seiha giới thiệu với Đại tướng Phan Văn Giang các thành viên đoàn Campuchia. Ảnh: VIỆT TRUNG

 

Công tác giáo dục, tuyên truyền cho nhân dân và quân đội hai nước, nhất là thế hệ trẻ về lịch sử, ý nghĩa, tầm quan trọng của tình đoàn kết, tương trợ lẫn nhau giữa hai nước, hai quân đội qua các thời kỳ lịch sử được coi trọng. Lực lượng bảo vệ biên giới và các quân khu giáp biên hai bên cũng phối hợp tốt trong việc bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội khu vực biên giới hai nước. Đồng thời, hai bên phối hợp, ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn, cơ chế hợp tác quốc phòng đa phương, nhất là các cơ chế do ASEAN dẫn dắt…

Đại tướng Phan Văn Giang chủ trì lễ đón Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Campuchia
 

Đại tướng Phan Văn Giang và Đại tướng Tea Seiha. Ảnh: VIỆT TRUNG

Đại tướng Phan Văn Giang chủ trì lễ đón Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Campuchia

Hai đoàn chụp ảnh chung. Ảnh: VIỆT TRUNG 

 

Chuyến thăm chính thức Việt Nam của Đại tướng Tea Seiha nhằm duy trì tiếp xúc cấp cao, góp phần làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai nước nói chung, hợp tác quốc phòng song phương nói riêng. Chuyến thăm cũng là cơ hội để hai bên trao đổi, đánh giá kết quả hợp tác quốc phòng Việt Nam-Campuchia thời gian qua, thống nhất phương hướng cho lĩnh vực hợp tác này trong thời gian tới.

HOÀNG VŨ

Nguồn: Báo QĐND

KỶ LUẬT TỰ GIÁC LÀ SỨC MẠNH CỦA ĐẢNG

 Kỷ luật của Đảng là kỷ luật dựa trên tình đồng chí, kỷ luật của những người cùng chung một lý tưởng, tự nguyện đứng trong hàng ngũ Đảng, sẵn sàng hy sinh vì lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc. Mọi đảng viên và tổ chức đảng liên kết với nhau theo một kỷ luật chung dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, sự thống nhất chặt chẽ về chính trị, tư tưởng và tổ chức, được thể hiện tập trung trong các điều khoản của Điều lệ Đảng.

Toàn Đảng tập trung sự thống nhất để phát huy dân chủ, phát huy tính tích cực và sáng tạo của toàn thể đảng viên và các tổ chức đảng. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Kỷ luật của Đảng là “kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác”. Những đảng viên giữ vị trí càng cao, trách nhiệm càng lớn, càng phải gương mẫu và nếu mắc sai phạm càng phải chịu kỷ luật nghiêm khắc, không được châm chước, bao che cho nhau. Trong bất kỳ trường hợp nào, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đòi hỏi mọi đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng và bình đẳng về mặt công dân trước pháp luật.

Để bảo đảm kỷ luật được chặt chẽ, tự giác phải mở rộng, tăng cường dân chủ trong Đảng. Trước lúc đi xa, Hồ Chí Minh đã để lại bản Di chúc lịch sử và dành những lời căn dặn đầu tiên cho Đảng: “Trước hết nói về Đảng... Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Rõ người, rõ trách nhiệm là kết quả của việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng ta. Trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta, biểu hiện cụ thể của nguyên tắc đó chính là nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Có thực hiện nghiêm và đầy đủ những nguyên tắc cơ bản trong công tác xây dựng Đảng, chúng ta mới tạo nên sức mạnh của Đảng, tạo nên khối đoàn kết thống nhất và củng cố niềm tin của Nhân dân đối Đảng.

VIỆT TÂN LẠI CHỌ GẬY BÁNH XE

         Liên quan đến vụ việc nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa Trịnh Văn Chiến bị xem xét kỷ luật do vi phạm nguyên tắc lãnh đạo, vi phạm chế độ trách nhiệm của người đứng đầu, ngày 17/6/2023, facebooker Ngọc Thu đăng tải bài viết “Cựu Bí thư Thanh Hóa đang thành củi cho lò ông Trọng”. Đây là bài viết với lập luận “đổi trắng thay đen” hòng xuyên tạc công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam.

Thứ nhất, việc xem xét kỷ luật ông Trịnh Văn Chiến - nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa do vi phạm nguyên tắc lãnh đạo, vi phạm chế độ trách nhiệm của người đứng đầu, là việc làm cần thiết theo đúng quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Với cương vị đứng đầu Đảng ủy một tỉnh, ông Trịnh Văn Chiến có biểu hiện chưa thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ, chịu trách nhiệm về sai phạm dẫn đến Tập đoàn FLC hưởng lợi. Do đó, đây là sự việc cần được tiến hành và xử lý nghiêm, củng cố lòng tin trong nhân dân và răn đe các cán bộ khác vi phạm.

Thứ hai, việc xem xét kỷ luật ông Trịnh Văn Chiến thể hiện quan điểm và phương châm nhất quán của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương. Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhất quán khẳng định quyết tâm xử lý, xử lý đến cùng mọi cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước, bất kể người đó là ai, giữ cương vị gì. Nói cách khác, việc xử lý vi phạm của cán bộ, đảng viên theo phương châm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” và làm chắc chắn, phối hợp đồng bộ, bài bản, để xử lý thật nghiêm minh, thấu tình, đạt lý. Đây là quan điểm rất nhân văn và được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhắc đi, nhắc lại nhiều lần, đang tạo hiệu ứng mạnh mẽ trong Đảng, Nhà nước và xã hội, củng cố lòng tin của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ.

Thứ ba, bài viết của facebooker Ngọc Thu đăng trên trang facebook của Việt Tân đã cố tình “đổi trắng thay đen”. Lợi dụng đề cập về vụ việc nêu trên, facebooker này đã thổi phồng các lãnh đạo ở Việt Nam có thể khuynh loát, tùy tiện làm theo ý của mình, nên “Trên thực tế, nạn tham nhũng không những bị đẩy lùi mà càng ngày càng hoành hành như trước”. Đây rõ ràng là sự suy diễn mang tính tưởng tượng, không đúng sự thật. Bởi vì, hiện nay ở Việt Nam, cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực vẫn đang được đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả tích cực, tạo hiệu ứng tốt, được dư luận xã hội đồng tình ủng hộ, được cộng đồng và các tổ chức quốc tế đánh giá cao. Nên lập luận của Ngọc Thu thật vô lý, nhuốm màu quan điểm cá nhân, áp đặt, không khách quan và hoàn toàn thiếu thiện chí.

Như vậy, luận điệu đăng trên trang chủ facebook Việt Tân của Ngọc Thu chỉ là lập luận mang tính “đổi trắng thay đen” hòng xuyên tạc sự thật. Đây là luận điệu hết sức phi lý, mang quan điểm cá nhân, do động cơ chính trị thấp hèn cần được đấu tranh, loại bỏ./.

 

 

PHẬT GIÁO VIỆT NAM LUÔN ĐỒNG HÀNH CÙNG DÂN TỘC

           Trong hơn 41 năm thành lập, kế thừa tinh hoa 2000 năm Phật giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã phát triển về mọi mặt. Hoạt động Phật sự được tăng cường, tăng ni, Phật tử luôn đoàn kết, hòa hợp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo và được đông đảo các tầng lớp nhân dân từ thành thị đến biên giới, hải đảo đồng tình ủng hộ.

Sau đại thắng mùa xuân 1975, Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội, Phật giáo Việt Nam đã hóa thân vào vận hội mới của dân tộc. Năm 1981, Hội nghị thống nhất 9 hệ phái tổ chức Phật giáo Việt Nam thành một tổ chức Phật giáo duy nhất là “Giáo hội Phật giáo Việt Nam”, đại diện cho Phật giáo Việt Nam trong và ngoài nước. Đây là sự kiện có ý nghĩa trọng đại đối với tăng ni, phật tử Việt Nam.

Phật giáo Việt Nam là tôn giáo có truyền thống hộ quốc an dân, đồng hành cùng dân tộc, luôn gắn bó với vận mệnh của đất nước; khi Tổ quốc lâm nguy, Phật giáo luôn luôn đứng lên tham gia chống giặc ngoại xâm, góp phần giành độc lập dân tộc. Kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang của Phật giáo Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đồng hành cùng cả nước tiến hành công cuộc đổi mới trong tinh thần hòa hợp, đoàn kết với phương châm phụng đạo, yêu nước. Giáo hội hướng dẫn tín đồ, phật tử sinh hoạt theo đúng chính pháp, góp phần xây dựng cuộc sống lành mạnh và có những hoạt động đáp ứng nhu cầu tâm linh, phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của tăng, ni, phật tử; là nguồn cổ vũ lớn lao cho tăng, ni, phật tử trong và ngoài nước tin tưởng vào đường hướng hành đạo của Giáo hội, góp phần làm cho Giáo hội ngày càng phát triển vững mạnh trong lòng dân tộc.

Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo, có trên 90% dân số có tín ngưỡng, tôn giáo với 24 triệu người là tín đồ các tôn giáo, chiếm 27% dân số. Chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước đối với tôn giáo là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.

Nhà nước Việt Nam bảo đảm cho các tôn giáo hoạt động theo đúng quy định của pháp luật, hiến chương và điều lệ được Nhà nước công nhận; không ngừng chăm lo phát triển kinh tế xã hội, tạo điều kiện cho đồng bào có đạo và chức sắc các tôn giáo thực hiện tốt việc tu hành chân chính và làm tròn bổn phận của công dân đối với Tổ quốc.

Phật giáo luôn là tôn giáo đồng hành cùng dân tộc, có một vai trò rất quan trọng trong việc “Hộ quốc, an dân”. Trong hơn 41 năm qua, với phương châm “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã vượt mọi khó khăn, không ngừng phát triển, lớn mạnh về mọi mặt; luôn gương mẫu đi đầu trong các phong trào thi đua yêu nước, đoàn kết các tôn giáo, khẳng định mối quan hệ gắn bó không thể tách rời giữa dân tộc và đạo pháp.

Với tư cách là thành viên trong khối đại đoàn kết toàn dân, Giáo hội Phật giáo Việt cùng tăng, ni, phật tử luôn luôn gắn bó với dân tộc trong mọi hoạt động xã hội, thực hiện tốt phương châm “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”. Các Ban Trị sự Hội Phật giáo tỉnh, thành trong toàn quốc thường xuyên động viên tăng, ni, phật tử tại địa phương hoàn thành tốt các phong trào ích nước lợi dân, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ môi trường, xây dựng nếp sống văn minh trên địa bàn, tham gia các tổ chức chính trị - xã hội, các hoạt động xã hội, vì lợi ích của đất nước và dân tộc như tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc các cấp từ Trung ương đến địa phương. Nhiều vị chức sắc tu hành được người dân tin tưởng bầu làm đại biểu Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp; nhiều sư sãi đã thể hiện được vai trò đặc biệt trong việc vận động quần chúng xây dựng đời sống văn hóa, kinh tế - xã hội ở các địa bàn dân cư. Các vị tăng, ni tiếp tục đẩy mạnh việc truyền bá đạo pháp tại vùng sâu, vùng xa, biên cương, hải đảo để tinh thần Phật giáo tiếp tục được lan tỏa nơi phên dậu của Tổ quốc.

ĐẢNG TA LUÔN KIÊN ĐỊNH LẤY CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH LÀM NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG, KIM CHỈ NAM CHO HÀNH ĐỘNG

 Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 đã xác định “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) và được bổ sung tại Đại hội XII của Đảng: “Tư tưởng của Người, cùng với Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta”. Việc khẳng định này cho thấy tầm quan trọng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung và đối với nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, bất mãn chính trị ra sức chống phá Đảng, trong đó chúng tìm mọi cách để hạ bệ nền tảng tư tưởng của Đảng; Chúng quy kết Chủ tịch Hồ Chí Minh không tuân thủ đúng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản: “Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là tư tưởng dân tộc, không theo Chủ nghĩa Mác-Lênin”; “Con đường Bác Hồ đã lựa chọn là con đường dân tộc, không phải chủ nghĩa xã hội”….

Luận điệu xuyên tạc trên là vô căn cứ. Bởi lẽ, lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ: “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc”, vì thế, giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc. Cho nên, mấu chốt của cách mạng vô sản vẫn là giải quyết mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, dù cho quốc gia đó đã trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa hay chưa trải qua giai đoạn này. Ở các nước thuộc địa, nhiệm vụ trước mắt và quan trọng bậc nhất là thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc giành lấy độc lập, quyền tự quyết dân tộc để làm cơ sở hiện thực làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng vô sản suy cho cùng cũng là vì quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc; việc giải quyết vấn đề giai cấp không đứng trên lập trường lợi ích quốc gia, dân tộc sẽ không thể giải quyết triệt để các vấn đề đặt ra của cuộc cách mạng, đôi khi còn dẫn đến thất bại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức, tiếp thu sâu sắc Chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản. Người đã tích cực chuẩn bị tư tưởng chính trị, tổ chức, cán bộ cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 và cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành lấy độc lập cho Tổ quốc, tự do cho dân tộc và đưa cách mạng Việt Nam tiến theo con đường chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người trên thế giới. Thắng lợi đó là do Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn giải quyết vấn đề dân tộc trước, sau đó giải quyết vấn đề giai cấp trên lập trường giai cấp vô sản, điều này đã thể hiện rõ nguyên tắc tôn trọng thực tiễn khách quan và bảo đảm tính lịch sử cụ thể của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Việc lựa chọn này không phải là sự ngẫu nhiên, “ăn may” mà là sự tìm tòi, phân tích thực tiễn cách mạng thấu đáo. Điều đó xuất phát từ tài năng, trí tuệ, sự nhạy bén chính trị và năng lực hoạt động thực tiễn vượt trội của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi Chủ nghĩa Mác-Lênin là “cái cẩm nang” thần kỳ, “kim chỉ nam” cho cách mạng Việt Nam. Người đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Người đã vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp cách mạng vô sản của Chủ nghĩa Mác-Lênin để nghiên cứu thực tiễn, tìm ra quy luật vận động và phát triển cách mạng Việt Nam bằng con đường cách mạng vô sản, qua đó khắc phục được khủng hoảng về con đường cứu nước, cứu dân tộc.

Những thành quả to lớn của cách mạng Việt Nam đạt được đã cho thấy những điều Người khẳng định là hoàn toàn đúng đắn, “Đảng ta nhờ kết hợp được Chủ nghĩa Mác-Lênin với tình hình thực tế của nước ta, cho nên đã thu được nhiều thắng lợi trong công tác”, và sự thật là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã giành lại độc lập dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và đưa nước ta bước vào giai đoạn độc lập, tư do và phát triển.

Thực tế đó cho thấy, con đường cách mạng vô sản ở Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đường, dẫn lối là phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đó là: Người đã đề ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước giải phóng giai cấp nhưng không đối lập giữa nhiệm vụ giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc mà kết hợp chặt chẽ giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp để tiến tới giải phóng con người; Người chủ trương thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thay vì thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vì nhiệm vụ cách mạng của mỗi nước Đông Dương khác nhau, điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, dân tộc, con người mỗi nước có sự khác nhau.

Việc đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, hạ thấp Chủ nghĩa Mác-Lênin vô hình trung đã phủ định nguồn gốc hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại Đại hội lần thứ IX năm 2001 và Đại hội lần thứ XI của Đảng năm 2011, tư tưởng Hồ Chí Minh được khẳng định là “một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”.

 Sự khẳng định đó đã chứng minh tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam và phẩm chất, nhân cách của Người, cùng với truyền thống văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại. Không có Chủ nghĩa Mác-Lênin thì không có tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là Chủ nghĩa Mác-Lênin mà là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa này vào giải quyết các vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam trên lập trường của cách mạng vô sản. Cho nên “không thể nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh mà hạ thấp, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin”.

Ngày nay, để đấu tranh với các thế lực thù địch xuyên tạc và bôi nhọ Đảng, chúng ta phải đồng thời thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng Đảng, bao gồm vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phải thấy được những giới hạn lịch sử của các quan điểm lý luận, nhất là các chính sách cụ thể để không ngừng phát triển học thuyết cách mạng đó; phải nâng cao sức “đề kháng” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, cán bộ, viên chức nhà nước; tích cực phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về mặt tư tưởng, lý luận; rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng. Chỉ có như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam mới hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình.

SỰ PHẢN ĐỘNG CỦA CÁI GỌI LÀ “BẤT TUÂN DÂN SỰ”!

     “Bất tuân dân sự” là các hoạt động công khai từ chối tuân theo, hoặc vi phạm một cách cố ý và có ý thức đối với một số đạo luật nhất định nhằm cản trở quá trình thực thi chính sách, luật pháp của nhà nước. Là hình thức phản kháng bất bạo động, gây áp lực buộc nhà nước phải thay đổi chính sách, luật pháp, thậm chí lật đổ chính quyền. Bản chất là hành vi vi phạm pháp luật.

Sự phản động của “bất tuân dân sự” được biểu hiện là:

Thứ nhất, đây là các hoạt động công khai từ chối tuân theo, hoặc vi phạm một cách cố ý và có ý thức đối với một số quy định pháp luật nhất định của nhà nước. Điều này khác hẳn với nguyên tắc phổ biến mà hầu hết các nhà nước pháp quyền trên thế giới đều thực hiện, đó là: Tiểu số phục tùng đa số; lợi ích riêng phải nằm trong lợi ích chung; lợi ích cá nhân phải phục tùng lợi ích cộng đồng, xã hội, dân tộc. Vì vậy, “bất tuân dân sự” về cơ bản thể hiện tư tưởng cực đoan, vô chính phủ, hầu như không được nhà nước pháp quyền nào chấp nhận (ngoại trừ những thế lực muốn lợi dụng nó để chống lại nhà nước pháp quyền).

Thứ hai,  hình thức của nó cơ bản là ôn hòa, bất bạo động. Tuy nhiên, không phải tất cả hình thức đều là ôn hòa, bất bạo động. Thậm chí, theo những người chủ trương “bất tuân dân sự”, hành động vũ trang của kẻ yếu chống lại kẻ mạnh hơn có vũ trang thì được coi là bất bạo động. Điều này thể hiện sự mập mờ về tính chất của các hình thức đấu tranh gọi là bất bạo động, hay nói cách khác, ranh giới giữa bất bạo động và bạo động là khá mong manh, có thể chuyển hóa cho nhau rất nhanh chóng. Thực chất, đây là cách ngụy tạo để biện giải, mở đường cho đấu tranh bạo động khi bất bạo động đã tích lũy đủ điều kiện hay “châm ngòi” thành công.

Thứ ba, hành vi của chúng là phản kháng, không tuân thủ, không phục tùng những điều luật đã được ban hành; được thực hiện thông qua hình thức bất bạo động thể hiện sự coi thường kỷ cương, pháp luật, trái với các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền trong một xã hội văn minh. Hơn nữa, khi hướng tới mục tiêu chính trị, “bất tuân dân sự” là bước khởi đầu của một cuộc “cách mạng mềm” nhằm thay đổi chế độ chính trị đang tồn tại hoặc lực lượng chính trị đang nắm quyền. Vì vậy, trong hầu hết các vụ việc, về bản chất, đây là hành vi vi phạm pháp luật.

Hoạt động “bất tuân dân sự” đã có ở Việt Nam và diễn ra từ nhiều năm trở lại đây, có nguy cơ trở thành làn sóng bạo động, nguy hại trực tiếp đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Chúng ta cần phải nhận rõ bản chất và sự phản động của những hoạt động này để đấu tranh và giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân.

NHÂN DÂN VIỆT NAM LUÔN ĐƯỢC NHÀ NƯỚC BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO

 Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, đa tôn giáo. Theo thống kê chưa đầy đủ cho thấy, Việt Nam có khoảng 95% dân số có đời sống tín ngưỡng và tôn giáo (trong hàng nghìn tín ngưỡng thì tín ngưỡng phổ biến là thờ cúng ông bà tổ tiên và tín ngưỡng thờ Mẫu). Tính đến nay, cả nước có khoảng 45.000 cơ sở tín ngưỡng, trong đó có hơn 2.900 di tích gắn với cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, một số di tích được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Hàng năm, Việt Nam có gần 13.000 lễ hội, gồm 5 loại: lễ hội dân gian, lễ hội lịch sử cách mạng, lễ hội tôn giáo, lễ hội du nhập từ nước ngoài, lễ hội văn hóa - thể thao và ngành nghề.

Số lượng tín đồ, chức sắc, cơ sở thờ tự, trường đào tạo, số lượng kinh sách được xuất bản của các tôn giáo tăng lên nhanh chóng trong thời gian qua, những hoạt động quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo ngày càng được mở rộng và thực tế hoạt động sôi động của các tổ chức tôn giáo hiện nay là những minh chứng rõ nhất cho những thành tựu của việc tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, ở Việt Nam xuất hiện không ít hoạt động tôn giáo trái pháp luật của một số tổ chức Tin Lành nước ngoài chưa được cấp phép, điển hình là các đạo lạ mang danh nghĩa Tin Lành truyền vào Việt Nam như Tân Thiên địa, Hội thánh của Đức Chúa Trời mẹ... Hoạt động của phần lớn các tổ chức này trái với văn hóa truyền thống của dân tộc, nhuốm màu mê tín dị đoan, có dấu hiệu trục lợi, nhiều tổ chức vi phạm pháp luật. Đối với các hoạt động vi phạm pháp luật của các tổ chức này, lực lượng chức năng Việt Nam đã nhắc nhở, chấn chỉnh và xử lý dựa trên quy định pháp luật.

Chúng ta cần khẳng định rằng, ở Việt Nam hoàn toàn không có cái gọi là đàn áp tôn giáo. Việc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và một số quốc gia phương Tây thường xuyên tổ chức các cuộc điều trần về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia “không có tự do tôn giáo” cũng chỉ nhằm mục đích tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.

Vì vậy, những luận điệu cho rằng những chính sách tôn giáo của Việt Nam không phù hợp với luật pháp quốc tế là vô căn cứ. Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của người dân; nỗ lực bảo đảm cho các tôn giáo được hoạt động bình thường trong khuôn khổ pháp luật.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...