Thứ Bảy, 17 tháng 11, 2018

QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHÂN DÂN TRONG VAI TRÒ NGƯỜI CHỦ QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC


QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHÂN DÂN

 TRONG VAI TRÒ NGƯỜI CHỦ QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

 

Trên cơ sở kế thừa những ưu điểm của loại hình thể chế cộng hòa nói chung, vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thể chế chính trị, kết hợp với thực tiễn của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xây dựng nên mô hình thể chế chính trị Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trong đó, tất cả nhân dân yêu nước Việt Nam là chủ thể quyền lực của nhà nước; nhà nước kiểu mới được xây dựng ở Việt Nam là nhà nước mang tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn thể dân tộc trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Cùng với quá trình ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm ra mô hình thể chế chính trị phù hợp với thực tiễn của Việt Nam sau ngày đất nước độc lập. Tư tưởng của Người về thể chế chính trị dân chủ cộng hòa dần được hình thành. Hội nghị Trung ương 8 (5-1941), dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, đã khẳng định sau khi Việt Nam giành được độc lập sẽ lập ra chính phủ dân chủ cộng hòa. Trong bản Hiến pháp năm 1946, tại chương I quy định về Chính thể đã viết: nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa.
Hồ Chí Minh ngay từ rất sớm đã phản đối sự chuyên quyền, độc đoán trong cách thức tổ chức quyền lực của thực dân Pháp. Đứng đầu Liên bang Đông Dương là một viên chức cao cấp người Pháp giữ chức danh toàn quyền Đông Dương. Chức danh này do Tổng thống Pháp bổ nhiệm. “Toàn quyền Đông Dương nắm toàn bộ các quyền lập pháp, lập quy, hành pháp, tư pháp ở Đông Dương”(1). Trong những tác phẩm tố cáo tội ác của thực dân Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Như ở tất cả các tỉnh, một tỉnh Bắc kỳ cũng có một vị công sứ Pháp... Ông ta là Chủ tịch tỉnh, đốc lý, chánh án, mõ tòa, chủ thầu. Ông kiêm tất cả mọi quyền hành: tư pháp, thuế vụ, sinh mệnh và tài sản của người bản xứ, việc bầu cử những người cầm quyền bản xứ, quyền lợi của công chức... Ông ta biết bắt giữ, tống giam và kết án một cách độc đoán những người An Nam để thu thuế họ...”(2).
Khát khao về một nền độc lập của dân tộc cùng mô hình nhà nước đoạn tuyệt với sự chuyên quyền, độc đoán đã tồn tại trước đó ở Việt Nam là cơ sở quan trọng để Hồ Chí Minh hướng tới mô hình thể chế chính trị cộng hòa cho Việt Nam sau khi đất nước độc lập. Bởi đó là thể chế xác định chủ thể quyền lực thuộc về số đông.
Trải qua một thời gian dài phát triển, các nước tư bản đã đạt được một số thành tựu liên quan đến vấn đề tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước và vấn đề con người. Những giá trị tiến bộ của thể chế chính trị cộng hòa không thể phủ nhận. Đó là thể chế chính trị khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về số đông. Hầu hết hiến pháp của các quốc gia theo thể chế chính trị cộng hòa đều khẳng định nguyên tắc bầu cử phổ thông, tức là chế độ bầu cử được mở rộng cho tất cả công dân.
Pháp và Mỹ là hai quốc gia tư bản đại diện cho hai mô hình thể chế chính trị cộng hòa đại nghị và cộng hòa tổng thống. Quyền con người đã được ghi trong Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hòa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791. Sự tuyên bố về các quyền con người, trong đó có quyền chính trị trong cách mạng tư sản và trong xã hội tư bản chủ nghĩa không chỉ dừng ở phạm vi các tuyên ngôn, mà còn được quy định trong văn bản có hiệu lực pháp lý tối cao, đó là hiến pháp. Nhân dân có quyền tham gia vào công việc nhà nước, có quyền bầu ra nguyên thủ quốc gia, cùng những người đứng đầu các cơ quan quyền lực nhà nước.
Tuy nhiên, nghiên cứu kỹ Hiến pháp tư sản sẽ có những quy định thể hiện sự dân chủ mang tính điều kiện. Hiến pháp năm 1791 của Pháp quy định chế độ bầu cử đã chia công dân thành hai loại tích cực và tiêu cực theo giá trị tài sản mà họ có. “Những người không có tài sản, quần chúng lao động bị coi là công dân tiêu cực. Quyền bầu cử chỉ dành cho các công dân tích cực là những người từ 25 tuổi trở lên, không làm thuê cho ai, có tên trong danh sách vệ quốc quân và phải nộp một khoản thuế trực thu ít nhất là ba ngày lương”(3). Những điều kiện do Hiến pháp quy định đã làm cho hàng triệu người lao động không có quyền bầu cử. Vì vậy, cuộc bầu cử Quốc hội năm 1791, ở Pháp chỉ có 4 triệu 28 vạn người là công dân tích cực trên tổng số 26 triệu dân được tham gia(4).
Hay như C.Mác đã nhận xét về các Nghị sĩ được bầu trong Hạ viện Anh vào thế kỷ XIX: “Hạ nghị viện trước đây, xét về trình độ trí tuệ chung ở dưới mức bình thường. Nghị viện này, một mặt chủ yếu gồm những quý tộc tỉnh lẻ và con cái của những đại địa chủ, mặt khác cũng gồm cả những chủ ngân hàng, những giám đốc công ty đường sắt, những chủ xưởng bia và những kẻ khác mới phất lên, trong đó cũng có một số nhà hoạt động chính trị, luật gia, giáo sư... Nghị viện khóa này ở một mức độ phi lý còn lớn hơn so với Nghị viện khóa trước, chỉ tuyệt đối đại diện cho bọn đại sở hữu ruộng đất và cho túi tiền”(5).
Thậm chí, cả thời gian sau này, trong quy định của nhiều nước tư bản vẫn có điều kiện hạn chế dân chủ. “Hay ở Mỹ trước năm 1920, ở Pháp trước năm 1944, ở Italia trước năm 1945, ở Thụy Sĩ trước năm 1972, phụ nữ không được đi bầu cử. Ở Niu Di Lân hiện nay, một cá nhân có thể có nhiều phiếu bầu cử, phụ thuộc vào số tiền họ có: dưới 1000 bảng Anh được 1 phiếu; từ 1000 đến 2000 bảng được 2 phiếu; trên 3000 bảng có 3 phiếu(6). Tại nước Mỹ, thời gian sau này, tổng thống Mỹ Bill Clinton đã định bãi bỏ điều luật mà theo đó để được tham gia bầu cử người ta phải trải qua kiểm tra xem đã thoát nạn mù chữ hay chưa.
Như vậy, quyền lực nhà nước được xác định trong thể chế cộng hòa ở các nước tư bản thuộc về số đông, nhưng số đông này không bao gồm nhân dân lao động, những người thuộc giai cấp vô sản, mà là những người hữu sản.
Năm 1871, trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản tại Pháp, công xã Pari ra đời. Tuy tồn tại không lâu, chỉ vỏn vẹn trong 72 ngày, nhưng đây được coi là mô hình tổ chức nhà nước đầu tiên của giai cấp vô sản trên thế giới. Nhân dân lao động tự thành lập ra Hội đồng công xã Pari, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Thành viên của Hội đồng bao gồm những ủy viên do nhân dân lao động bầu ra theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu.
Khi còn sống, C.Mác đã rất chăm chú theo dõi và rút ra bài học kinh nghiệm của công xã để phác họa mô hình nhà nước sẽ được xây dựng sau khi cách mạng vô sản thành công. Đến Lênin, ông đã xây dựng mô hình chính phủ công - nông - binh, một nhà nước mà quyền lực thuộc về bộ phận giai cấp vô sản, những người lao động chiếm số đông trong xã hội sau cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917.
Các Xôviết được xây dựng theo nguyên tắc đại diện cho giai cấp công nhân, nông dân và binh lính. Tầng lớp tư sản, địa chủ không được tham gia vào công việc nhà nước, hay nói cách khác bị tước các quyền chính trị như bầu cử, ứng cử.
Mô hình chính quyền Xôviết được thành lập trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thể chế chính trị, đồng thời căn cứ vào thực tiễn của nước Nga thời điểm đó. Tất cả quyền lực nhà nước tập trung vào trong tay các Xôviết của giai cấp công nhân, nông dân và binh sĩ. Các Xôviết tối cao và Xôviết địa phương thành lập ra các ủy ban chấp hành các cấp. Ủy ban chấp hành các cấp là cơ quan thừa hành của Xô viết và chịu trách nhiệm trước các Xôviết.
Như vậy, chủ thể quyền lực nhà nước trong thể chế cộng hòa Xôviết đó là công nhân, nông dân, binh lính, là những giai cấp, tầng lớp lao động bị tư bản bóc lột.
Năm 1920, khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh đã xác định con đường cứu nước của Việt Nam phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Mô hình nhà nước theo quan điểm lúc đầu của Hồ Chí Minh cũng là mô hình cộng hòa Xô Viết. Trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 2-1930, đã khẳng định sau khi đánh đuổi thực dân Pháp sẽ lập ra chính phủ công - nông - binh ở Việt Nam.
Nhưng từ thực tiễn của Việt Nam, Người có sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư tưởng về mô hình nhà nước dành cho Việt Nam. Cuộc cách mạng ở Nga và cách mạng Việt Nam khác nhau về tính chất, đặc điểm. Cách mạng Tháng Mười Nga mang tính chất của một cuộc nội chiến. Trong khi cách mạng Việt Nam vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính dân tộc. Sự khác nhau này chi phối đến nhiều vấn đề trong cuộc cách mạng và chi phối đến sự khác nhau trong việc quan niệm đối tượng nào là lực lượng cách mạng, là chủ thể quyền lực nhà nước.
Hội nghị Trung ương 8 (5-1941) đã chủ trương thay thế chính phủ công - nông - binh bằng chính phủ nhân dân. Hội nghị nêu rõ sau khi đánh đuổi Pháp - Nhật sẽ thành lập chính quyền. “Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng của một giai cấp nào mà của chung toàn thể dân tộc, chỉ trừ có bọn tay sai của đế quốc Pháp - Nhật và những bọn phản quốc, những bọn thù, không được giữ chính quyền, còn ai là người dân sống trên dải đất Việt Nam thảy đều được một phần tham gia giữ chính quyền, phải có một phần nhiệm vụ giữ lấy và bảo vệ chính quyền ấy”(7).
Ngay từ năm 1930, khi soạn ra Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Nguyễn Ái Quốc xác định lực lượng cách mạng là tất cả người dân Việt Nam yêu nước trên nền tảng liên minh công nông. Nhưng chủ thể của chính quyền chỉ là công nhân, nông dân và binh lính. Đến năm 1941, Hồ Chí Minh vẫn giữ quan điểm về lực lượng cách mạng Việt Nam, nhưng Người đã có bước phát triển trong tư tưởng: lực lượng cách mạng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sẽ chính là chủ thể quyền lực nhà nước sau ngày độc lập. Từ chỗ, quan niệm “nhân dân” là những lực lượng có sức mạnh to lớn nhất, đến chỗ quan niệm đó là lực lượng có quyền lực to lớn nhất là bước tiến trong tư tưởng Hồ Chí Minh về việc xác định chủ thể quyền lực nhà nước.
Chủ thể quyền lực là toàn thể nhân dân trong nước, không phân biệt họ là bộ phận có tài sản hay không có tài sản. Khi họ đã đấu tranh vì độc lập dân tộc, khi họ đã cố gắng, nỗ lực vì sự phát triển chung của đất nước thì họ hoàn toàn có quyền làm chủ đất nước. Nhà nước phải đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, làm việc vì lợi ích của nhân dân. Quan niệm nhân dân là những ai được thể hiện rất rõ trong tác phẩm Thường thức chính trị (1953) của Hồ Chí Minh. Người viết: Nhân dân và quốc dân khác nhau. Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử yêu nước khác. Đó là nền tảng của quốc dân. Những bọn phản động chưa đến nỗi bị xử tử, vẫn là quốc dân. Nhưng chúng không được ở trong địa vị nhân dân, không được hưởng quyền lợi như nhân dân. Chúng không có quyền tuyển cử, ứng cử; không có quyền tổ chức tuyên truyền, v.v.. Song, chúng cần phải làm tròn nghĩa vụ, như phục tùng trật tự, tuân theo pháp luật của nhân dân. Đối với nhân dân, thì công cụ của nhà nước dân chủ mới - (Chính phủ, pháp luật, công an, quân đội...) - là để giữ gìn quyền lợi của nhân dân. Đối với bọn phản động thì những tổ chức ấy là để bắt buộc chúng phải làm tròn mọi nghĩa vụ(8).
Quan điểm này giúp cách mạng Việt Nam huy động được cao nhất sức mạnh của dân tộc trong cuộc đấu tranh chống lại thực dân Pháp và phát xít Nhật để giành độc lập. Chính phủ nhân dân được thành lập, chủ thể quyền lực của nhà nước Việt Nam được mở rộng đến mức cao nhất: đó là toàn thể nhân dân Việt Nam. Tiêu chí để khẳng định ai là nhân dân Việt Nam đó là “tinh thần yêu nước”. Thời kỳ Việt Nam bị thực dân Pháp cai trị, “tinh thần yêu nước” rất dễ nhận biết, đó là những con người không phân biệt giai cấp, đảng phái có tinh thần chống thực dân Pháp, muốn đem lại độc lập dân tộc thực sự cho đất nước Việt Nam. Bên cạnh đó, có những bộ phận là người Việt Nam nhưng tự loại mình ra khỏi nhân dân, ra khỏi dân tộc, chấp nhận làm tay sai cho thực dân Pháp, đứng ngoài cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Nhà nước Việt Nam ra đời năm 1945 là nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Bản Tuyên ngôn Độc lập đã tuyên bố với toàn thể nhân dân trong nước và trên thế giới, Việt Nam là quốc gia độc lập, thể chế chính trị của Việt Nam là dân chủ cộng hòa. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ thể quyền lực trong nước là toàn thể nhân dân được thể chế hóa một cách mạnh mẽ trong bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946, đặc biệt trong quy định về quyền bầu cử của công dân Việt Nam. Công dân Việt Nam khi đến tuổi trưởng thành (18 tuổi trở lên) đều có quyền bầu cử. Không có bất kỳ điều kiện giới hạn nào, kể cả những trường hợp không biết đọc, biết viết. Tinh thần này tiếp tục được duy trì trong bản Hiến pháp 1959 và kế thừa trong các bản Hiến pháp sau này của Việt Nam.
Nhà nước kiểu mới được xây dựng ở Việt Nam là nhà nước mang “tính nhân dân”, “tính dân tộc”, bao gồm không chỉ bộ phận giai cấp vô sản mà còn cả những người dân Việt Nam yêu nước, phấn đấu vì mục tiêu chung của dân tộc. Ở điểm này, Hồ Chí Minh đã phát triển một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin.
Học thuyết Mác - Lênin không phải là lời giải sẵn có cho mọi vấn đề của tất cả các cuộc cách mạng, trong đó có cách mạng Việt Nam. Tất cả nhân dân yêu nước Việt Nam là chủ thể quyền lực trong nước. Đó là yếu tố cơ bản xác định thể chế chính trị Việt Nam là thể chế chính trị dân chủ cộng hòa, hay có thể gọi là thể chế chính trị cộng hòa dân chủ nhân dân. Nó không giống thể chế cộng hòa ở các nước tư bản, cũng không giống thể chế cộng hòa Xôviết.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ thể quyền lực nhà nước, người ta thấy có sự kết hợp linh hoạt, sáng tạo giữa lý luận và thực tiễn. Kế thừa những ưu điểm của các mô hình thể chế cộng hòa trên thế giới, dựa trên đặc thù của lịch sử Việt Nam cùng tài năng, trí tuệ cá nhân, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm riêng về chủ thể quyền lực nhà nước phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phát huy được sức mạnh tổng hợp của dân tộc Việt Nam. Sự sáng tạo này góp phần làm phong phú thêm lý thuyết về các loại hình thể chế chính trị cộng hòa trên thế giới.
___________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 8-2018
(1) Đinh Xuân Lâm, Dương Lan Hải (chủ biên): Nghiên cứu Việt Nam, một số vấn đề lịch sử kinh tế - xã hội - văn hóa, Nxb Thế giới, Hà Nội, 1998, tr.70.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.48.
(3), (4) Văn phòng Quốc hội: Quá trình hình thành, phát triển và vai trò của Quốc hội trong sự nghiệp đổi mới, Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội, 2001, tr.218, 219.
(5) C.Mác, Ph. Ăngghen: Toàn tập, t.18, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.669.
(6) Nguyễn Đăng Dung, Bùi Ngọc Sơn: Thể chế chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.99-100.
(7) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.114.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8 (1953-1954), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.264.
ThS Nguyễn Thị Lan Phương
Đại học Thương mại
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/2714-quan-diem-cua-ho-chi-minh-ve-nhan-dan-trong-vai-tro-nguoi-chu-quyen-luc-nha-nuoc.html


THẬT LÀ SAI TRÁI KHI PHỦ NHẬN HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA C.MÁC


THẬT LÀ SAI TRÁI KHI PHỦ NHẬN HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA C.MÁC

C.Mác đã khẳng định CNTB không hề thay đổi bản chất bóc lột giá trị thặng dư của công nhân. Nhưng ngày nay, CNTB đã điều chỉnh về kinh tế để thích nghi với quan hệ sở hữu tư nhân, làm cho nhiều người lầm tưởng là CNTB đã thay đổi bản chất. Đặc biệt, sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã trở thành “cớ” để các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác.
Học thuyết giá trị thặng dư là học thuyết khoa học và cách mạng được ra đời ở thế kỷ XIX, được coi là hòn “đá tảng” trong Bộ Tư bản, C.Mác vạch rõ nguồn gốc, bản chất của giá trị thặng dư là phần dôi ra ngoài giá trị sức lao động của người công nhân bị nhà tư bản chiếm. Vì vậy, Người khẳng định: sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân là tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp, xóa bỏ chế độ người bóc người, xóa bỏ CNTB, xây dựng chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn thấp là CNXH.
1. Những lập luận phủ nhận học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác
Trên mạng xã hội hay sách báo, một số người cho rằng:
Thứ nhất, học thuyết giái trị thặng dư của C.Mác ra đời đã vạch rõ bản chất bóc lột sức lao động công nhân trong lĩnh vực sản xuất tư bản chủ nghĩa ở thế kỷ XIX, nhưng đến nay sau gần 200 năm, không còn phù hợp với thực tiễn, nhất là ngày càng có nhiều nhà máy hiện đại của CNTB “không người”, thay vào đó là hệ thống máy móc, dây truyền sản xuất tự động hiện đại, robot thông minh do con người cài đặt, lập trình sẵn.
Thứ hai, giá trị thặng dư mà nhà tư bản có được không phải do bóc lột sức lao động của công nhân mà là phần của nhà tư bản được hưởng do công tổ chức, quản lý sản xuất. Đây là khâu không thể thiếu trong quá trình sản xuất, nên cũng giống như các loại lao động sản xuất hàng hóa khác, nhà tư bản với vai trò là người tham gia gián tiếp tạo ra của cải vật chất, mội loại “lao động quản lý”, “lao động trí tuệ cao không ai có thể thay thế được” thì tất nhiên sẽ được hưởng tiền công “xứng đáng”. C.Mác lại gán ghép cho cái tên “giá trị thặng dư” do bóc lột sức lao động của công nhân mà có là chưa thỏa đáng.
Thứ ba, CNTB có bóc lột sức lao động của công nhân hay không, điều đó không quan trọng bằng đời sống vật chất và tinh thần không chỉ của công nhân mà tất cả mọi người trong xã hội tư bản đều được nâng cao, sự hưởng thụ ngày càng nhiều. Ngoài tiền công, người lao động còn được hưởng thêm nhiều nguồn thu thông qua đóng góp cổ phần, phúc lợi xã hội, các tổ chức từ thiện và sự hỗ trợ của nhà nước tư sản. Việt Nam đang phát triển nền kinh tế thị trường, đang diễn ra quan hệ thuê mướn lao động và đang có tình trạng bóc lột sức lao động của công nhân. Vì vậy, sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam đã tự phủ định cho học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác.
Ngoài ra, thực tiễn mấy trăm năm kể từ khi CNTB ra đời đến nay chứng minh rằng: bóc lột giá trị thặng dư làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng và CNTB chưa hề “giãy chết” hay chưa “sụp đổ”, có chăng chỉ bị khủng hoảng trong một thời gian nhất định. Ngược lại CNXH hiện thực được xây dựng theo học thuyết của Mác - Lênin ở Liên Xô, các nước Đông Âu đã sụp đổ, có nghĩa là lý thuyết sai lầm.
Trong xã hội tư bản hiện nay, người lao động giỏi đang làm việc “chăm chỉ” cho nhà tư bản và được trả công khá cao, điều kiện làm việc tương đối đầy đủ, thuận lợi và các chế độ đãi ngộ khác... Người lao động cảm thấy hài lòng, mong muốn được gắn bó lâu dài, thậm chí được làm việc suốt đời với ông chủ tư bản. Nếu không muốn làm công việc hiện tại thì người lao động có quyền tự do di chuyển sang nơi khác làm. Trên thực tế, ngày càng có nhiều lao động chất lượng cao tìm mọi cách đến làm việc cho các tập đoàn tư bản lớn. Vậy làm sao có thể nói nhà tư bản bóc lột sức lao động của người công nhân?
Hơn nữa, trên thế giới hiện nay chỉ còn một vài nước quá độ lên CNXH  trong điều kiện kinh tế - xã hội không mấy thuận lợi, thậm chí đời sống nhân dân khó khăn, điều kiện vật chất thiếu thốn. Trong khi đó, các nước tư bản phát triển ngày càng khẳng định điều kiện “vượt trội”, phát triển kinh tế nhanh, đời sống con người về mọi mặt được cải thiện hơn nhiều so với các nước đi theo con đường XHCN. Điều này là minh chứng sống động cho CNTB là một xã hội ưu việt, tốt đẹp nhất mà con người tất yếu phải hướng tới.
2. Cần phê phán, bác bỏ các luận điệu phủ nhận học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác
Về quan điểm thứ nhất, cho dù lịch sử phát triển công cụ lao động đến nay đã trải qua 4 cuộc cách mạng công nghiệp, nhưng học thuyết giá trị thặng dư của Mác vạch ra quy luật vận động kinh tế của xã hội tư bản vẫn đúng.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với 3 nội dung chủ yếu là: trí tuệ nhân tạo (AI), vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data) tác động đến hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhất là các nước có nền kinh tế phát triển, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, lĩnh vực kinh tế chịu ảnh hưởng nhiều nhất, làm cho sức sản xuất hay năng lực sản xuất của cải vật chất ngày càng lớn, tạo ra một năng suất lao động cao hơn nhiều so với những cuộc cách mạng đã diễn ra trong lịch sử... Chính vì vậy, câu hỏi đặt ra là: phải chăng, vai trò của người lao động trong quá trình sản suất không còn, hệ thống người máy thông minh sẽ tạo ra giá trị thặng dư lớn hơn rất nhiều so với lao động sống? Câu trả lời là: cho dù tự động hóa hoàn toàn trong sản xuất thì vẫn cần người điều khiển, theo dõi, giám sát để tiếp tục nghiên cứu ra hệ thống công nghệ hiện đại hơn thay thế công nghệ cũ, lạc hậu để tạo ra năng suất lao động cao hơn. Vì vậy, người lao động vẫn là yếu tố chủ thể quan trọng duy nhất để tạo ra giá trị thặng dư.
Nếu tuyệt đối hóa vai trò của máy móc mà phủ nhận vai trò của người lao động đối với việc tăng năng xuất lao động là hoàn toàn phi lý. Cho dù khoa học, công nghệ ngày càng phát triển với tốc độ cao và đưa vào sản xuất với các loại máy móc, thiết bị hiện đại, thì càng đòi hỏi người lao động phải có trình độ chuyên môn tương ứng. Hơn nữa, thực tiễn đã chứng minh, con người luôn là chủ thể sáng tạo và điều khiển công cụ lao động, nếu thiếu người lao động có trình độ chuyên môn tương ứng thì không thể điều khiển được máy móc, không thể làm chủ được các công nghệ hiện đại để chúng vận hành theo ý muốn của mình. Tức là, chúng ta không thể hiểu đơn giản cứ sử dụng sức lao động trong sản xuất là tạo ra năng xuất lao động cao, mà người lao động phải được đào tạo, rèn luyện sức khỏe, huấn luyện chuyên môn giỏi, kỹ năng thành thạo cần thiết mới có thể làm chủ được toàn bộ công nghệ hiện đại.
C.Mác phân tích vai trò quan trọng của máy móc, khoa học kỹ thuật đối với quá trình sản xuất ra của cải vật chất. C.Mác cũng đưa ra dự báo: quá trình sản xuất phát triển ngày càng ít phụ thuộc hơn vào thời gian lao động và số lượng lao động, phụ thuộc nhiều vào trình độ chung của tiến bộ kỹ thuật, lúc này, vị trí của công nhân là đứng bên cạnh quá trình sản xuất, làm nhiệm vụ kiểm soát và điều tiết quá trình sản xuất, mặt khác khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, phát minh trở thành một nghề đặc biệt(1). Như vậy, bằng việc phân tích hết sức khoa học, C.Mác khẳng định: Lao động biểu hiện ra không phải chủ yếu là lao động được nhập vào quá trình sản xuất, mà chủ yếu là một loại lao động, trong đó con người là người kiểm soát và điều tiết bản thân quá trình sản xuất. Hệ thống máy móc tự động sẽ từng bước thay thế hầu hết lao động trực tiếp... Khi ấy, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, phát minh trở thành một nghề đặc biệt... có tính chất quyết định và kích thích.C.Mác cũng đã chỉ rõ, vai trò của máy móc sẽ không tạo ra hay làm tăng thêm bất cứ một gam giá trị nào.
Về quan điểm thứ hai, trong Bộ Tư bản, C.Mác lý giải về vai trò của lao động quản lý cũng được hưởng tiền công, nhưng cao hơn so với lao động của người công nhân bình thường, bởi tính chất đặc biệt của nó. C.Mác còn luận giải về sự ra đời phương thức sản xuất TBCN, thời gian đầu cũng có một số nhà tư bản vừa là ông chủ, vừa trực tiếp tham gia quản lý sản xuất, cho nên nhà tư bản thu được cả giá trị thặng dư và tiền công của mình. Tuy nhiên, cách làm này của nhà tư bản chỉ tồn tại trong thời gian ngắn và không phổ biến, về sau và cho đến nay thì tất cả người quản lý đều do nhà tư bản bỏ tiền thuê. Do đó, không thể cho rằng giá trị thặng dư của nhà tư bản là tiền công trả cho chính mình, điều này cũng được minh chứng rất rõ trong nền sản xuất ở các nước tư bản hiện nay, nhà tư bản không bao giờ tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất.
Về quan điểm thứ ba, CNTB đã dùng một phép so sánh khập khiễng, và là một sự ngụy biện khôn khéo nhằm hướng lái, che chắn bản chất bóc lột sức lao động của người công nhân sang kết quả, điều kiện sống mà người lao động được thụ hưởng. Không thể phủ nhận rằng, hiện nay, đời sống người công nhân trong xã hội tư bản đã được nâng cao, thu nhập không chỉ từ tiền công người công nhân nhận được hàng tháng, mà còn có thêm các khoản thu khác như lợi tức cổ phần, tăng ca, tăng giờ, trợ cấp khó khăn, thất nghiệp, ốm đau, phúc lợi xã hội... Tuy nhiên, tất cả những phần thu của người công nhân nhận được, một mặt không bao giờ tỷ lệ thuận với sức lao động của chính bản thân bỏ ra. Mặt khác, nhu cầu đòi hỏi của con người tất yếu ngày càng cao, theo đó chi phí sẽ tăng, trong khi thu nhập không đáp ứng được. Bên cạnh đó, mặc dù thu nhập của lao động trong xã hội tư bản cao, nhưng mức giá cả sinh hoạt rất đắt đỏ, nên nhiều người lao động chỉ sống ở mức tối thiểu, thậm chí không đủ còn nhờ vào sự trợ cấp xã hội của Chính phủ và các tổ chức từ thiện khác. Ví dụ: ở Mỹ, trợ cấp lương thực tăng từ 38 tỷ USD (2007) lên 74,6 tỷ USD (2017), 18,7% hộ gia đình nhận trợ cấp. Năm 1975, có 8% người Mỹ nhận trợ cấp lương thực, năm 2017 là 15%(2).
Sự thật bản chất bóc lột giá trị thặng dư của CNTB ngày nay vẫn không thể phủ nhận được, còn thu nhập của người công nhân ngày càng cao, điều kiện làm việc tốt hơn, làm cho người lao động giỏi cảm thấy hài lòng, vì mình được tôn trọng hơn lại là một việc hoàn toàn bình thường, đấy là nghệ thuật sử dụng người lao động giỏi của nhà tư bản. Để tạo ra hàng hóa dịch vụ tốt hơn, đáp ứng nhu cầu của thị trường, nhà tư bản sẽ “chấp nhận” chi thêm tiền do chính người công nhân đó tạo ra, chứ không bao giờ nhà tư bản bớt một phần giá trị thặng dư của mình để trả thêm vào tiền công cho người công nhân. Chiêu trò “lừa bịp” này không còn mới mà nhà tư bản đã sử dụng từ lâu. Nếu nhìn bên ngoài chỉ thấy người công nhân giỏi được hưởng lợi, nhưng thực chất nhà tư bản mới là người được hưởng lợi nhiều nhất.
Lịch sử đã chứng minh rằng, nhờ C.Mác mà CNTB đã điều chỉnh rất nhiều phương pháp và cách thức hoạt động - được gọi là CNTB thích nghi. Mặc dù nền kinh tế TBCN ngày nay đã phát triển đến một trình độ cao, tạo ra lực lượng sản xuất khổng lồ, nhưng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vẫn diễn ra gay gắt. CNTB đã phải thường xuyên đương đầu với những cuộc khủng hoảng nặng nề, với nhiều nguy cơ suy thoái và nạn thất nghiệp diễn ra phổ biến.
Chính vì vậy, Đảng ta khẳng định: “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản”(3).
Chúng ta không phủ nhận là lực lượng sản xuất ở các nước TBCN hiện nay đã phát triển cao hơn nhiều so với các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Câu hỏi đặt ra là: nguồn gốc sự giàu có của CNTB là ở đâu? Câu trả lời là: do mồ hôi, công sức của hàng triệu công nhân trên khắp thế giới ngày đêm làm ra, nhưng họ chỉ được hưởng một phần rất nhỏ, phần lớn còn lại thuộc về nhà tư bản. Bên cạnh đó, xã hội tư bản ngày nay đang phải đối mặt với nhiều bất cập, hệ lụy mà không bao giờ có biện pháp “điều trị”. Đó là: nạn thất nghiệp, nạn đói, phân hóa giầu nghèo, cạnh tranh, độc quyền, bảo hộ mậu dịch, thuế quan, chiến tranh thương mại, nhà ở, dịch bệnh, chiến tranh, dân di cư, khủng bố, mâu thuẫn tôn giáo, sắc tộc, chạy đua vũ trang,... Chỉ có thể xóa bỏ chế độ tư hữu, bóc lột giá trị thặng dư của CNTB mới giải quyết tận gốc rễ căn bệnh.
Trước đây, có một thời chúng ta nhận thức chưa đầy đủ, thậm chí còn máy móc khi cho rằng trong CNXH, thậm chí cả trong thời kỳ quá độ lên CNXH , không thể tồn tại và phát triển kinh tế hàng hóa, càng không có kinh tế thị trường, do đó cũng không tồn tại phạm trù giá trị và giá trị thặng dư.
Qua thực tiễn hơn 30 năm đổi mới, chúng ta ngày càng nhận thức rõ rằng: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với CNXH , mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH  và cả khi CNXH  đã được xây dựng”(4).
Thực chất, giữa nền kinh tế thị trường TBCN và kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam chỉ khác nhau cơ bản ở quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ phân phối giá trị thặng dư mà người công nhân tạo ra. Theo đó, trong công cuộc xây dựng CNXH và cả trong CNXH, vẫn còn phạm trù giá trị thặng dư. Vì thế, chúng ta phải học tập phương thức tổ chức, quản lý của các nhà tư bản để sản xuất ra càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt nhằm mục đích thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đồng thời từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Điều này được thể hiện nhất quán trong đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật Nhà nước, trên cơ sở vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn khách quan.
Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế ở nước ta trong một chừng mực nào đó, quan hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận giáo điều, xơ cứng. Càng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều thành phần kinh tế, chúng ta càng thấy rõ: chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn phải chấp nhận sự tồn tại của nó, nhưng sản xuất giá trị thặng dư chỉ là phương tiện, điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội, chứ không bao giờ là quy luật tuyệt đối. Bởi mục tiêu của CNXH là mang lại cho con người cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về chế độ người bóc lột người trong xã hội tư bản vẫn giữ nguyên giá trị khoa học. Mặc dù đã có sự thay đổi và điều chỉnh, song, có thể khẳng định: bản chất bóc lột của CNTB không thay đổi; khi nào những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản còn tồn tại, thì khi ấy học thuyết giá trị thặng dư vẫn sẽ mãi là ánh sáng chỉ đường cho sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và loài người khỏi mọi hình thức nô dịch, áp bức, bóc lột của CNTB.
_____________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 7-2018
(1) C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.6 (Phần II), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.368-369.
(2) Sự thật về cuộc sống ở Mỹ thất nghiệp nhận trợ cấp còn hơn đi làm, https://www.youtube.com.
(3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.68.
(4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.97.

TS Vương Thanh Tú
Học viện Chính trị Công an nhân dân
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-dan/item/2703-that-la-sai-trai-khi-phu-nhan-hoc-thuyet-gia-tri-thang-du-cua-cmac.html

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI THẦY TRONG SỰ NGHIỆP TRỒNG NGƯỜI


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM
CỦA NGƯỜI THẦY TRONG SỰ NGHIỆP TRỒNG NGƯỜI

Sự nghiệp trồng người - giáo dục đào tạo được xác định rõ là sự nghiệp chung của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội nhưng người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ là nhà giáo. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề then chốt quyết định chất lượng giáo dục chính là đội ngũ những người thầy giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Bởi vì các thầy giáo, cô giáo mang trên mình nhiệm vụ nặng nề là đào tạo cán bộ cho nước nhà; là “người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn hóa” thầy, cô giáo có trách nhiệm truyền bá cho thế hệ trẻ lý tưởng đạo đức chân chính, hệ thống các giá trị, tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại, bồi dưỡng cho họ những phẩm chất cao quý và năng lực sáng tạo phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nhiệm vụ giáo dục là rất quan trọng và vẻ vang, nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục… không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế - văn hóa”(1). Thầy, cô giáo là người định hướng, dẫn dắt thế hệ trẻ từng bước nắm bắt chân lý thời đại, cho nên mọi tài liệu, giáo trình dù hay đến đâu nếu không có thầy giáo hướng dẫn thì không phát huy hết tác dụng đối với thế hệ trẻ. Người thầy là yếu tố quyết định đến chất lượng giáo dục, sản phẩm của dạy học là tương lai của dân tộc. Vì vậy, mỗi nhà giáo cần quán triệt đầy đủ, sâu sắc, toàn diện những lời dạy quý báu, những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục, về vai trò, trách nhiệm của người thầy giáo đối với Tổ quốc, với nhân dân.
Từ lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vị trí, vai trò của các thầy giáo, cô giáo đối với xã hội - họ là người quyết định thành công công cuộc xây dựng và đổi mới nền giáo dục. Điều đó, vừa khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của nghề “dạy chữ, dạy người”, vừa nói lên trọng trách mà xã hội đặt trọn niềm tin lên vai nhà giáo. Các thầy giáo, cô giáo có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang làm người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng, văn hóa; có trách nhiệm truyền bá cho thế hệ trẻ lý tưởng đạo đức chân chính, hệ thống các giá trị, tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại, bồi dưỡng cho họ những phẩm chất cao quý và năng lực sáng tạo, phù hợp với sự phát triển và tiến bộ xã hội. 
Ngược theo dòng lịch sử, ta nhìn nhận về sự nghiệp giáo dục cách mạng, người giáo viên hiện lên với nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho nước nhà, là những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng, văn hóa; có trách nhiệm truyền bá cho thế hệ trẻ lý tưởng đạo đức chân chính, hệ thống các giá trị, tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại; bồi dưỡng cho họ những phẩm chất cao quý và năng lực sáng tạo phù hợp với sự phát triển và tiến bộ xã hội. Từ đó, đòi hỏi người giáo viên phải có đức và có tài. Đức của nhà giáo là tư cách, tình yêu thương, trách nhiệm đối với nghề, với học sinh; còn tài là sự am hiểu, vốn tri thức, vốn kinh nghiệm thực tiễn… Mỗi thầy cô giáo phải luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt. Vấn đề này càng có ý nghĩa lớn khi liên hệ, vận dụng vào tình hình hiện nay khi nhân loại đã có những bước tiến nhanh chóng về khoa học - công nghệ; khi Việt Nam đang ở thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức. Trong thời đại như vậy, dừng lại, thậm chí là tiến chậm là bị tụt hậu, là bị thụt lùi so với dòng chảy của tri thức nhân loại. 
Thực hiện tốt yêu cầu này là quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lý tưởng và mục đích học tập, phấn đấu của người thầy, người trí thức. Mỗi nhà giáo phải xác định mục đích “Học để làm gì? Học để phục vụ ai?”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết là: “học để làm việc”, biết làm việc vừa là năng lực, nhưng xét sâu xa nó lại đồng thời là đạo đức, là biểu hiện văn hóa chính trị của mỗi người. Hai là, “học để làm người”, người thầy có trách nhiệm hướng dẫn cho nhân dân, tức là gương mẫu, đòi hỏi và bắt buộc người khác làm tròn nghĩa vụ công dân. Ba là, học để “làm cán bộ”, tức là học để làm tròn chức trách của mình. Chỉ có học “biết làm việc”, “biết làm người” mới có thể “biết làm cán bộ” để phụng sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại. Nói về đạo đức nhà giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên những phẩm chất cơ bản, đó là: hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân; thương yêu học trò và yêu nghề; yêu lao động và quý trọng người lao động chân tay; có tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đạo đức nhà giáo hay đạo đức nghề dạy học theo tư tưởng của Bác, có thể được hiểu là những quy tắc, chuẩn mực quy định thái độ, hành vi ứng xử của nhà giáo trong đời sống và đạo đức nhà giáo có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục - đào tạo. Ngoài ra, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức nhà giáo yêu nghề, yêu trường thôi chưa đủ mà còn phải yêu chủ nghĩa xã hội bởi đó là mục tiêu mà dân tộc đang hướng tới. Về trí tuệ và tài năng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, một nhà giáo giỏi không đòi hỏi phải tinh thông tất cả mọi lĩnh vực, hiểu hết tri thức của nhân loại, nhưng do yêu cầu của nghề nghiệp nên nhà giáo phải không ngừng trau dồi kiến thức, đặc biệt phải thành thạo lĩnh vực chuyên môn của mình, đáp ứng ngày càng tốt hơn sự nghiệp giáo dục - đào tạo; không được bằng lòng với kiến thức đã có, thường xuyên tích lũy kiến thức, tự học, tự bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, phương pháp sư phạm để thực sự là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Từ đó, Người khuyên mọi người thực hiện theo lời dạy của Lê-nin “Học, học nữa, học mãi” và lấy phương châm “học không biết chán, dạy không biết mỏi” của Khổng Tử để thực hành trong công việc. Bên cạnh yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ, Bác còn lưu ý giáo viên phải coi trọng học tập chính trị để củng cố đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao hiểu biết chính trị để hoàn thành tốt trọng trách “trồng người”. 
Trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa, người thầy giáo thường xuyên được tiếp cận với các phương tiện kỹ thuật, công nghệ hiện đại, nắm bắt được những thông tin mới, đa dạng, nhiều chiều và hết sức phức tạp. Nếu không trang bị nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nếu thiếu hiểu biết đầy đủ, sâu sắc về lịch sử đất nước và truyền thống văn hóa Việt Nam làm tiêu chuẩn để lựa chọn những thông tin có ích cho dân, cho nước thì họ khó tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực do mặt trái của toàn cầu hóa gây ra, làm suy yếu chất lượng nguồn lực trí tuệ của dân tộc. Bởi lẽ, một trong những chức năng, nhiệm vụ của người trí thức nói chung, nhà giáo nói riêng là tuyên truyền văn hóa, giáo dục và đào tạo nâng cao dân trí, hình mẫu nhân cách cho xã hội. Một khi có được bản lĩnh chính trị, tư tưởng vững vàng trước những tác động tiêu cực, họ chính là những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hóa, tư tưởng, thực hiện công tác giáo dục truyền thống của dân tộc, lý tưởng, đạo đức cách mạng và là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ noi theo. C. Mác đã nói: “Bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”, người thầy giáo cần phải tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị và đạo đức nhà giáo, đó là: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, trung với nước, hiếu với dân, để nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, sẵn sàng nhận lấy trách nhiệm phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân làm mục tiêu phấn đấu suốt đời, đồng hành với dân tộc tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước phồn vinh. Đó chính là đạo đức cách mạng mà mỗi người trí thức nói chung, người thầy nói riêng phải rèn luyện thường xuyên, lâu dài. Và chỉ khi thực hiện được điều này người thầy mới vững vàng vượt qua trước mọi khó khăn, cám dỗ để làm tròn bổn phận. 
Song hành cùng đức và tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đặc biệt quan tâm đến phương pháp nêu gương của giáo viên, bởi: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền”, do đó tấm gương nhà giáo có tác dụng giáo dục học sinh rất lớn. Thầy tốt thì ảnh hưởng tốt, thầy xấu thì ảnh hưởng xấu; một tấm gương sáng của người thầy sẽ có cả một thế hệ noi theo, ngược lại một hành vi xấu của người thầy có thể làm tổn thương, làm mất niềm tin cả một lớp người. Người thường dặn dò, các thầy, cô giáo không được đánh mất phẩm chất của mình, dù hoàn cảnh nào cũng phải là tấm gương cho học sinh noi theo, tránh thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống thực tế, lười biếng trong học tập và nâng cao trình độ; thái độ kèn cựa địa vị, xem nhẹ công việc của mình, thiếu tinh thần xây dựng tập thể,... Nhà giáo là tấm gương cho nhân dân, cho thế hệ trẻ của đất nước noi theo. Người thầy nêu gương rõ nét nhất khi có trách nhiệm đi tiên phong trong việc tự học, tự nghiên cứu nâng cao năng lực công tác, trình độ chuyên môn để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ được phân công. Đây không chỉ là một trong những đặc thù của người trí thức, mà theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đó còn là nhiệm vụ hàng đầu của trí thức, của nhà giáo - “chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”. Người thầy phải gương mẫu thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đi đầu trong mọi công việc của cơ quan, đơn vị, công tác được đoàn thể giao phó, làm việc hết sức mình, làm việc chất lượng, làm việc có hiệu quả, có năng suất. Bản thân mỗi người thầy giáo phải xây dựng cho mình một phong cách sống khiêm tốn, giản dị, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, không ham danh lợi, chức quyền. 
Lối sống mẫu mực mà mỗi người thầy thể hiện không chỉ bảo tồn những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, mà còn góp phần nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, hình thành tác phong công nghiệp cho người lao động; đưa lối sống văn hóa thấm sâu vào từng người, trong mỗi gia đình, khu dân cư, công sở, doanh nghiệp... góp phần tạo sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong mọi tầng lớp nhân dân để xây dựng và phát triển đất nước. Người thầy không chỉ chọn lọc, tiếp thu những tinh hoa, trí tuệ của nhân loại, mà còn có trách nhiệm giới thiệu, thể hiện và phổ biến với loài người tiến bộ trên toàn thế giới về truyền thống văn hóa của dân tộc ta, tinh thần yêu nước của nhân dân ta đã được hun đúc qua hàng nghìn năm văn hiến. Đó chính là sự kết tinh tinh thần và trí tuệ của cả dân tộc Việt Nam - dân tộc yêu chuộng hòa bình, công lý, là người bạn đáng tin cậy cho sự hợp tác và phát triển. Tất cả những giá trị đó cần được thể hiện qua chính phong cách, lối sống, tư duy, hành động, chất lượng, hiệu quả của công việc mà mỗi trí thức đảm nhận trách nhiệm trước Tổ quốc và nhân dân.
Một nguyên do căn bản mà Bác Hồ luôn đề cao và yêu cầu cao đối với nghề dạy học xuất phát từ việc trồng cây đã khó, trồng người còn khó hơn. Sản phẩm của “trồng người” là tạo ra con người của thế hệ tương lai, do đó không được phép làm ra sản phẩm lỗi. Một người cán bộ, một công nhân tồi có thể làm hỏng một vài sản phẩm, vài công trình, nhưng một người giáo viên tồi có thể làm hỏng cả một thế hệ, đó là hậu quả khôn lường mà cả xã hội phải gánh chịu. Vì lẽ đó, nhà giáo cần phải thường xuyên trau dồi không chỉ trình độ chuyên môn mà còn cả về đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong và cái tâm trong sáng để xứng đáng với danh hiệu “Người kỹ sư tâm hồn” để có thầy giỏi thì rồi sẽ có trò giỏi. 
Kế thừa và phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc, thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta hết sức chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, đã có những quyết sách nhằm phát huy mọi tiềm năng của con người, trong đó có đội ngũ thầy, cô giáo và những người làm công tác quản lý giáo dục. Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định vị trí, vai trò to lớn của giáo dục - đào tạo trong sự nghiệp cách mạng. Gần đây, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã tiếp tục khẳng định quan điểm “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân” và đề ra 9 nhiệm vụ; trong đó có nhiệm vụ về “Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo” nhằm chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo, đồng thời có cơ chế kiên quyết đưa ra khỏi ngành đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, không đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, khuyến khích đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ... Cùng với đó bản thân ngành giáo dục cần đặc biệt coi trọng vấn đề xây dựng đội ngũ giáo viên và đề ra nhiệm vụ, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp như: thực hiện chương trình bồi dưỡng thường xuyên, đổi mới phương pháp giảng dạy; mở nhiều lớp bồi dưỡng phương pháp dạy học tích cực cho cán bộ, giáo viên ở các cấp học; các trường học thường xuyên tổ chức thao giảng, dự giờ để đánh giá rút kinh nghiệm, nhắc nhở tinh thần trách nhiệm của giáo viên nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực vào công tác giảng dạy đã kích thích tính năng động, sáng tạo của học sinh trong chiếm lĩnh tri thức… Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiến tới toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, đòi hỏi sự nghiệp giáo dục - đào tạo phải đi trước một bước nhằm chuẩn bị nhân tài, lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới. Trước những đòi hỏi đó, hơn ai hết mỗi giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục cần thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Bác Hồ kính yêu về nghề dạy học; từ đó vận dụng sáng tạo và tổ chức tốt việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức của Người./.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.345
Cầm Thu Huyền
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Binh-luan/2018/52283/Tu-tuong-Ho-Chi-Minh-ve-vai-tro-trach-nhiem-cua-nguoi.aspx

VÌ NỀN ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÔ GIÁ, VÌ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ SỰ TOÀN VẸN LÃNH THỔ TỔ QUỐC THIÊNG LIÊNG, ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CÙNG DÂN TỘC VIỆT NAM HỘI NHẬP QUỐC TẾ, PHÁT TRIỂN MẠNH MẼ VÀ BỀN VỮNG


VÌ NỀN ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÔ GIÁ, VÌ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ SỰ TOÀN VẸN LÃNH THỔ TỔ QUỐC THIÊNG LIÊNG, ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CÙNG DÂN TỘC VIỆT NAM HỘI NHẬP QUỐC TẾ, PHÁT TRIỂN MẠNH MẼ VÀ BỀN VỮNG

      “Vì Việt Nam, Cu-ba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình” –
(Phi-đen Ca-xtơ-rô)
Việt Nam bước ra từ trong thế giới 
Khảo cổ học chứng minh sự tồn tại của con người trên lãnh thổ Việt Nam từ thời Đồ đá cũ (cách nay từ 300.000 đến 500.000 năm). Vào thời kỳ Đồ đá mới, các nền văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn (gần 10.000 năm trước Công nguyên) chứng tỏ sự xuất hiện của nông nghiệp và chăn nuôi, có thể là cả nghệ thuật trồng lúa nước.
Mảnh đất hình chữ S đã trải mấy ngàn năm lịch sử!
Ngày 19-8-1945, Nhân dân Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã làm một cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại bậc nhất trong lịch sử Việt Nam: Giành lại nền độc lập dân tộc sau ngót một thế kỷ Nhân dân rên xiết trong vòng nô lệ của chủ nghĩa thực dân Pháp, phá tung xiềng xích áp bức hàng ngàn năm của chế độ phong kiến; khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; lập nên Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; cộng đồng thế giới công nhận Việt Nam, với tư cách là một nước độc lập, có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Đó là chân lý hiển nhiên, phù hợp với xu thế độc lập tự do của thời đại ngày nay.
Gần 73 năm qua, kể từ ấy, và nhất là ở thời khắc lịch sử hiện nay, chân lý giản dị đó đang là linh hồn trong mỗi quyết sách chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa; xuyên thấm trên mỗi bước dù thăng trầm, đặc biệt ở những khúc quanh khắc nghiệt của lịch sử Việt Nam; và trở thành phương châm hành xử của dân tộc và mỗi người Việt Nam ta trong công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế hiện nay.
Và theo thời gian, viết tiếp nên lịch sử của mình 
Nhân loại đang sống trong thời kỳ lịch sử phát triển rút ngắn, lịch sử ngắn hạn, một ngày mang sức mạnh bằng của cả trăm năm! Và, chưa bao giờ như hôm nay, Việt Nam cũng đang sống trong không gian lịch sử của một “thế giới phẳng” và cả không “phẳng”, thời cơ thường trực gắn chặt với nguy cơ, khi lẽ hưng vong, mất còn của một quốc gia, dân tộc khó có thể là chuyện riêng của từng bên, càng không thể chỉ là là số phận riêng của mỗi vùng lãnh thổ, mỗi dân tộc hay mỗi quốc gia... thì điều đó đối với Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quốc tế quan trọng và to lớn.
Trong bối cảnh hiện nay, trên lộ trình đất nước hội nhập quốc tế không chỉ về quy mô, tốc độ và cả chiều sâu, hơn bao giờ hết, trước yêu cầu bảo vệ nền độc lập tự do vô giá của đất nước, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, càng đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam về tầm nhìn xa rộng và biện chứng, về sự bảo đảm pháp lý và đạo lý, về sự trung thành lý tưởng xã hội chủ nghĩa, kiên định nguyên tắc và sáng tạo trong từng bước đi, về sự tỉnh táo, sâu sắc và tinh tế, khôn ngoan trong mỗi quyết sách, về tính nhân văn và độc đáo trong mỗi thời kỳ... Vấn đề cơ bản nhất, sinh tử nhất xuyên suốt mọi suy nghĩ và hành động lúc này là, giữ vững vô điều kiện nguyên tắc bất di bất dịch: Bảo vệ vị thế đất nước độc lập tự do, sự toàn vẹn lãnh thổ vô giá ngàn năm, chủ quyền Tổ quốc thiêng liêng và lợi ích cao nhất của dân tộc, của đất nước và của nhân dân Việt Nam, dù trong bất cứ điều kiện nào. 
Đó là “ngọn lửa thử vàng” về tầm nhìn chính trị, về bản lĩnh nhân văn... đối với Đảng, Nhà nước; về lòng yêu nước, thương nòi... của mỗi người Việt Nam ta; về đức dám hy sinh, gan góc... đối với mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng! Phải chủ động giữ nước khi nước còn chưa nguy, phải điềm tĩnh và quyền biến “dĩ bất biến ứng vạn biến” trước mọi sự chi phối hay sức ép dù từ bất cứ phía nào! Toàn Đảng, toàn dân tộc Việt Nam đã và đang hành xử như thế (như ông cha nghìn năm đã nối đời nguyền giữ), một cách kiên định và sáng tạo theo lời chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đưa công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc hiện nay tiến những bước dài quan trọng, có ý nghĩa lịch sử to lớn, chưa từng thấy trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam.
Vì lẽ đó, Việt Nam không dung thứ bất cứ ai, bất cứ hành động sợ hãi, hèn nhát nào, làm xâm hại lợi ích của đất nước, của dân tộc, của nhân dân, của Đảng và của chế độ xã hội chủ nghĩa do Nhân dân làm chủ! Đó chính là đạo lý dân tộc thiêng liêng nhất, và chính là pháp lý đất nước công minh nhất! Ai vi phạm hoặc làm vấy bẩn điều vô giá đó, người ấy không xứng đáng là người Việt Nam chân chính. Ai nhân danh đổi mới để tự “làm mới” mình, tự “đánh bóng mình”, theo kiểu “đầu cơ chính trị”, “cơ hội chính trị”... lại nhất là những người giữ cương vị đứng đầu các tổ chức... là người có lỗi. Ai vì quyền lợi của phe nhóm mình, thân tộc mình, cá nhân mình mà coi nhẹ, rắp mưu làm “con buôn quyền lực”, “đục nước béo cò”, “chia nhỏ” lợi ích quốc gia, gây nên tệ cát cứ, cục bộ,... người đó mang tội. Ai mưu toan “quay mặt”, “trở cờ nối dáo cho giặc”, bán rẻ lợi ích quốc gia, xa lánh Nhân dân... kẻ đó mắc trọng tội.V. v... Đó chính là những “cục nghẽn mạch” đau đớn nhất, những “khối u ác tính” nguy hiểm nhất, những “giặc nội xâm” nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh, “hung hãn nhất”,... có thể làm cho nền độc lập dân tộc Việt Nam suy vong, sự thống nhất của quốc gia Việt Nam băng hoại. 
Bởi thế, lại hơn lúc nào hết, vì quyền lợi dân tộc, vì lợi ích quốc gia, vì quyền và lợi ích của nhân dân, đồng thời chúng ta phải chủ động “giữ nước khi nước đang yên” từ xa, “phải kiềng canh nóng mà thổi rau nguội” ở gần... như điều cách đây hơn bảy trăm năm Hưng Đạo Vương vẫn từng răn dạy. Và, phải phòng ngừa những tai họa mà hơn 250 năm trước, Bảng nhãn Lê Quý Đôn, từng tiên liệu: Có năm nguy cơ sẽ làm mất nước: “Một, trẻ không kính già; hai, trò không trọng thày; ba, binh kiêu tướng thoái; bốn, tham nhũng tràn lan; năm, sĩ phu ngoảnh mặt”. Và, cách đây 72 năm, ngay khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ độc lập chưa đầy năm tháng, Chính phủ ban Quốc lệnh, đề ngày 26-1-1946, do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, gồm 20 điều “Thưởng” và “Phạt”, trong đó ghi rõ ở phần “Phạt”: “1. Thông với giặc, phản quốc sẽ bị xử tử; 2. Trái quân lệnh sẽ bị xử tử; 3. Ra trận tự ý rút lui sẽ bị xử tử;... 8. Trộm cắp của công sẽ bị xử tử...”.
Hiện nay Việt Nam, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam có lương tri phải chung tay lên án, chặn đứng và thủ tiêu tất cả những tệ nạn nguy hiểm, chết người, làm khuynh đảo, thậm chí làm suy tàn đất nước ấy. Vì, nếu không thì tầm nhìn và những quyết sách chính trị chiến lược của Đảng và Nhà nước Việt Nam bị xâm hại; lợi ích chiến lược của quốc gia - dân tộc, của nhân dân Việt Nam bị vi phạm; thời cơ chiến lược để đất nước Việt Nam cất cánh bị bỏ lỡ, thậm chí mãi mãi; vị thế quốc gia xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên trường quốc tế bị tổn thương, bị hạ thấp,... mà đau đớn hơn là bởi chính nguy cơ do mất cảnh giác hay tự mình tạo ra; trong khi những thế lực chung quanh, ở xa, có kẻ những rắp mong dân tộc Việt Nam suy tàn, Tổ quốc Việt Nam thiêng liêng của hơn 94 triệu đồng bào Việt Nam lâm vào vòng hỗn loạn, thậm chí trở thành nô lệ. Lúc ấy, hối thì đã muộn!
Lịch sử thế giới hiện nay, tình hình phức tạp từ Đông sang Tây và sự rối ren ở một số quốc gia khu vực và thế giới ngay lúc này đây càng cho Việt Nam thấy nóng bỏng những cảnh báo sinh tử nhãn tiền về tầm nhìn chiến lược, về thời cơ chiến lược, về lợi ích chiến lược của cách mạng Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam! 
Nước Việt Nam độc lập! Non sông gấm vóc Việt Nam thống nhất toàn vẹn từ Mục Nam Quan cực Bắc, Mũi Cà Mau cuối đất phương Nam tới Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam hiên ngang trong sóng gió Biển Đông! Đất nước Việt Nam ta mà tiền nhân để lại dọc ba miền Bắc - Trung - Nam liền một dải đẹp đẽ và thiêng liêng vô giá. Nhân dân Việt Nam dù ở vùng xuôi, miền ngược hay đang ở khắp bốn bể năm châu... đều là đồng bào con Lạc, cháu Hồng, kể từ thuở các Vua Hùng mở nước, trải đã mấy nghìn năm! 
Dân tộc Việt Nam đã và đang mang trong mình niềm kiêu hãnh đó nhịp bước cùng nhân loại. Và, trong lòng dân tộc, Đảng ta - “đứa con nòi” của nhân dân, người lãnh đạo cách mạng Việt Nam, người đày tớ thật trung thành của nhân dân lao động nước nhà, người chiến sĩ rất mực tin cậy và thủy chung, người bạn rất mực nhân ái và chan hòa của đồng chí và bầu bạn quốc tế khắp năm châu, và Nhà nước của nhân dân chúng ta sống trong lòng dân tộc, tiếp tục trưởng thành gánh vác trọng trách đất nước, đã không phụ lòng tin cậy, sự ủy thác của nhân dân. Toàn thể cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam anh em dù ở trong nước hay ở nước ngoài đã sống, dựng xây và bảo vệ đất nước toàn vẹn có quyền kiêu hãnh về Tổ quốc Việt Nam! Và đất nước Việt Nam qua mấy ngàn năm dồn tụ, kết tinh nhuệ khí linh thiêng “chúng chí thành thành”, tiếp tục thành công trong gần 32 năm đổi mới, kiêu hãnh về vị thế mới, tầm vóc mới của quốc gia, sánh vai cùng các nước trên trường quốc tế; tô thắm thêm sức mạnh mấy ngàn năm và nâng tầm uy tín Việt Nam, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, xứng danh là Tổ quốc của con Lạc cháu Hồng! 
Trong đại đồng dân tộc Việt Nam thống nhất ấy, quyết không dung thứ những ai tự tách mình ra, thậm chí đi ngược lại cộng đồng, chỉ vì lợi ích cá nhân, dòng họ, phe nhóm mình mà trở nên mờ mắt, sai lầm. Trong hơn bốn triệu đảng viên của Đảng, không dung thứ những ai chưa xứng đáng là “đứa con nòi” của dân tộc Việt Nam ta, chưa “tận tụy suốt đời phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh trìu mến nâng niu và mong mỏi. Muôn dân và Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn đau đáu, vì lẽ đó. Thực tế nhãn tiền cho thấy, không phải những gì khác, mà chính những điều đó trực tiếp đang làm xói mòn niềm tin của Nhân dân với Đảng - “đứa con nòi” của mình, làm tổn thương mối quan hệ máu thịt giữa Đảng - Nhà nước với Nhân dân. Tất cả các tệ nạn đó tích tụ đến một mức nào đó sẽ làm cho Đảng suy thoái, Nhà nước biến chất... và, rốt cuộc chỉ có kẻ thù của lương tri và Việt Nam là đắc lợi! Nền độc lập tự do của đất nước bị đe dọa bởi chính thứ hiểm họa “ngay từ trong tường vách” ấy!
Người xưa nói: Không biết xấu hổ thì không thành người được! Ấy là liêm sỉ ở đời! Không trừ một ai, dù là người đứng đầu bộ máy hay người công dân bình thường luôn phải tự vấn mình về nghĩa vụ công dân, luôn phải biết tự hổ thẹn với lương tâm về đạo lý làm người! Không trừ một cấp nào, dù là cao nhất, nếu đạo lý, lương tâm không đủ thức tỉnh, răn đe thì pháp lý, đạo luật phải được toàn dụng. Không một thời thịnh trị nào và không một nơi đâu trong lịch sử nước Việt Nam (và trên thế giới) không hành động như thế cả. Ngày xưa, cổ nhân nói: Ý dân là ý trời, ai lấy được lòng dân là người đó lấy được thiên hạ. Trần Hưng Đạo nói: “Khoan thư sức dân ấy là kế sâu rễ bền gốc, là thượng sách giữ nước”. Nguyễn Trãi từng viết: “Phúc chu thủy tín dân do thủy” (Làm lật thuyền mới biết sức dân mạnh như nước). Chưa khi nào như bây giờ, khi chúng ta chủ động, tích cực bước ra thế giới, dân tộc đồng tâm chuẩn bị thực lực mạnh mẽ đủ sức vượt qua mọi chướng ngại trên con đường độc lập và phồn vinh, thì mối quan hệ máu thịt, sinh tử giữa Đảng với Nhân dân lại đòi hỏi phải được chăm lo ở một tầm cao mới, với chất lượng mới như bây giờ! “Gốc có vững, cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền Nhân dân”. Đạo lý và pháp lý phải là đứa con sinh đôi trên hành trình này! Ai vi phạm thì khuyên răn, và cố tình chưa thức tỉnh, thì cần thiết phải nghiêm trị. Việt Nam không sợ bất cứ một thế lực ngoại xâm nào, dù là hung bạo nhất. Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam chỉ sợ khi Nhân dân mất niềm tin vào chính mình! Ở những lúc cam go nhất, càng cho thấy, 94 triệu đồng bào nhất tề, dưới ngọn cờ của Đảng - “đứa con nòi” của Nhân dân và Nhà nước của Nhân dân cùng toàn thể Nhân dân Việt Nam kết thành một khối vững chắc, vượt qua mọi trở ngại, đã và đang giữ gìn và phát triển tất cả những gì mà giang san do các bậc tiền nhân trao gửi giữ gìn bằng mọi giá suốt 73 năm qua!
Chúng ta làm trái đi là vong ân với lịch sử, là hổ thẹn với ông cha; là tự tước bỏ Quốc bảo Lòng Dân giữ và dựng nước hiện nay, là chuốc lấy họa sát thân, cũng chính là vô hình chà đạp lên gấm vóc giang san nước Việt mấy ngàn năm được dựng xây và bảo vệ bằng máu và mô hôi của triệu triệu đồng bào.
Dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, lịch sử đang mở đường Việt Nam tiếp tục tiến lên cùng nhân loại, trong tầm nhìn 2030
Trong hành trình cùng dân tộc, dù còn không ít thiếu sót cấp bách phải sữa chữa, dù có những điều chưa thật là vui, nhưng ở chính những thời khắc cam go nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam - “đứa con nòi” của dân tộc ta, luôn ghi nhớ lời và rèn luyện theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, và trưởng thành lên nhờ sự chở che của nhân dân, vững vàng hơn nhờ tấm lòng khoan hậu, yêu thương của đồng bào ta; và đã không phụ sự tin cậy và ủy thác của nhân dân, phấn đấu không ngừng, luôn xứng đáng là “là đạo đức, là văn minh, là thống nhất, độc lập, là hòa bình ấm no”!
Suốt hơn 88 năm qua, Đảng nguyện lòng sướng khổ, buồn vui trong lòng đại gia đình 54 dân tộc anh em, dựa hẳn vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn mình, xứng đáng là “đứa con nòi” mà da thịt, máu xương của Đảng được chung đúc từ thịt da, xương máu đồng bào, nguyện phấn đấu và hy sinh vì toàn vẹn lãnh thổ, vì sự trường tồn và phát triển bền vững của dân tộc Việt Nam, vì hạnh phúc của nhân dân; mãi xứng đáng là Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Và, gần 73 năm qua, Nhà nước Việt Nam nỗ lực không ngừng và thực sự là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, từng công chức, nhân viên nhà nước, ai nấy tự hiểu rằng, nếu tách mình ra khỏi điều thiêng liêng ấy là tự đào thải mình khỏi hơn 94 triệu đồng bào nước Việt! Ai “nhân danh lòng yêu nước” để đánh bóng mình hay “a dua lòng yêu nước” nhằm trục lợi, làm nhục quốc thể, làm hổ thẹn đồng bào, người đó không có chỗ trong lòng dân tộc, trong lòng Nhân dân! 
Trước vận hội mới của dân tộc, đáp lại tấm lòng Nhân dân, trong lòng giang sơn Tổ quốc linh thiêng, trước biển lớn thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam dẫn dắt dân tộc nhịp bước suốt 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới. Đáp lại yêu cầu tha thiết của đồng bào, Đảng chúng ta đang nỗ lực tự chỉnh đốn, tự đổi mới mình, phấn đấu cùng toàn dân tộc, tất cả vì sự lớn mạnh của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân. Đảng cầu thị tự phê bình và phê bình một cách nghiêm khắc, thành tâm và sâu sắc. Tháng 9 năm nay, tròn 49 năm, Đảng ta, Nhà nước và toàn thể Nhân dân Việt Nam thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với linh hồn đó, trước mắt, thực hiện thật tốt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; làm thật tốt việc bảo vệ vô điều kiện sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, giữa Đảng với Nhà nước, giữa Đảng - Nhà nước với Nhân dân như “giữ gìn con ngươi của mắt mình”; là kiên quyết đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, chống quan liêu, tham nhũng và các thói tệ khác trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; rèn giũa mình ngang tầm nhiệm vụ của người đứng mũi chịu sào trước lịch sử, do Nhân dân Việt Nam tin cậy và giao phó! Đảng phải xứng đáng là một Đảng cách mạng - Đoàn kết thống nhất - Cầu thị tiến bộ. Không một ai có thể cản nổi Con tàu Đổi mới, vì chủ nghĩa xã hội Việt Nam, đang tiến lên phía trước: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Ai không thành tâm sửa mình, sẽ lỡ chuyến tàu!
Tựa lưng vào sức mạnh lịch sử mấy ngàn năm, trên nền tảng Quốc bảo lòng dân, Việt Nam quyết bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng, gìn giữ nền độc lập và hòa bình vô giá và nâng niu vô điều kiện khát vọng thiêng liêng “tắt muôn đời chiến tranh” của muôn bậc tiền nhân và cũng là của chung nhân loại! Vì, đó là Quốc hồn Việt Nam! Lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh tròn 64 năm trước vẫn đang nóng bỏng: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Và, đó cũng chính là lẽ sinh tử của 94 triệu đồng bào nước Việt! Vì, “Đau đớn chi bằng mất tự do”?!
Việt Nam đã và đang cùng nhân loại làm như vậy! Gần 73 năm nay, dưới ngọn cờ của Đảng, Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam lớn lên từ giang san xã tắc mấy ngàn năm của tiền nhân để lại, trưởng thành từ chiếc nôi truyền thống mấy ngàn năm văn hiến Việt Nam và hơn 88 năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong của dân tộc, “đứa con nòi của nhân dân lao động nước nhà” cùng 94 triệu đồng bào, đã đưa Tổ quốc Việt Nam từ máu lửa, nô lệ, xiềng gông “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, xây dựng lại giang sơn “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, như khao khát của Chủ tịch Hồ Chí Minh, không thể không hành xử tất yếu như thế một cách kiên quyết và không gì cản được!
Nhớ lại, năm 1930 - 1931, khi ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ mới đầy một năm tuổi dân tộc, đã cùng nhân dân làm một cuộc duyệt binh lịch sử Xô-viết Nghệ - Tĩnh, báo hiệu Tổ quốc nhất định cập bến độc lập, tới ngày tự do! Mười lăm năm sau đó, ở Mùa thu Ất Dậu năm 1945, bằng một cuộc Cách mạng Tháng Tám, Đảng cùng dân tộc phá bỏ chế độ phong kiến ngàn năm và bẻ gãy xích xiềng ngót một trăm năm nô lệ thực dân Pháp, để nền độc lập dân tộc hồi sinh và bảo vệ bằng mọi giá một nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và nền độc lập tự do non trẻ thiêng liêng và vô giá!
Nhớ lại tròn sáu mươi năm trước, ngày 7-5-1954, dưới ngọn cờ của Đảng, Quân đội ta, toàn thể dân tộc Việt Nam ta làm nên một Điện Biên lừng lẫy, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ và gian khổ! Và, nhớ lại, ngày 30-4-1975, Đảng ở tuổi 45, với sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, Việt Nam tiến hành một cuộc Tổng tiến công Mùa Xuân quét sạch đế quốc Mỹ xâm lăng và bè lũ ngụy quyền của chúng, thu giang sơn về một mối, thống nhất nước nhà! Gần 74 năm trước, ngày 22-12-1944, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà hy sinh, dưới ngọn cờ của Đảng, Quân đội Nhân dân Việt Nam cùng toàn dân tộc giữ yên xã tắc, bảo vệ giang san, tôn vinh nền độc lập tự do bất khả xâm phạm của dân tộc trước mọi họa xâm lăng! 
Tròn 40 năm trước, máu đào con dân nước Việt Nam lại đổ nơi phên dậu phía Tây Nam và 39 năm trước, mây đen vần vũ quần đảo nơi biên cương phía Bắc, dưới ngọn cờ của Đảng, hồn thiêng sông núi hun đúc chính khí dân tộc “chúng chí thành thành”, Việt Nam quét sạch bùn nhơ phía Tây Nam bờ cõi, bảo vệ vững chắc biên giới, giữ vẹn lãnh thổ lịch sử, đã san định hai mặt biên thùy Tổ quốc. Rằng, “Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”!
Và, hôm nay, công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ dù chỉ gần 32 năm, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, đã xác tín sức mạnh vô địch của tinh thần 94 triệu đồng bào đưa dân tộc Việt Nam vững vàng tiếp tục tiến lên phía trước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc! Sức mạnh lòng dân vô địch! Gần một thế kỷ qua, Lòng Dân- “chúng chí thành thành”, dưới ngọn cờ của Đảng, đã trở thành Quốc bảo tiếp tục dựng nước, gìn giữ vẹn toàn sơn hà xã tắc, trong thời đại mới! 
“Không có gì quý hơn độc lập tự do”, Việt Nam “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”! Khi 94 triệu đồng bào Việt Nam một bụng, dưới sự chỉ dẫn của tư tưởng ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những người đồng chí từ Cu-ba nửa kia bán cầu với tinh thần “Vì Việt Nam, Cu-ba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình” tới đất nước Lào và Cam-pu-chia từng “hạt gạo chia ba, sống chết bên nhau” trên bán đảo Đông Dương anh em và gần 200 quốc gia bạn bè khắp năm châu đã và đang đoàn kết cùng Việt Nam, với bản lĩnh của Đảng và sức mạnh của Nhà nước Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, nhất định giang san Việt Nam xã hội chủ nghĩa toàn vẹn mãi mãi vững bền, dân tộc Việt Nam tiếp tục góp phần cùng nhân loại tiến bộ xây dựng và phát triển một thế giới hòa bình, văn minh và không ngừng tiến bộ trong thế kỷ XXI!./.
Nhị Lê
TS, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Binh-luan/2018/52766/Vi-nen-doc-lap-dan-toc-vo-gia-vi-chu-nghia-xa.aspx


Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...