Thứ Tư, 13 tháng 5, 2020

QUÂN ĐỘI LUÔN LÀ TRỤ CỘT CỦA QUỐC GIA TRONG PHÒNG CHỐNG DỊCH COVID-19


Mạnh Bùi
  
Xuyên suốt những ngày phòng, chống dịch bệnh COVID-19 gian nan, cùng với toàn Đảng toàn dân, những người chiến sĩ đang khắc họa hình ảnh thật đẹp về Bộ đội cụ Hồ “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”…
Các đơn vị quân đội đã nhường cho người phải cách ly chỗ ngủ, chuẩn bị cơm nước, giữ gìn an ninh, động viên tinh thần người phải cách ly là những hoạt động đang diễn ra hàng ngày tại nhiều Trường Quân sự thuộc Bộ Tư lệnh Thủ đô, Quân khu 5, Quân khu 7, Quân khu 9 - nơi có từ vài trăm đến hàng nghìn người phải cách ly được chuyển đến mỗi ngày.
Các đơn vị quân đội đảm đương nhiệm vụ là cơ sở cách ly đã và đang thực hiện rất tốt nhiệm vụ được giao. Từ thay đổi thực đơn từng bữa, bảo đảm dinh dưỡng, an toàn vệ sinh thực phẩm cũng như phục vụ theo nhu cầu đặc biệt của một số ít công dân… đến kịp thời gặp gỡ, động viên, hỗ trợ vật chất để bà con yên tâm cách ly.
Đến nay, rất nhiều lời động viên, khen ngợi, chia sẻ tấm lòng biết ơn đã được người cách ly dành tặng cán bộ, chiến sĩ phục vụ trong khu cách ly. Hình ảnh người chiến sĩ trải chiếu nằm đất, mắc võng giữa rừng để nhường chăn êm, nệm ấm cho người phải cách ly đã được chia sẻ rộng rãi trên các mạng xã hội. Thêm một lần nữa, hình ảnh Bộ đội cụ Hồ lại được khắc họa với những phẩm chất ân cần, chu đáo, trách nhiệm, nghĩa tình và mến khách.
Mới đây, tại buổi làm việc trực tuyến với 50 điểm cầu trong toàn quân để kiểm tra công tác phòng chống dịch COVID-19, trong đó có các điểm cầu được sử dụng làm khu cách ly; Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ghi nhận tinh thần trách nhiệm khắc phục khó khăn vì nhân dân quên mình của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, đặc biệt là Quân đội Nhân dân Việt Nam đang làm việc tại các tuyến biên giới, các khu cách ly tập trung và nhiều nơi khác trong mặt trận chống đại dịch COVID-19. Thủ tướng khẳng định: “Quân đội của chúng ta luôn là trụ cột của quốc gia, đặc biệt khi đất nước lâm nguy, giặc giã, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm thì vai trò chủ đạo, tính chất nòng cốt của quân đội càng được thể hiện rõ hơn và phát huy mạnh mẽ”.
Hiện tại, dịch COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Trên biên giới, những người chiến sĩ biên phòng đang ngày đêm tuần tra, kiểm soát, canh gác từng đường mòn, lối mở, ngăn không cho dịch xâm nhiễm vào địa bàn. Trong đất liền, tại những đơn vị tổ chức cho người cách ly, cán bộ, chiến sĩ vẫn thầm lặng thực hiện tốt nhất nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước tin tưởng giao phó. Và khi quân với dân chung sức một lòng, tin rằng, kẻ thù nào chúng ta cũng chiến thắng, chứ không chỉ với dịch bệnh COVID-19.

CẢNH GIÁC VỚI “DÂN CHỦ” MẠNG


Mạnh Bùi
Tự do internet không có nghĩa tuyệt đối. Không phải ai thích viết gì, nói gì, muốn xâm phạm cá nhân, tổ chức nào trên internet cũng được. Ngày nay, với sự bùng nổ internet, các quốc gia căn cứ đặc điểm, tình hình cụ thể để đề ra các quy định quản lý phù hợp. Điểm mấu chốt là dù quản lý theo phương thức nào thì cũng nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích cá nhân, tổ chức, tránh các hành vi lạm dụng phạm pháp.
Tại những nước phát triển như Hàn Quốc, người dùng phải cung cấp tên thật trên tất cả các nội dung bình luận, entry trên mạng. Đây là quy định chặt chẽ hơn so với nhiều nước khi phần lớn không bắt buộc phải nêu rõ tên thật khi chat, bình luận. Tại Singapore, nhằm thắt chặt an ninh, tất cả các máy tính được sử dụng bởi công chức Singapore sẽ bị cắt mạng internet từ tháng 5-2017. Còn tại Anh, tháng 8-2011, Thủ tướng Anh Cameron đã tuyên bố trước phiên họp của Quốc hội: “Chính phủ sẽ trừng trị nghiêm khắc những phần tử sử dụng các trang mạng xã hội và phương tiện truyền thông xã hội để âm mưu gây bạo loạn và bất ổn xã hội”.
Tại “thiên đường tự do” Mỹ thì sao? Điều 2385, Chương 115, Bộ luật Hình sự Mỹ ghi: “Nghiêm cấm mọi hành vi in ấn, xuất bản, biên tập, phát thanh, truyền bá và mọi hình thức vận động, xúi giục lật đổ, tiêu diệt chính quyền bất kỳ cấp nào”. Và thực tế, chính ở Mỹ mới là nơi có nhiều trường hợp bị xử lý vì người sử dụng mạng internet có hành vi xúc phạm, lăng mạ người khác. Đầu tháng 9 vừa qua, báo chí tại Mỹ thông tin, tờ The Huffington Post đã đuổi việc một phóng viên vì người này đã viết bài bịa đặt về tình hình sức khỏe của ứng viên nữ Tổng thống Mỹ - bà Hillary Clinton.
Tháng 12-2016, nhằm ngăn chặn thông tin bịa đặt, cực đoan, Chính phủ CHLB Đức đưa ra yêu cầu các hãng cung cấp dịch vụ mạng xã hội thành lập văn phòng phản ứng ngay trong vòng 24h khi có phản ánh về phát ngôn cực đoan hoặc thông tin bịa đặt, và sẽ phạt các công ty này nếu không chấp hành, mức phạt là 500.000 Euro cho mỗi lần không thực hiện.
Rõ ràng, với hành động lợi dụng internet để xúc phạm người khác, nguy hại hơn là xâm phạm an ninh quốc gia, chống phá đất nước thì không có quốc gia nào dung túng. Việt Nam đưa ra các quy định pháp luật để quản lý mạng internet là phù hợp luật pháp quốc tế và thực tiễn chung của các quốc gia trên thế giới.

Điều 25, Bộ luật dân sự 2005 quy định khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có quyền yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi, xin lỗi, cải chính công khai, yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại. Đồng thời, Bộ luật Hình sự cũng quy định rõ các điều luật về “tội vu khống”, “tội lợi dụng quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”... để xử lý các hành vi phạm tội.
Ai cũng có quyền tiếp cận thông tin, nhưng mỗi người hãy tự biết cách bảo vệ mình trước những thông tin sai trái, bịa đặt, độc hại. Quyền tự do thể hiện quan điểm, chính kiến nhưng quyền ấy là có ranh giới, cần tỉnh táo nhận diện để không bị rơi vào sự hỗn độn thông tin, không bị kẻ xấu hướng lái, lôi kéo, biến mình thành nhà “dân chủ mạng”, trở thành con rối của kẻ địch, sử dụng mạng internet thành công cụ xâm hại cá nhân, tổ chức, xâm hại quốc gia, dân tộc mà mình là chủ thể có nghĩa vụ bảo vệ, gìn giữ.
Cần đặc biệt cảnh giác với các thông tin bịa đặt, độc hại trên không gian mạng của các thế lực thù địch, phản động hòng chia rẽ nội bộ, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân và phải nghiêm trị hành vi sử dụng mạng internet phá hoại nội bộ, bôi nhọ, hạ uy tín lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

VIỆT NAM KHÔNG CÓ CƠ SỞ XÃ HỘI CHO CHẾ ĐỘ ĐA ĐẢNG



                                                                                     Mạnh Bùi
Nhiều năm gần đây trên các trang mạng xã hội rộ lên một số bài viết lạc lõng về đề tài đòi Việt Nam phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Lời lẽ của những bài viết đó chẳng có gì mới, vẫn là sự lặp lại những ngôn từ cũ rích. Họ rêu rao “đa đảng là dân chủ, độc đảng là độc tài”; đòi Việt Nam phải đa đảng đối lập để có dân chủ “thực sự” hoặc chỉ có thực hiện chế độ “đa nguyên, đa đảng” thì “xã hội Việt Nam mới nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo”,… Có người còn lớn tiếng kêu gọi những đảng viên Cộng sản hãy ra khỏi Đảng để thành lập một đảng mới, làm đối trọng với ĐCSVN. Với vỏ bọc “vì dân, vì nước”, “đấu tranh cho nền dân chủ ở Việt Nam”, những tuyên bố của họ đã làm cho một số ít người thiếu hiểu biết lầm tưởng rằng: cứ có nhiều đảng thì xã hội sẽ có dân chủ hơn, có động lực để phát triển nhanh hơn.
Đó là luận điệu hoàn toàn sai lầm! Bởi lẽ, thể chế nhất nguyên một đảng lãnh đạo ở Việt Nam hoàn toàn không đồng nghĩa với việc mất dân chủ, triệt tiêu dân chủ như họ đã và đang ra sức xuyên tạc.
Ở Việt Nam, sự lãnh đạo duy nhất của ĐCSVN từ khi ra đời đến nay là sự lựa chọn khách quan của lịch sử; nền chính trị nhất nguyên ở nước ta là do nhân dân ta lựa chọn từ chính những trải nghiệm trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng CNXH. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp cách mạng ở nước ta đã đem lại những quyền cơ bản nhất cho quốc gia, dân tộc và toàn thể nhân dân lao động. Đó là độc lập, tự do cho Tổ quốc; là quyền tự quyết dân tộc, quyền bình đẳng với mọi quốc gia khác trong việc lựa chọn con đường phát triển đi lên của mình; là quyền tự do lập hiến và lập pháp, lựa chọn và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đều có sự tham gia đóng góp ý kiến của quần chúng nhân dân; được xây dựng trên cơ sở lắng nghe, tiếp thu ý kiến xây dựng của mọi tổ chức chính trị - xã hội, của các đoàn thể và mọi tầng lớp nhân dân.
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN đã thu được nhiều thành tựu to lớn, làm thay đổi căn bản bộ mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước. Đời sống của nhân dân từng bước được nâng cao; dân chủ xã hội ngày càng được bảo đảm,… Điều đó một lần nữa khẳng định vai trò lãnh đạo của ĐCSVN trong công cuộc giải phóng dân tộc trước kia, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Thực tiễn đó cũng là minh chứng hùng hồn để bác bỏ ý kiến của những người lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” để chống Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN, đi ngược lại nguyện vọng chính đáng của nhân dân lao động.
Thật nực cười khi có kẻ thiển cận cho rằng: cứ có nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế thì tất yếu dẫn đến nền chính trị thị trường, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở thượng tầng kiến trúc. Hoàn toàn không có “cái tất yếu” đó! Tư duy như vậy chỉ là hình thức, là ngụy biện, vì nền kinh tế thị trường không dẫn đến chính trị thị trường như “gan tiết ra mật”. Quy luật lịch sử đã chứng minh, tuy cơ sở hạ tầng có vai trò quyết định đối với thượng tầng kiến trúc, nhưng thượng tầng kiến trúc không phải là sản phẩm thụ động của cơ sở hạ tầng mà chúng có khả năng tác động trở lại rất mạnh mẽ đối với cơ cấu kinh tế của xã hội. Bản thân các yếu tố, các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, như: chính trị, pháp lý, đạo đức,… cũng có sự tác động qua lại với nhau; cho nên, việc hình thành các đảng phái chính trị không chỉ phụ thuộc vào kinh tế, mà còn phụ thuộc rất lớn vào một loạt các yếu tố khác, như: tương quan giai cấp trong xã hội, vị thế, vai trò của đảng cầm quyền, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, truyền thống,… của một đất nước. Thực tế cho thấy, nền kinh tế của Việt Nam đang xây dựng là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; các thành phần kinh tế, các giai cấp, tầng lớp xã hội không có mâu thuẫn đối kháng về lợi ích. Lợi ích của nhà tư sản dân tộc, của Nhà nước và người lao động là thống nhất; cho nên, không tạo ra những lực lượng chính trị đối lập trong xã hội và không có cơ sở xã hội cho các đảng phái chính trị đối lập xuất hiện. Chính những thành tựu được nêu trên đã một lần nữa khẳng định: ĐCSVN không chỉ có vai trò lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, mà còn có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng XHCN, xây dựng CNXH và mang lại cho nhân dân lao động cuộc sống thực sự ấm no, tự do, hạnh phúc.
Như vậy, ở Việt Nam không có cơ sở xã hội cho chế độ đa đảng. Hệ thống chính trị ở Việt Nam vận hành theo cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Xã hội Việt Nam không có mâu thuẫn đối kháng. Đảng, Nhà nước không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Mục tiêu và lợi ích của Đảng, Nhà nước và nhân dân là thống nhất cùng thực hiện xây dựng xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Ý đồ thâm độc của các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị đòi thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” chỉ có mục đích duy nhất là nhằm xóa bỏ ĐCSVN khỏi đời sống chính trị của đất nước, cổ vũ cho các đảng tư sản hoạt động ở nước ta, đưa Việt Nam phát triển theo “khuôn mẫu” của các nước phương Tây. Điều đó sẽ không bao giờ thành hiện thực. Vì sự ổn định chính trị và phát triển đất nước, nhân dân ta không cho phép các tổ chức chính trị đối lập ra đời và không thực hiện chế độ đa đảng. Đa đảng hoàn toàn không phù hợp với đời sống chính trị, thực tiễn của nước ta và không phù hợp với nguyện vọng của đông đảo nhân dân ta.


NHẬN DIỆN NHỮNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH Ở NƯỚC NGOÀI



                                                                           Mạnh Bùi
Sau nhiều thập kỷ thực hiện chính sách thù địch, chống phá không đạt hiệu quả, Mỹ và các thế lực thù địch đang thay đổi phương thức hoạt động. Mục tiêu nhất quán không thay đổi của chúng là nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN, "phi chính trị hóa", vô hiệu hóa quân đội, tiến tới xóa bỏ chế độ nhà nước XHCN ở Việt Nam.
Với ý đồ đó, Mỹ và các thế lực thù địch đã thực hiện một loạt bước như ngoại giao thân thiện, chi phối đầu tư, khoét sâu nội bộ, viện trợ kinh tế, cấp học bổng cho học sinh, nghiên cứu sinh và nhận học sinh, nghiên cứu sinh sang Mỹ và các nước tư bản khác để tiếp cận, từng bước thực hiện âm mưu lũng đoạn nội bộ ta. Chúng ráo riết chống phá bằng mọi thủ đoạn vừa công khai, vừa bí mật, kết hợp bên trong và bên ngoài hòng làm thay đổi quan điểm, lập trường chính trị trong nội dung các văn kiện Đại hội Đảng, hòng làm cho Đảng ta suy yếu về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tạo nên và thúc đẩy nhanh quá trình tự diễn biến, làm xói mòn và mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng; làm suy yếu hệ thống lãnh đạo bằng cách loan tin bịa đặt có mâu thuẫn trong nội bộ lãnh đạo cấp cao... Nhiều nội dung của tư tưởng đa nguyên, xóa bỏ độc quyền lãnh đạo đã được ráo riết tuyên truyền dưới nhiều hình thức để xâm nhập vào xã hội và nội bộ Đảng ta trong thời gian qua.
Tấn công vào nền tảng tư tưởng của chúng ta - chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Các nhà tư tưởng chống cộng, chống CNXH phê phán, đả kích tới tấp vào CN Mác-Lênin hòng làm lung lay nền tảng tư tưởng của chúng ta và đẩy chúng ta đi chệch quỹ đạo của CNXH. Các thế lực thù địch tung ra đủ thứ lý luận nhằm bác bỏ chủ nghĩa Cộng sản như: du nhập CN Mác-Lênin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử, chỉ đưa đến tai họa vì CN Mác-Lênin là tư tưởng ngoại lai, xa lạ với truyền thống dân tộc. Họ còn cho rằng lý luận Mác-Lênin chỉ giải quyết vấn đề đấu tranh giai cấp, còn tư tưởng Hồ Chí Minh giải quyết đấu tranh dân tộc thuần túy, không thể áp đặt mẫu học thuyết Mác-Lênin vào Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh kinh tế thị trường.
Phủ định nền tảng tư tưởng: phủ định học thuyết Mác-Lênin, cho là học thuyết Mác-Lênin chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, chỉ phù hợp với một chừng mực nào đó với trình độ, lực lượng sản xuất và văn hóa Nga, không phù hợp với thế kỷ này, với nước ta, từ đó cho rằng CN Mác-Lênin lỗi thời ở Việt Nam.
Gần đây chúng chuyển sang luận điệu "Việt Nam đang bế tắc không chỉ về kinh tế mà còn về tinh thần. Không ai còn tin vào chủ nghĩa Mác nữa, ngay cả Bộ Chính trị". Đồng thời chúng xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin, đưa ra các luận điệu "đấu tranh giai cấp", "tập trung dân chủ" là cổ vũ cho bạo lực, cho chiến tranh, cho độc quyền, độc đoán, thủ tiêu dân chủ, không phù hợp với xu thế thời đại, do đó không thể thúc đẩy xã hội phát triển.
Phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng Hồ Chí Minh du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin với học thuyết đấu tranh giai cấp gây ra cảnh "nồi da nấu thịt" suốt mấy chục năm. Cho rằng Hồ Chí Minh chỉ là người dân tộc chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm phương tiện; đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử...
Tấn công vào đường lối của Đảng, các thế lực thù địch cho rằng không thể làm trái qui luật bỏ qua chế độ tư bản mà là phát triển CNTB dưới sự lãnh đạo của Đảng, giải quyết các vấn đề xã hội ở chừng mực nào đó, theo chủ nghĩa xã hội dân chủ. Nêu định hướng XHCN sẽ không thực hiện được đại đoàn kết dân tộc, sẽ bị cô lập trên trường quốc tế, nên gác định hướng XHCN lại. Chúng rêu rao rằng Đảng CSVN đã chọn con đường sai, không thể có CNXH. Không ít kẻ đã lớn tiếng rằng "CNXH chính là bước quá độ từ CNTB tiến tới CNTB, những ước mơ của CNXH thì chính CNTB đã thực hiện rồi, rằng người ta có thể dễ dàng tìm thấy ở CNTB những lời giải đáp đầy đủ cho mọi vấn đề được đặt ra trong đời sống loài người. Tóm lại, người ta muốn nói những người Mácxít bàn về CNXH chẳng khác nào bàn về hư vô".
Tấn công vào vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN, trong thời kỳ đầu đổi mới xuất hiện một số ấn phẩm có nội dung phê phán, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng. Ở nước ngoài, các nhóm phản động người Việt lưu vong như Diễn đàn, Thông luận cùng với "12 điều kiến nghị của một công dân" của Bùi Tín, đã truyền qua đài BBC, RFI, chuyển về nước đòi "đổi mới triệt để", "cải tổ Đảng", "xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng". Nhân dịp Quốc hội phát động toàn dân góp ý kiến vào dự thảo Hiến pháp, chúng đòi xóa bỏ điều 4 của Hiến pháp, đổ lỗi tình trạng khủng hoảng và đói nghèo ở nước ta là hậu quả của chính sách cai trị độc tài dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin mà Đảng CS áp đặt trên đất nước Việt Nam …
Một số người không phủ nhận hoàn toàn tính chất ưu việt của CNXH nhưng lại phê phán Mác về luận điểm đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội, cho rằng những luận điểm này làm nghèo đi những hình thức tiến hóa của xã hội, khuyến khích thù hận, mâu thuẫn, đấu tranh giai cấp liên miên. Dựa vào một số "cải cách" ở các nước tư bản và nhất là dựa vào các mô hình xã hội - dân chủ Thụy Điển, Phần Lan, họ cho rằng từ CNTB tiến sang CNXH không nhất thiết phải thông qua cách mạng xã hội mà cứ để cho nó phát triển tự nhiên, thông qua việc mở rộng dân chủ, đấu tranh nghị trường để nhân dân tự lựa chọn chế độ chính trị mới.
Phủ nhận mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên CNXH, phê phán triệt để, bôi đen CNXH hiện thực, bác bỏ con đường XHCN, công khai ca ngợi con đường TBCN. Cho rằng "đường lối phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là chắp vá, không tưởng. Việt Nam hiện nay đang đứng ở ngã ba đường, không biết đi theo con đường nào. Nếu không hòa nhập vào thời đại, đi theo con đường TBCN thì sẽ bị trả giá, tự giác thì đến đích nhanh hơn, không tự giác thì tất yếu cũng phải đi theo con đường đó, nhưng đến đích đau đớn hơn, chậm chạp hơn". Gần đây có luận điệu xảo quyệt, thâm độc hơn như "con đường mà Việt Nam muốn đi là thứ TBCN theo định hướng XHCN, nhưng con đường này không thể thành công vì không thể nào giải quyết thỏa hiệp giữa hai chủ nghĩa đối lập với nhau".
Ngoài ra, chúng còn phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng CSVN và bôi nhọ lãnh đạo; chống phá nước ta về vấn đề nhân quyền… Chúng ta cần tỉnh táo trước những luận điệu xuyên tạc, góp phần làm thất bại mâm mưu, chiến lực “DBHB” của chúng.

CÁCH NHÌN THIÊN LỆCH, HÃY THÔI KHOÁC ÁO “NHÂN QUYỀN”



Trả lời tại họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao cuối tháng 4/2020 về báo cáo của tổ chức an ninh mạng FireEye cho rằng Chính phủ Việt Nam hỗ trợ nhóm hacker APT32, Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Ngô Toàn Thắng khẳng định, đây là những thông tin không có cơ sở. Ông nêu rõ, Việt Nam nghiêm cấm các hành vi tấn công mạng nhằm vào các tổ chức, cá nhân dưới bất cứ hình thức nào. Các hành vi tấn công, đe dọa an ninh mạng cần phải bị lên án và trừng trị nghiêm khắc theo quy định của pháp luật.
Năm 2018, Quốc hội Việt Nam thông qua Luật An ninh mạng và hiện đang hoàn thiện các văn bản pháp quy để thực thi luật. Để ngăn chặn các hành vi tấn công mạng, Việt Nam sẵn sàng hợp tác với cộng đồng quốc tế trong đấu tranh phòng và chống các hành vi tấn công mạng dưới mọi hình thức.
Về thông tin Facebook được yêu cầu hạn chế quyền truy cập của người dùng vào những nội dung được coi là bất hợp pháp tại Việt Nam, ông Ngô Toàn Thắng cho biết, chủ trương của Việt Nam là phát triển ứng dụng Internet, công nghệ thông tin nhằm phục vụ công cuộc xây dựng đất nước và phát triển đất nước, đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin, học tập và làm việc của người dân.
Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển cơ sở hạ tầng số ở Việt Nam, doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam, hỗ trợ đầu tư về công nghệ thông tin, truyền thông trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng cần bảo đảm thực hiện đầy đủ các trách nhiệm về thuế và các trách nhiệm xã hội khác với cộng đồng. Các doanh nghiệp công nghệ thông tin nên hợp tác với chính phủ trong việc xây dựng môi trường mạng an toàn, lành mạnh.
“Là một công ty có hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, công ty Facebook đã cam kết tuân thủ các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam. Chính phủ Việt Nam quan tâm đến việc Facebook sẽ thực hiện các cam kết này như thế nào trong thời gian tới” – ông Thắng nói.
Liên quan vấn đề này, khá nhiều mạng nước ngoài đã tung tin sai lệch, cho rằng cơ quan chức năng Việt Nam “cưỡng ép” Facebook để xử lý “người bất đồng chính kiến”.
Hai tổ chức nhân quyền quốc tế là Amnesty International và Human Rights Watch (HRW) kêu gọi Facebook “rút lại quyết định gia tăng kiểm duyệt các nội dung trên mạng xã hội này ở Việt Nam”. HRW chỉ trích Facebook rằng, động thái trên “đặt ra một tiền lệ xấu về cả nhân quyền lẫn chính sách toàn cầu của công ty này.
Quyết định nói trên của Facebook làm gia tăng nguy cơ có thêm nhiều rào cản về nội dung trong tương lai”... Ông John Sifton, Giám đốc vận động châu Á của Tổ chức HRW lên giọng chế nhạo Facebook khi nói rằng, giờ đây các quốc gia khác cũng biết cách đạt được điều họ muốn từ Facebook, để buộc công ty này “đồng lõa trong việc vi phạm quyền tự do ngôn luận”. Từ đó, John Sifton suy diễn một cách rất thiển cận rằng lẽ ra Hoa Kỳ và các quốc gia khác cần “sử dụng tốt hơn đòn bẩy ngoại giao để hỗ trợ Facebook trong tình huống bị chính quyền Việt Nam gây sức ép.
Các doanh nghiệp và nhóm doanh nghiệp khác lẽ ra cũng cần ủng hộ Facebook một cách công khai hơn để ngăn ngừa các chiến thuật mạnh tay của chính quyền”.
Những phát biểu và hành động nói trên của HRW lại diễn ra đúng thời điểm khá ngẫu nhiên: Facebook cho biết một tòa án liên bang Mỹ ngày 23/4/2020 đã chính thức phê chuẩn thỏa thuận dàn xếp mà mạng xã hội này đã đạt được với Ủy ban Thương mại Liên bang Mỹ (FTC) vào tháng 7 năm ngoái sau một cuộc điều tra về các rủi ro bảo mật quyền riêng tư.
“Thỏa thuận này đã mang lại những thay đổi cơ bản cho công ty của chúng tôi và tiến bộ trong cách chúng tôi bảo vệ quyền riêng tư của mọi người hơn bất cứ điều gì chúng tôi đã làm trước đây” - Michel Protti, Giám đốc về quyền riêng tư của Facebook cho biết trong một bài đăng trên blog của công ty.
Ông nói, trên hết, nó mang đến một mức độ trách nhiệm mới và đảm bảo rằng quyền riêng tư là trách nhiệm của mọi người tại Facebook. Thỏa thuận trên đạt được vào năm ngoái sau khi FTC xem xét trách nhiệm của Facebook trong vụ bê bối dữ liệu Cambridge Analytica - một công ty tư vấn hiện không còn hoạt động, trong chiến dịch tranh cử của Tổng thống Donald Trump - làm rò rỉ dữ liệu của tới 87 triệu người dùng.
Cơ quan này khi đó cho rằng Facebook không bảo vệ được dữ liệu người dùng, vi phạm thỏa thuận trước đó với FTC trong bảo vệ quyền riêng tư của người dùng.
Là một phần của thỏa thuận với FTC, Facebook đồng ý thành lập một ủy ban bảo mật độc lập giám sát việc đảm bảo quyền riêng tư của mạng xã hội lớn nhất thế giới. CEO Mark Zuckerberg sẽ phải trình FTC các báo cáo chứng nhận mạng xã hội này đã triển khai các biện pháp bảo vệ nhiều hơn quyền riêng tư vào các nền tảng của mình. Facebook cũng bị phạt 5 tỷ USD - một án phạt mà FTC gọi là chưa từng có. FTC cho biết họ rất hài lòng với phán quyết của tòa án.
Sự việc nói trên tại Mỹ là bằng chứng sinh động về hoạt động của các mạng xã hội toàn cầu trong việc thực thi, chấp hành theo luật pháp của nước sở tại. Không có hoạt động nào đứng ngoài luật pháp, càng không có chuyện lấy danh nghĩa dân chủ, nhân quyền để che đậy các sai phạm của mình. Tại Mỹ, Facebook không có ngoại lệ thì hiển nhiên, ở bất cứ quốc gia nào mạng xã hội này có mặt cũng phải tuân thủ nguyên tắc pháp lý này. Vậy mà HRW rồi những cá nhân dưới danh nghĩa “tự do thông tin” vẫn có thể ngụy biện, quy chụp để hướng vào chỉ trích Việt Nam, sự thực đó cho thấy rõ bản chất của HRW là gì.
Theo đánh giá của Cục Phát thanh truyền hình và Thông tin điện tử (PT-TH&TTĐT) Bộ Thông tin và Truyền thông, trên Facebook, Google thời gian qua có nhiều nội dung vi phạm pháp luật Việt Nam. Thời gian qua, Cục PT-TH&TTĐT đã chủ động làm việc với Facebook và Google để 2 nền tảng này tích cực hợp tác, gỡ bỏ nội dung vi phạm pháp luật Việt Nam và có giải pháp ngăn chặn tình trạng phát tán tin giả, thông tin xấu độc, tài khoản giả mạo trên Facebook, Youtube. 
Đối với Facebook, trong năm 2019, mạng xã hội này đã gỡ bỏ 207 tài khoản, trong đó có tài khoản giả mạo các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước (46 tài khoản), còn lại tài khoản tuyên truyền thông tin giả mạo, xấu độc, kích động chống phá Nhà nước Việt Nam; gỡ bỏ 244 link rao bán sản phẩm bất hợp pháp; 271 link phát ngôn gây thù hận, bôi nhọ đối với các lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các thương hiệu, cá nhân, tổ chức; gỡ bỏ 330 fanpages quảng cáo game cờ bạc, đổi thưởng. Đối với Google, trên Youtube đã ngăn chặn và gỡ bỏ hơn 9.500 video vi phạm... 
Để ngăn chặn vi phạm trên mạng xã hội, Bộ Thông tin và Truyền thông đã thực hiện nhiều biện pháp như: Yêu cầu Google, Facebook phối hợp ngăn chặn, gỡ bỏ; sử dụng biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn nguồn phát tán thông tin vi phạm; kiểm tra, chấn chỉnh các công ty truyền thông, quảng cáo, nhất là hoạt động quảng cáo từ nước ngoài...
Việc các đối tượng lợi dụng mạng xã hội để đăng tải tin, bài, video có nội dung độc hại, chống phá Việt Nam, vi phạm quyền của cá nhân, tổ chức đang diễn biến phức tạp. Mấy tháng qua, lợi dụng diễn biến phức tạp của dịch COVID-19, nhiều đối tượng đã tung tin giả, thông tin xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Bộ Công an đã chỉ đạo Công an các đơn vị, địa phương đấu tranh xử lý theo quy định của pháp luật.
Cùng việc Luật An ninh mạng có hiệu lực, ngày 3/2, Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định số 15/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/4). Nghị định được đánh giá là có quy định rõ hơn, mạnh mẽ hơn so với Nghị định số 174/2013/NĐ-CP trước đây.
Như vậy, việc hoàn thiện hành lang pháp lý là cơ sở quan trọng để đưa các hoạt động trên không gian mạng vào khuôn khổ. Việc Facebook đã cam kết tuân thủ các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam là nằm trong xu hướng chung này. Hiện trên thế giới có 138 quốc gia đã ban hành Luật An ninh mạng. 
Tuy tên gọi có thể khác nhau ở mỗi quốc gia, nhưng các luật này có mục tiêu chung là tạo cơ sở pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mọi công dân cũng như hoạt động của các cơ quan công quyền, tổ chức, doanh nghiệp trên môi trường internet. Ðồng thời, cùng với việc thiết lập các quy định giúp điều chỉnh hành vi trên không gian mạng, luật cũng quy định rõ các chế tài xử phạt. 
Vào tháng 2 năm 2016, Tổng thống Mỹ Obama đã phát triển Kế hoạch hành động an ninh quốc gia về an ninh mạng (CNAP). Kế hoạch này được thực hiện để tạo ra những hành động và chiến lược lâu dài trong nỗ lực bảo vệ nước Mỹ chống lại các hiểm họa mạng. Trọng tâm của kế hoạch này là để thông báo cho công chúng về mối đe dọa ngày càng tăng của tội phạm mạng, cải thiện bảo vệ an ninh mạng, bảo vệ thông tin cá nhân của người Mỹ và để thông báo cho người Mỹ về cách kiểm soát an ninh kỹ thuật số.
Đó là thực tiễn khách quan. Không thấy được sự thật hiển nhiên đó, lại cố nhìn bằng con mắt xiêu vẹo, chiếc áo “nhân quyền quốc tế” mà HRW đang khoác đã đến lúc phải gỡ bỏ.

VAI TRÒ CẦM QUYỀN, LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM



 Là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo công tác xây dựng Đảng cả về ba mặt: Chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhằm giữ vững vai trò cầm quyền, lãnh đạo của Đảng trong mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện của nước ta.
CÁCH MỆNH TRƯỚC HẾT PHẢI CÓ ĐẢNG CÁCH MÊNH
Học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản chỉ ra rằng: Giai cấp vô sản muốn làm cách mạng phải thành lập được chính đảng độc lập của mình. Đảng đó phải là đội tiền phong của giai cấp vô sản, có nền tảng tư tưởng và lý luận cách mạng; đề ra cương lĩnh, đường lối chính trị đúng đắn; đề ra nguyên tắc tổ chức và hoạt động khoa học; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên, xây dựng tổ chức cơ sở đảng; xây dựng thể chế và tác phong lãnh đạo của Đảng; xây dựng năng lực cầm quyền để tranh đấu giành chính quyền về tay giai cấp.
Khi có chính quyền, Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị của CNXH và là một bộ phận của hệ thống đó. V.I. Lênin chỉ ra rằng: “Lúc này, cuộc đấu tranh giai cấp chưa chấm dứt, mà tiếp tục diễn ra dưới những nội dung, hình thức và phương pháp mới. Để phối hợp hành động và hướng hoạt động của cả hệ thống chính trị vào xây dựng thành công CNXH và chủ nghĩa cộng sản, về nguyên tắc, Đảng Cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều không còn phải nghi ngờ gì nữa” [1]. Và muốn giữ được vị trí cầm quyền đó, Đảng phải là “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại” [2].
Tiếp thu và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vận động, tổ chức giai cấp công nhân thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam “để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Vừa ra đời (tháng 2-1930) Đảng ta đã bước lên vũ đài chính trị, nắm lấy ngọn cờ cách mạng lãnh đạo giai cấp, lãnh đạo nhân dân và toàn thể dân tộc Việt Nam đấu tranh: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập,…”[3]. Với ý chí và tinh thần đó, “Đảng đoàn kết lãnh đạo toàn dân kháng chiến cho đến thắng lợi, tranh lại thống nhất và độc lập hoàn toàn; lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến đến CNXH”[4]Đảng nhanh chóng trở thành nhân tố quyết định hàng đầu, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Quá trình đó, Đảng ta đã từng bước “làm cho quần chúng giác ngộ vì đâu mà họ bị áp bức bóc lột”; đồng thời, “dạy cho quần chúng hiểu các quy luật phát triển của xã hội, chỉ rõ con đường giải phóng cho quần chúng để họ nhận rõ vì mục đích gì mà đấu tranh,...".
Đảng ra đời là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”[5]Cách mạng Việt Nam đã trải qua bao nhiêu thăng trầm, vượt qua bao nhiêu sóng gió, thác ghềnh, ngày càng tỏ rõ lực lượng lãnh đạo tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Càng qua phong trào, Đảng càng tỏ rõ phẩm chất, năng lực, uy tín cầm quyền được nhân dân tin tưởng giao phó. Đó cũng là minh chứng cho luận điểm vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cách mạng muốn thắng lợi thì phải có một Đảng lãnh đạo". Tức là, Đảng phải có cương lĩnh, đường lối chính trị đứng đắn; có phương pháp cách mạng khoa học; luôn đảm bảo lợi ích chính đáng và nguyên vọng thiết tha của giai cấp, của dân tộc, của nhân dân lao động và vì sự tiến bộ của nhân loại.
ĐẢNG PHẢI CÓ CHỦ NGHĨA LÀM CỐT
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênnin Đảng cầm quyền mà không có lý luận dẫn đường thì cách mạng sẽ không có “phong trào vận động” và đảng sẽ không thể làm nổi “trách nhiệm cách mạng tiền phong”. Từ rất sớm, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rất rõ điều đó. Trong toàn bộ hoạt động của Đảng, Đảng ta luôn luôn đề cao vai trò của lý luận, lấy chủ nghĩa Mác - Lênnin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng.
C. Mác đã từng chỉ ra tầm quan trọng của lý luận: “Lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng có thể trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng” [6]. Luận thuyết đó, được Lê nin nâng lên ở tầm cao mới: “Chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”[7], và Lênin coi “Chủ nghĩa Mác là lý luận của phong trào giải phóng của giai cấp vô sản[8]. Tiếp thu tư tưởng đá, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào quá trình xây dựng Đảng cầm quyền ở nước Việt Nam và đẩy chủ nghĩa Mác - Lênin lên một giai đoạn mới - chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngay từ những năm 20 của Thế kỷ XX, trong cuốn Đường cách mệnh (xuất bản năm 1927), Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã mở đầu bằng chính luận thuyết nổi tiếng của Lênin: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động...”.  Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi lý luận Mác - Lênin là vũ khí sắc bén của Đảng: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam[9] và Người đã thường xuyên quan tâm, nhắc nhở Đảng ta “cần phải chăm lo xây dựng nền tảng lý luận tiền phong của Đảng”; “cần phải giáo dục và yêu cầu đảng viên ra sức học tập lý luận,... chống cái thói xem nhẹ học tập lý luận. Vì không học lý luận thì chí khí kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là “mù chính trị”, thậm chí hủ hóa, xa rời cách mạng” [10] và người khẳng định với một luận thuyết nổi tiếng:Có lý luận soi đường thì quần chúng hành động mới đúng đắn, mới phát triển được tài năng và lực lượng vô cùng tận của mình”[11].
Am hiểu tường tận chủ nghĩa Mác - Lênin và bằng nhận thức sâu sắc từ thực tiễn cách mạng các nước, nhất là Cách mạng Tháng Mười Nga 1917, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận khoa học đầy sáng tạo: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Và Người cũng cảnh báo rằng: Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt” không có nghĩa là giáo điều theo từng câu từng chữ của Mác, của Lênin, mà là nắm vững tinh thần chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, tham khảo kinh nghiệm các nước, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam để đưa ra đường lối, chính sách đúng đắn cho cách mạng. Cùng với việc làm sáng tỏ vị trí, vai trò cầm quyền của Đảng, trong quá trình lãnh đạo cach mạng, Đảng luôn luôn xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn để “xây dựng chủ nghĩa cho vững”. Chủ nghĩa ấy phải đảm bảo thể hiện rõ bản chất giai cấp công nhân, tính cách mạng sáng tạo và khoa học của Đảng. Trước hết, trên hết phải vì lợi ích của giai cấp, của toàn thể nhân dân và dân tộc Việt Nam; phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, dẫn đường chỉ lối cho nhân dân hành động phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử và thời đại.
Trên nền tảng Cương lĩnh chính trị đầu tiên (năm 1930) của Đảng, trải qua nhiều thời kỳ cách mạng khác nhau cam go, trong đó có cả sự bất hòa trong hệ thống XHCN, nhưng Đảng ta vẫn tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa ấy, tư tưởng ấy vào hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn cách mạng nước ta, đồng thời làm phong phú thêm nó. Đường lối cách mạng Việt Nam mỗi thời kỳ lại được bổ sung, phát triển, nhưng trước sau như một, Cương lĩnh của Đảng vẫn xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động,…”[12].
Ngày nay, cho dù thế giới có nhiều biến đổi trong xu thế phát triển đa cực, toàn cầu hóa và cạnh tranh quyết liệt. Các hình thức chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội đã khác nhiều so với trược đây. CNXH thế giới cũng đã bị tan giã ở nhiều nước;… nhưng Đảng ta vẫn kiên định con đường đã chọn - con đường đi lên CNXH ở nước ta; đồng thời, vẫn sáng suốt: “Kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam”[13].
Thực tiễn cách mạng Việt Nam và những thành tựu đạt được trong các cuộc kháng chiến đầy hy sinh gian khổ, đánh bại tất cả những tên “đế quốc to”, những tên sen đầm, đầu sỏ nhất thế giới, những âm mưu bá quyền nước lớn muốn chia cắt, thôn tính lâu dài Việt Nam trong Thế kỷ XX; cùng với những thành quả phát triển kinh tế - xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước gần 35 năm qua đã chứng minh tính đúng đắn kỳ diệu trong đường lối lãnh đạo của Đảng ta.
ĐẢNG CÓ VỮNG VAI TRÒ CẦM QUYỀN MỚI VỮNG, CÁCH MẠNH MỚI THÀNH CÔNG
Muốn giữ vững vị trí cầm quyền, Đảng phải tỏ rõ vai trò lãnh đạo trong xây dựng cương lĩnh, đường lối chính trị; đồng thời, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Công việc đường lối là ở nơi Đảng nhưng mấu chốt thực hiện là ở đảng viên (ở con người). Đảng muốn mạnh, phải có đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng thực sự tiên phong, gương mẫu, tiêu biểu trong phong trào và trong mọi hoàn cảnh. Ngoài việc nắm vững lý luận, trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên còn phải là tấm gương giỏi và tiêu biểu trong thực tiễn. Hiện nay, suy cho cùng sự thắng thế của một đảng cầm quyền không phải chỉ ở chỗ số đông đảng viên mà chính là ở năng lực, trí tuệ và phẩm chất cách mạng của Đảng ấy. Toàn Đảng phải là khối thống nhất về tư tưởng và là một lực lượng mạnh mẽ về hành động. Đảng viên phải tiên phong đi trước nhân dân, nói đi đôi với làm, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”[14]. Trên thực tế, chỉ khi nào và ở đâu, đội ngũ cán bộ, đảng viên có tâm, có đức, có trí, dũng, có tinh thần dân chủ, sáng tạo, tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của dân tộc, đạo đức, văn minh của toàn xã hội thì lúc đó, ở đó tổ chức của Đảng mới mạnh, mới thực sự làm tròn vai trò người lãnh đạo. Ngược lại, thì suy yếu, dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đực lối sống và ắt sẽ đe dọa đến sự tồn vong của Đảng và của chế độ.
 “Đảng ta là một đảng cầm quyền”, điều đó thể hiện tính quy luật tất yếu của cách mạng Việt Nam. Trong hoàn cảnh Việt Nam, Đảng không chia sẻ quyền lực với đảng khác trong vai trò cầm quyền của mình. Thực tiễn Việt Nam đã từng tồn tại bên cạnh Đảng Cộng sản là cách đảng, như: Đảng Dân chủ Việt Nam (1944 - 1988) và Đảng Xã hội Việt Nam (1946 - 1988), nhưng các đảng ấy đều không được đa số nhân dân giao cho sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng. Các đảng ấy, đều tuân thủ đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân giao phó, ủy thác. Đảng không liên minh, liên kết với bất kỳ đảng khác trong quá trình  thực hiện vai trò lãnh đạo của mình và đó cũng là nguyên tắc đã được được hiến định không thể thay đổi; trở thành một kết quả tất yếu của lịch sử cách mạng Việt Nam.
Như vậy, từ trong Di sản Hồ Chí Minh, có thể hiểu quan điểm “Đảng ta là đảng cầm quyền” chính là thông qua việc nắm quyền, Đảng thực hiện sứ mệnh lãnh đạo xã hội, lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo nhân dân, để đạt được mục tiêu cách mạng mà Đảng và dân tộc đều đồng thuận. Khái quát hơn, cũng: “Có nghĩa là Đảng đã trở thành người lãnh đạo thực tế của toàn xã hội” [15].
Với vị trí đó, Đảng càng phải “mạnh” mới giữ vững được vai trò cầm quyền của Đảng, Đảng mới lãnh đạo cách mạng đi đến thành công. Trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng: “Những người Cộng sản, họ tuyệt nhiên không có lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản”[16]. Thấm nhuần tư tưởng đó, Đảng ta luôn luôn chú trọng xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện và đồng bộ trên cả ba mặt: Chính trị, tư tưởng và tổ chức. Cả ba mặt đó vững mạnh đã làm nên thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam hoà vào dòng chảy của cách mạng thế giới.
        “Chúng ta phải chăm lo xây dựng, vun xới, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau để mỗi người tự hoàn thiện mình, phát huy mặt tốt, khắc phục mặt yếu;… Mục đích của chúng ta, trách nhiệm của chúng ta là phải xây dựng được một Ban Chấp hành Trung ương mạnh, một Bộ Chính trị mạnh, một Ban Bí thư mạnh, thật sự đoàn kết, thống nhất cao xung quanh người đứng đầu để đủ sức gánh vác trọng trách vinh quang nhưng rất nặng nề của mình là lãnh đạo hoàn thành sứ mạng lịch sử, nhiệm vụ chính trị của mình, tổ chức toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức phấn đấu, vượt mọi khó khăn, gian khổ, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh; đất nước ta ngày càng phát triển; nhân dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc, xứng đáng với niềm tin yêu và sự mong đợi của toàn Đảng, toàn dân"
Công cuộc đổi mới và công cuộc xây dựng, chỉnh đốn đảng đang thu được nhiều kết quả[17], góp phần nhân lên sức mạnh to lớn về mọi mặt của đất nước. Theo đó, sự trong sạch, vững mạnh của Đảng được nâng lên, “đã tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối lãnh đạo của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên CNXH ở nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”[18]. Với ý nghĩa đó, vai trò cầm quyền và vị trí lãnh đạo của Đảng chắc chắc chắn sẽ được củng cố và phát triển, không một thế lực đen tối nào có thể khuất phục.

ĐI TÌM THUỐC GIẢI CHO “CƠN MÊ SẢNG” VỀ TÔN GIÁO



Ủy ban Hoa Kỳ về tự do tôn giáo quốc tế (USCIRF) mới đây đưa ra Báo cáo tình hình tự do tôn giáo thế giới 2020-một bản báo cáo có thể nói là “đáng thất vọng”, trong đó đại ý nhận định rằng, Việt Nam vẫn chưa có tự do tôn giáo thật sự, đồng thời muốn đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia đáng quan tâm đặc biệt về vấn đề tôn giáo.
Dù ghi nhận việc Báo cáo tình hình tự do tôn giáo thế giới 2020 của USCIRF đã đề cập đến những nỗ lực và tiến triển tích cực trong việc bảo đảm và thúc đẩy đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam, song Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng vào cuối tuần qua cho rằng, báo cáo vẫn còn một số nội dung thiếu khách quan và trích dẫn những thông tin sai lệch, chưa được kiểm chứng về Việt Nam. Đáng buồn hơn nữa, USCIRF tiếp tục khuyến cáo đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia đáng quan tâm đặc biệt về vấn đề tôn giáo.
Trước hết, phải khẳng định rằng, Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo và nhiều loại hình tín ngưỡng, cụ thể là có tổng cộng hơn 40 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được công nhận và cấp đăng ký hoạt động với 55.000 chức sắc, 145.000 chức việc, 29.000 cơ sở thờ tự; 95% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có 26 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số cả nước. Đời sống sinh hoạt tôn giáo tại Việt Nam ngày càng phong phú với khoảng 8.500 lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo được tổ chức mỗi năm. Hiện nay, các cá nhân, tổ chức tôn giáo ngày càng tham gia vào nhiều hoạt động giao lưu, hợp tác và các hoạt động tôn giáo quốc tế lớn, điển hình như Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc Vesak. Các tổ chức tôn giáo được công nhận xây dựng và thực hiện đường hướng hành đạo phù hợp với văn hóa truyền thống, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc.
Cũng có thể khẳng định rằng, tình hình tôn giáo ở Việt Nam thời gian qua ổn định, đời sống tôn giáo có những biến đổi sâu sắc cả về số lượng lẫn phạm vi hoạt động, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được tôn trọng, bảo đảm trước hết là nhờ chủ trương “tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo” của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Đây là những thông tin không mới, đã được đề cập nhiều lần, song vẫn cần tiếp tục nhắc lại, bởi vẫn còn không ít người chưa hiểu hoặc cố tình không hiểu.
Nói đến tôn giáo, nên nhớ rằng không có hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo nào đứng ngoài pháp luật nhà nước, và chẳng riêng gì tại Việt Nam, thực tiễn trên thế giới đã chứng minh điều đó. Ở Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân được quy định rõ trong Hiến pháp, pháp luật. Nói cách khác, cho dù là ai, ở đâu và lúc nào thì cũng cần xác định rõ “ranh giới không thể bị xóa nhòa” giữa hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo với các hành vi lợi dụng, vi phạm pháp luật.
Hiểu rõ, hiểu đúng về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, chúng ta nhận thấy một thực tế rằng, tôn giáo lâu nay đã bị biến thành chiếc “mũi dùi hoen gỉ” trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, mà dễ thấy nhất là những hành động núp bóng tôn giáo để rao giảng các thông tin xuyên tạc, bôi đen về tình hình đất nước, từ đó kích động người dân đấu tranh chống đối chính quyền. Sau vỏ bọc về vấn đề tôn giáo cũng là những mưu đồ tiến hành thành lập, xây dựng lực lượng, hình thành nên tổ chức chống đối. Và còn rất nhiều mưu đồ thâm hiểm, oái oăm khác dưới cái bóng mờ ảo của “ngọn cờ tôn giáo” ấy.
Trở lại với báo cáo của USCIRF, ngay trong phần mở đầu, văn bản này đã đưa ra đánh giá sặc mùi kỳ thị khi cho rằng trong năm 2019, tình trạng tự do tôn giáo ở Việt Nam nói chung vẫn có khuynh hướng như năm trước đó. Theo báo cáo, các cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam phải chịu nhiều áp bức, kể cả bị hành hung, bắt giữ hoặc trục xuất ra khỏi địa bàn vì họ hành đạo một cách ôn hòa. Nghe qua đã thấy vô lý, vì nếu đã hành đạo ôn hòa, thì cớ gì để ai áp bức, trong khi thực tiễn lâu nay đều cho thấy, Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và thực hiện nhất quán chính sách bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền theo hoặc không theo tôn giáo của người dân, bảo đảm sự bình đẳng, không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng, bảo hộ hoạt động của các tổ chức tôn giáo bằng pháp luật.
Hay như trong phần “các phát hiện chính”, báo cáo cho rằng “ở một số tỉnh Đông Bắc, nhà chức trách đốt phá ít nhất 35 nhà tang lễ, những nơi được coi là quan trọng cho các lễ lạt cốt yếu của giáo phái Dương Văn Mình”; hoặc “vào năm 2019, Chính phủ Việt Nam tiếp tục bắt giữ và bỏ tù nhiều lãnh tụ tôn giáo ôn hòa cũng như các cá nhân bênh vực tự do tôn giáo”, điển hình trong số đó có Nguyễn Bắc Truyển-“một người đấu tranh cho Phật giáo Hòa Hảo bị kết án 11 năm tù…”. Trong khi đó, ít ai không biết rằng giáo phái Dương Văn Mình vốn gắn liền với những hoạt động, chiêu trò gây mất ổn định an ninh chính trị, đòi thành lập quốc gia ly khai tự trị cho dân tộc Mông ở Tây Bắc. Còn Nguyễn Bắc Truyển là một trong những đối tượng khởi xướng, thành lập tổ chức, xây dựng cương lĩnh, điều lệ, quy chế hoạt động và chỉ đạo, điều hành hoạt động của tổ chức gọi là “Hội anh em dân chủ”. Lợi dụng việc đấu tranh cho “dân chủ, nhân quyền”, “xã hội dân sự”, Truyển cùng đồng bọn muốn che giấu mục đích hoạt động của “Hội anh em dân chủ” nhằm lật đổ chính quyền.
Vậy nên, việc đưa tội danh của những đối tượng này ra trước ánh sáng thực chất là hành động chứng minh cho sự thượng tôn pháp luật, chỉ cho họ thấy cái ranh giới bất khả xâm phạm giữa tự do tín ngưỡng, tôn giáo với các hành vi lợi dụng, vi phạm pháp luật.
Tiếc rằng, thay vì nhìn vào thực tế tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam để có cái nhìn đầy đủ và đúng đắn, những người soạn thảo báo cáo của USCIRF lại dễ ràng bị ru ngủ bởi liều thuốc tạp nham được tung ra bởi chính những kẻ mà họ đang cố dang tay bảo vệ. Và việc báo cáo đưa ra những nhận định, đánh giá chủ quan, phiến diện, không đúng sự thật về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam cũng là điều dễ hiểu.
Trong nỗ lực thúc đẩy quan hệ đối tác toàn diện đang phát triển tốt đẹp giữa hai nước, Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần phát đi thông điệp rằng, Việt Nam sẵn sàng trao đổi với Hoa Kỳ về các vấn đề hai bên cùng quan tâm, trong đó có vấn đề tôn giáo, trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở và tôn trọng lẫn nhau. Thế nhưng, để bắt đầu điều đó, những người được coi là tác giả báo cáo của USCIRF cần rũ bỏ vai trò “cứu tinh” cho những kẻ lợi dụng khái niệm tự do tín ngưỡng, tôn giáo để quấy phá và sớm thức tỉnh sau “cơn mê sảng về tôn giáo” kéo dài bấy lâu nay.

TRIỆT ĐỂ NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ, ĐẨY LÙI DÂN CHỦ HÌNH THỨC, CHUYÊN QUYỀN, ĐỘC ĐOÁN



Trong hệ thống quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, tập trung dân chủ là nội dung được đề cập rất sâu sắc và toàn diện.
Người khẳng định: Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng Cộng sản thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi cá nhân, vừa phát huy sức mạnh của tập thể phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng đã đề ra. Thấm nhuần tư tưởng của Người, Đảng ta luôn nhất quán: Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản, bảo đảm nguyên tắc này là vấn đề sống còn của Đảng.
Tập trung dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định cách mạng “trước hết phải có Đảng cách mệnh”, nên khi gặp Chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đã chuẩn bị mọi mặt về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng vào ngày 3-2-1930. Đồng thời, Người đặc biệt chú trọng đến việc thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng để Đảng ta thực sự là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong đó tập trung dân chủ là nguyên tắc số một, bất di bất dịch, bảo đảm cho Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã trở thành Đảng Cộng sản cầm quyền, lãnh đạo chính quyền công-nông, tiến hành 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, đánh bại hai đế quốc hùng mạnh, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, Người khẳng định: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. Để xây dựng Đảng ta thật sự là đảng cầm quyền, Người nhấn mạnh phải xây dựng Đảng trên cả các mặt về tư tưởng, chính trị, tổ chức và đạo đức.
Vận dụng sáng tạo quan điểm của Karl Marx, Engels và V.I.Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ, Hồ Chí Minh luôn khẳng định, xây dựng Đảng về tổ chức thì điều cốt lõi là phải thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng. Trong đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc tập trung dân chủ, Người gọi đó là “chế độ dân chủ tập trung”. Đây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt Đảng mà Người thường xuyên nhắc đến khi nói về nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng: “Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là: Có Đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất”. Người lý giải vấn đề tập trung trong Đảng một cách đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện: Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương”. Nguyên tắc này bảo đảm cho “Đảng tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh chỉ như một người”. Đó là biểu hiện cụ thể của tính tiền phong, chiến đấu của giai cấp công nhân.
Về vấn đề dân chủ trong Đảng được Hồ Chí Minh giải thích cặn kẽ, chí lý. Người cho rằng, trong Đảng “phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình; phải gom góp ý kiến của đảng viên để giúp đỡ Trung ương chuẩn bị đại hội đảng cho thật tốt”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng là sự thống nhất biện chứng giữa tập trung và dân chủ. Người chỉ rõ: “Tập trung trên nền tảng dân chủ là các đảng viên có quyền thảo luận chính sách của Đảng, rồi tập trung ý kiến lên Trung ương, còn dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung là vì nếu cái gì không nên bàn cũng cứ bàn ắt hỏng, cái gì đã bàn rồi thì phải đưa lên. Khi bên trên ra lệnh thì bên dưới phải thi hành, phải tuân theo”. Theo Người, tập trung mà không dân chủ thì đi đến độc tài, dân chủ mà không tập trung thì dân chủ quá trớn, nước nào càng tập trung lại càng dân chủ, càng dân chủ thì càng phải tập trung. Do đó, tập trung trên nền tảng dân chủ. “Cơ quan lãnh đạo của Đảng có uy tín và quyền lực chân chính. Những phương châm, chính sách, nghị quyết của Đảng, mọi đảng viên nhất định phải chấp hành. Kỷ luật của Đảng, mọi đảng viên phải tuân theo. Thế là tập trung”. Nhưng tập trung ấy không phải là cá nhân chuyên chính; nó là xây dựng trên nền tảng dân chủ. Như vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, tập trung và dân chủ không đối lập nhau mà có sự gắn bó mật thiết với nhau. Người chỉ ra rằng, tập trung trên nền tảng dân chủ và dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung.
Nguyên tắc tập trung dân chủ còn được Hồ Chí Minh gọi là “chế độ” và biểu hiện cụ thể thành nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đây là nguyên tắc gắn bó mật thiết với nguyên tắc tập trung dân chủ (dân chủ tập trung). Hồ Chí Minh viết: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung”. Người giải thích cụ thể về tập thể lãnh đạo: “Một người dù khôn ngoan, tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu cũng chỉ thấy được một, hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề”. Vì vậy, muốn lãnh đạo đúng, ra quyết định chính xác phải giữ nghiêm và thực hiện tốt lãnh đạo tập thể. Về cá nhân phụ trách, Người lý giải: “Khi công việc đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng, kế hoạch đã xác định rõ thì phải giao cho một người hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy”... Quan hệ giữa lãnh đạo tập thể và cá nhân phụ trách được Hồ Chí Minh nêu rõ: Lãnh đạo không tập thể thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Vì vậy, tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau.
Cùng với việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa tập thể lãnh đạo đi đôi với cá nhân phụ trách, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc tự phê bình và phê bình: Trong tổ chức sinh hoạt đảng và gắn liền với nguyên tắc tập trung dân chủ. Muốn phụ trách tốt phải tự phê bình, vì người đời không phải là thần thánh, không ai không có sai lầm, khuyết điểm, nhưng khi có khuyết điểm thì phải thật thà tự phê bình, hoan nghênh người khác phê bình mình và kiên quyết sửa chữa, lúc đó sẽ mau tiến bộ. Đồng thời, tự phê bình và phê bình cũng khuyến khích mọi người phát huy tốt dân chủ, phải bảo đảm dân chủ, từ dưới lên và từ trên xuống, phê bình tốt, đúng mục đích không chỉ phát huy dân chủ mà còn đạt được mục tiêu đoàn kết tổ chức đảng thành một khối và tạo điều kiện cho tập trung tốt hơn.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt đảng. Do vậy, các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến chi bộ phải thường xuyên quán triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, lãnh đạo tập thể đi đôi với phân công cá nhân phụ trách và các nguyên tắc tự phê bình và phê bình, nguyên tắc nêu gương của cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Kiên quyết đẩy lùi dân chủ hình thức, chuyên quyền, độc đoán
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang chuẩn bị và tiến hành đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng, trong bối cảnh cả nước hướng về kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 / 19-5-2020). Việc khẳng định nội dung, giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cầm quyền nói chung, về nguyên tắc tập trung dân chủ nói riêng càng có ý nghĩa to lớn và thiết thực. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong những năm gần đây đã tạo ra bước chuyển biến mới, đạt được những kết quả hết sức quan trọng, tạo chuyển biến tích cực, toàn diện trong hệ thống chính trị, nhất là trong cuộc chiến phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong Đảng, bộ máy chính quyền. Trong nhiệm kỳ vừa qua, Trung ương đã phải xử lý kỷ luật nhiều cán bộ, đảng viên giữ các cương vị cấp cao. Những trường hợp vi phạm kỷ luật phải xử lý do nhiều nguyên nhân cả về phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, trong đó có nguyên nhân hết sức quan trọng là tổ chức đảng, cá nhân vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Nhiều tổ chức đảng rơi vào dân chủ hình thức, người đứng đầu ở không ít tổ chức, đơn vị lạm quyền, chuyên quyền, độc đoán, dẫn đến sai phạm có hệ thống, gây hậu quả nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
Thực tiễn hơn 90 năm Đảng lãnh đạo đất nước đã chứng minh, ở đâu, lúc nào nguyên tắc tập trung dân chủ được thực hiện triệt để thì ở đó tổ chức đảng phát huy sức mạnh chiến đấu, hiệu lực và hiệu quả lãnh đạo. Buông lỏng, coi nhẹ nguyên tắc tập trung dân chủ thì tổ chức đảng đánh mất vai trò lãnh đạo, tạo môi trường, cơ hội cho chủ nghĩa cá nhân sinh sôi, phát triển. Trong giai đoạn hiện nay, đó là mầm mống của suy thoái tư tưởng chính trị, suy thoái phẩm chất đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng.
Do đó, trong sinh hoạt và mọi hoạt động lãnh đạo của Đảng nói chung, tổ chức đại hội các cấp nói riêng, cần triệt để quán triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ trách theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc biệt, phải kiên quyết chống mọi biểu hiện, hành vi vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ dưới mọi hình thức như các biểu hiện dân chủ hình thức, độc đoán, chuyên quyền, lợi dụng, lạm dụng chức quyền, bất chấp các quy định của Đảng. Cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, phải luôn nêu cao trách nhiệm, nghĩa vụ với Đảng, với nước, với dân, công tâm giới thiệu nhân sự vào ban chấp hành đảng bộ các cấp và chuẩn bị nhân sự cho Đại hội XIII của Đảng. Thấm nhuần, triệt để thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng là thiết thực học tập và làm theo lời dạy của Bác Hồ kính yêu trước lúc đi xa: "Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...