Thứ Hai, 13 tháng 7, 2020



Hoạt động dưới danh nghĩa “Nhà xuất bản Tự do”, thoát ly khỏi sự quản lý của Nhà nước, tuyên truyền các thông tin sai sự thật, công kích chế độ chính trị, chia rẽ đoàn kết dân tộc, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, tác động làm băng hoại giá trị đạo đức thuần phong, mỹ tục của người Việt...
Hoạt động dưới danh nghĩa “Nhà xuất bản Tự do”, thoát ly khỏi sự quản lý của Nhà nước, tuyên truyền các thông tin sai sự thật, công kích chế độ chính trị, chia rẽ đoàn kết dân tộc, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, tác động làm băng hoại giá trị đạo đức thuần phong, mỹ tục của người Việt, đó là những gì các đối tượng núp sau cái mác Nhà xuất bản Tự do đang làm. Dựa trên hệ quy chiếu thiếu khách quan về tình hình nhân quyền Việt Nam, với cách nhìn phiến diện, ý chí chủ quan, họ kêu gọi “áp đặt” cái mũ Magnitsky đối với Việt Nam.
Ngày 29/6 vừa qua, số đối tượng đứng sau Nhà xuất bản Tự do đăng tải thông tin với nội dung “Hướng dẫn sử dụng Luật Magnitsky để trừng phạt kẻ vi phạm nhân quyền”. Số đối tượng này cho rằng: “Sử dụng một công cụ pháp lý đặc biệt được tạo ra và thực thi ở các quốc gia như Mỹ, Anh, Canada,…để trừng phạt những kẻ vi phạm nhân quyền tại Việt Nam...”.
Theo đó, ấn phẩm này đưa ra cách hướng dẫn cho những đối tượng núp dưới danh nghĩa đấu tranh cho “dân chủ”, “nhân quyền” tại Việt Nam kêu gọi một số quốc gia gây áp lực đối với Việt Nam trên cơ sở Luật Magnitsky. Với tin tưởng rằng, các hoạt động này được sự tài trợ, hậu thuẫn của các phần tử chống phá Việt Nam nên các đối tượng này càng ung dung, tự đắc tiến hành các hoạt động manh động, liều lĩnh, thách thức pháp luật.
Luật Magnitsky là gì ?
Theo các nguồn thông tin chính thống được đăng tải bởi các hãng thông tấn nước ngoài, Manitsky là một dự án bắt nguồn từ một sự kiện tại nước Nga vào năm 2008 - 2009. Vào tháng 12/2016, Tổng thống Mỹ Barack Obama ký thành văn bản luật từ dự luật S. 2943, tức Luật Chuẩn chi Ngân sách Quốc phòng năm 2017 (NDAA 2017).Trong đó, văn bản này có điều luật “Chịu trách nhiệm về Nhân quyền Toàn cầu Magnitsky” (gọi tắt là Magnitsky Act), quy định chế tài với các cá nhân mà Hoa Kỳ cho là vi phạm nhân quyền trên toàn thế giới. Theo đó, chế tài áp dụng với các quốc gia vi phạm có thể là phong tỏa tài sản hoặc cấm nhập cảnh vào Hoa Kỳ.
Việc ban hành mở rộng Magnitsky đã tạo ra nhiều phản ứng trái chiều đối với dư luận quốc tế, trong đó nhiều ý kiến cho rằng: Điều luật nhân quyền toàn cầu Magnitsky không phù hợp với các nguyên tắc trong quan hệ quốc tế, tính khả thi không cao, không có sự đóng góp tích cực cho sự phát triển các mối quan hệ giữa các quốc gia. Việc vận dụng luật này sẽ thiếu khách quan khi không có các bằng chứng chính xác, thậm chí là sẽ gây ra sự ảnh hưởng đến uy tín của một số quốc gia trên trường quốc tế, trong đó có Việt Nam.
Có thể đánh giá, kể từ khi Việt Nam – Hoa Kỳ thiết lập bình thường hóa mối quan hệ ngoại giao từ tháng 7-1995 cho đến nay, mối quan hệ giữa Việt Nam - Hoa Kỳ đã, đang và tiếp tục phát triển tốt đẹp trên nhiều lĩnh vực chính trị - ngoại giao, khoa học – kỹ thuật, giao lưu nhân dân… Đó là những thành quả đáng trân trọng để mối quan hệ ngày càng thắt chặt, vững mạnh, tạo điều kiện thuận lợi, tốt đẹp hơn dành cho nhân dân hai nước.
"Nhà xuất bản Tự do" là ai?
Tự xưng là “Nhà xuất bản Tự do” theo mô hình của một tổ chức phi lợi nhuận tuyên bố thành lập ngày 14-2-2019. Nhà xuất bản Tự do tiến hành một số hoạt động chính là xuất bản, in và phát hành các ấn phẩm có nội dung kích động bạo lực, chống đối quốc gia sở tại. Mặc dù là một tổ chức tự xưng không lợi nhuận, nhưng số đối tượng cầm đầu vẫn công khai hình thức bán sách với giá khá cao, một số sản phẩm theo hình thức cho/tặng sách in miễn phí; đăng tải các bản ebook công khai và miễn phí.
Với phương thức, thủ đoạn là thiết lập các kênh thông tin qua Internet như website, Facebook, Youtube... dựa trên nền tảng các ứng dụng mạng xã hội để lan tỏa tin tức tới cộng đồng phục vụ mục đích, ý đồ chống đối của các đối tượng.
Một số ấn phẩm vi phạm của Nhà xuất bản Tự do đã công khai trên website như: “Chính Trị Bình Dân,” “Cẩm Nang Nuôi Tù,” “Phản Kháng Phi Bạo Lực”... đã tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình chính trị - xã hội tại Việt Nam. Vậy, mục đích ra đời của Nhà xuất bản Tự do là gì?
Thứ nhất, cái gọi là Nhà xuất bản Tự do ra đời với mục đích để phục vụ nhu cầu của một bộ phận chống đối, bất mãn trong xã hội. Những ấn phẩm của các đối tượng chủ yếu nói về các bất mãn cá nhân, tiêu cực, thậm chí là “giả tạo tình huống, cảm xúc” để đánh lừa cộng đồng bằng những ngôn từ mỹ miều.
Nhà xuất bản Tự do tụ tập những thành phần chống đối bất hảo, viết bài vu cáo chế độ để kêu gọi các quốc gia can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, đặc biệt là kêu gọi áp dụng Magnitsky đối với Việt Nam trong thời gian vừa qua. Nhiều bài viết của các đối tượng lộng ngôn, xuyên tạc sự thật, đường lối, chính sách, pháp luật của Việt Nam, tạo ra sự hiểu nhầm, gây ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ hai, nhiều ấn phẩm đăng tải trên Nhà xuất bản Tự do tập trung vào tuyên truyền, kích động, lôi kéo lực lượng tham gia biểu tình, gây rối an ninh, trật tự. Sự thật là, các đối tượng đã có nhiều bài viết kích động với nhiều thủ đoạn tinh vi, nham hiểm.
Các đối tượng triệt để lợi dụng các sự kiện chính trị xã hội phức tạp, nhạy cảm ở trong nước, tâm lý bất ổn của một bộ phận quần chúng để tuyên truyền kích động, lôi kéo các tầng lớp nhân dân tham gia xuống đường biểu tình, tuần hành, gây rối an ninh trật tự, tập dượt cho các cuộc “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”. Nhà xuất bản Tự do đăng tải những ấn phẩm bằng những thủ đoạn xảo quyệt, lừa bịp, dối trá để đánh lừa một bộ phận quần chúng nhân dân.
Thứ ba, các thành phần tham gia vào Nhà xuất bản Tự do đăng tải các thông tin để định hướng Việt Nam phát triển “xã hội dân sự” theo tiêu chí phương Tây. Vu cáo Việt Nam vi phạm “dân chủ”, “nhân quyền” để tìm kiếm sự hậu thuẫn của các chính giới nước ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động móc nối, tạo dựng lực lượng chống đối.
Thứ tư, các nội dung, ấn phẩm của Nhà xuất bản Tự do ra đời với các nội dung tuyên truyền nhằm tạo ra các tiền đề, nhân tố, điều kiện cho việc xóa bỏ chế độ XHCN, định hướng Việt Nam đi theo quỹ đạo Tư bản chủ nghĩa, tạo dựng các trào lưu, khuynh hướng đối lập và thù địch cách mạng trong lòng xã hội.
Thứ năm, tuyên truyền các luận điệu phi Cộng sản, tấn công vào Hiến pháp, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ chính trị tại Việt Nam. Các đối tượng này sử dụng sức mạnh của công cụ tuyên truyền để gây sức ép tước bỏ công cụ chuyên chính của Đảng là lực lượng Công an và Quân đội. Theo thuyết âm mưu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang.
Âm mưu kêu gọi áp dụng Magnitsky với Việt Nam
Với thủ đoạn “Ấn phẩm này sẽ hướng dẫn bạn cách sử dụng một công cụ pháp lý đặc biệt được tạo ra và thực thi ở các quốc gia như Mỹ, Anh, Canada,…để trừng phạt những kẻ vi phạm nhân quyền hoặc tham nhũng tại Việt Nam”, các đối tượng đưa ra ấn phẩm bộc lộ mục đích, âm mưu, ý đồ trong việc kêu gọi sự can thiệp của nước ngoài vào Việt Nam thông qua các vấn đề liên quan đến “dân chủ”, “nhân quyền”.
Các đối tượng đưa ra quan điểm cho rằng, dựa vào Magnitsky “Mỹ có thể trừng phạt một quan chức Việt Nam sống ở Việt Nam vì đã có hành động vi phạm nhân quyền trầm trọng đối với công dân Việt Nam (như tra tấn, giết hại...), bằng cách phong tỏa tài sản của y ở Mỹ và cấm nhập cảnh vào nước Mỹ...”. Ý đồ của số đối tượng Nhà xuất bản Tự do là nhằm tạo ra một làn sóng mới để “áp đặt” vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” ở Việt Nam, đồng thời nó được xem như là một công cụ để cung cấp bằng chứng mà theo họ là “vi phạm nhân quyền” để cung cấp cho phía Mỹ nhằm đưa ra các chế tài áp đặt đối với Việt Nam.
Như vậy, nếu hoạt động vừa xuyên tạc trắng trợn tình hình dân chủ, nhân quyền, vừa tìm cách kêu gọi phía nước ngoài, thực thi Luật Magnitsky để áp đặt vào Việt Nam thì chẳng khác gì hành động “vừa đá bóng, vừa thổi còi” của các đối tượng.
Hơn nữa, Việt Nam là quốc gia luôn khẳng định sự tôn trọng quyền con người, luôn mở rộng các quyền tự do, dân chủ và được các quốc gia trên thế giới đánh giá cao. Hiến pháp Việt Nam 2013 khẳng định: Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN; Nhà nước tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo quyền con người, quyền công dân.
Có thể nói rằng, mối quan hệ giữa các quốc gia cần phải dựa trên nguyên tắc hợp tác, bình đẳng, tôn trọng lợi ích của các bên liên quan mới có thể giải quyết được các vấn đề mấu chốt, bảo đảm theo tinh thần nhân đạo, nhân văn. Muốn cho quyền cơ bản của con người được nâng lên, điều cốt lõi là phải có sự tôn trọng về điều kiện kinh tế, hoàn cảnh lịch sử, giá trị văn hóa dân tộc của mỗi quốc gia chứ không phải là việc áp đặt, đưa ra các chế tài ràng buộc như quan điểm áp dụng luật Magnitsky đối với Việt Nam.
Sự vi phạm nghiêm trọng luật pháp của Nhà xuất bản Tự do
Mặc dù số đối tượng hoạt động dưới danh nghĩa Nhà xuất bản Tự do sinh sống, làm việc tại Việt Nam, chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam nhưng lại đưa ra quan điểm hoạt động: “Chúng tôi hoạt động độc lập, với hoạt động chính là xuất bản và phát hành các ấn phẩm không chịu sự kiểm duyệt của chính quyền Việt Nam…”. Vậy, họ đã vi phạm pháp luật Việt Nam trên các phương diện như sau:
- Vi phạm Luật Xuất bản (Luật số: 19/2012/QH13, ngày 20 tháng 11 năm 2012) trong đó Khoản 2, Điều 6 Luật Xuất bản quy định:
“Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản trong phạm vi cả nước.
Bộ Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản”.
Luật cũng quy định rõ điều kiện thành lập nhà xuất bản, các hành vi bị nghiêm cấm.
Rõ ràng, đối chiếu với Luật Xuất bản, cái gọi là Nhà xuất bản Tự do là vi phạm, trái pháp luật.
Trước các hành vi, hoạt động tuyên truyền các thông tin sai sự thật của Nhà xuất bản Tự do, để phòng tránh những tác động tiêu cực về mặt nhận thức, chính trị tư tưởng, ảnh hưởng đến tình hình chính trị - xã hội Việt Nam, mỗi người dân chúng ta nên:
Thứ nhất, cần nhận thức rõ âm mưu tuyên truyền sai sự thật, phá hoại tư tưởng của cái gọi là Nhà xuất bản Tự do. Các hoạt động của số đối tượng kêu gọi áp dụng chế tài của luật Magnitsky với mục tiêu, ý đồ “áp đặt” lên Việt Nam với các chế tài bất hợp lý cần phải bị lên án.
Hai là, mỗi công dân Việt Nam thể hiện đúng đắn lòng yêu nước, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nhất là thế hệ trẻ, không bị các đối tượng chống đối nói chung, số đối tượng tham gia Nhà xuất bản Tự do nói riêng tuyên truyền, kích động; khơi dậy niềm tự hào của thanh niên, sinh viên về truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc; đồng thời giúp họ hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của Nhà xuất bản Tự do trong bối cảnh hiện nay; chủ động nâng cao tinh thần cảnh giác khi tiếp cận thông tin bên ngoài, thông tin từ Internet, không để các đối tượng lợi dụng kích động người dân.

SỰ THẬT VỀ CÁI GỌI LÀ VIỆT NAM “ĐÀN ÁP” TỰ DO TÔN GIÁO



Ngày 10/6/2020, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã công bố Báo cáo Tự do tôn giáo quốc tế năm 2019; trong đó, tiếp tục chỉ trích Việt Nam “đàn áp” tự do tôn giáo. Vậy đâu là sự thật?         
Tự do tôn giáo được xem xét dưới nhiều góc độ. Dưới góc độ pháp lý, tự do tôn giáo là một khái niệm để chỉ quyền tự do theo đạo, tự do bỏ đạo, tự do đổi đạo, tự do thể hiện và thực hành đức tin của mình, tự do trong sinh hoạt tôn giáo, v.v. Đây không chỉ là quyền của cá nhân tín đồ, chức sắc mà còn là quyền của các tổ chức tôn giáo có tư cách pháp nhân. Cũng từ phương diện pháp lý cho thấy, ở bất cứ quốc gia nào, quyền tự do tôn giáo hay bất cứ một quyền dân sự hay chính trị nào khác cũng đều phải diễn ra trong khuôn khổ pháp luật. Không có tự do vô chính phủ, tự do vô nguyên tắc, tự do một cách tuyệt đối.
Điều 18 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị nêu rõ: “Quyền tự do của cá nhân thể hiện tôn giáo hay tín ngưỡng của mình chỉ phải chịu các giới hạn chẳng hạn như các giới hạn được luật pháp quy định và các giới hạn cần thiết để bảo vệ an toàn, trật tự, sức khỏe xã hội, hay tinh thần hoặc các quyền cơ bản và quyền tự do của những người khác”. Như vậy, quyền tự do tôn giáo hay bất cứ một quyền nào khác trên phương diện pháp lý đều bị giới hạn bởi khuôn khổ luật pháp.
Quyền tự do tôn giáo là vấn đề có tính lịch sử. Nghĩa là nó phụ thuộc vào từng thời điểm lịch sử cụ thể ở từng quốc gia, gắn với một thể chế chính trị - xã hội và điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội cụ thể nhất định. Không thể tồn tại một khái niệm quyền tự do tôn giáo chung chung, trừu tượng mà lại không gắn với một bối cảnh và thực thể nhất định. Điều này khẳng định rằng, không thể đem giá trị, quan niệm về tự do tôn giáo ở một quốc gia này để áp dụng hay đo lường, đánh giá mức độ quyền tự do tôn giáo ở một quốc gia khác. Tất nhiên, trên phương diện khoa học, chúng ta vẫn có thể đem ra so sánh, phân tích và đối chiếu. Nhưng trên phương diện quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia, các thể chế chính trị bình đẳng, độc lập thì không thể đem tiêu chuẩn về tự do tôn giáo ở quốc gia này để áp đặt lên một quốc gia khác và buộc các quốc gia khác phải tuân theo.
Thực tế các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, cho thấy rất rõ ràng chính sách nhất quán của Nhà nước ta là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Bất cứ tổ chức hay cá nhân nào cũng không được phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo hay vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Đồng thời, không được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác. Đó là chính sách rất đúng đắn, rõ ràng và nhất quán của Đảng và Nhà nước ta.
Trên thực tế, đời sống tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam hiện nay khá sôi động và đa dạng với nhiều hình thức sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, nhiều tổ chức tôn giáo và mô hình tổ chức khác nhau. Các tôn giáo đều tôn trọng lẫn nhau, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; đại bộ phận chức sắc, tín đồ sống phúc âm trong lòng dân tộc, tốt đời, đẹp đạo. Tín đồ gương mẫu cũng là công dân gương mẫu. Thế nhưng, một bộ phận nhỏ chức sắc và tín đồ một số tôn giáo lại không nhận ra thực tế này, với nhiều tham vọng chính trị và bị lôi kéo, kích động của các thế lực thù địch, dẫn đến có những hành động cực đoan quá khích chống lại chủ trương, đường lối, của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo nói riêng và trên các lĩnh vực nói chung. Họ lợi dụng tôn giáo, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để kích động và tiến hành các hoạt động chống chính quyền và chế độ xã hội chủ nghĩa dưới chiêu bài “đấu tranh cho tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền”; liên kết và phụ họa với các thế lực thù địch, các phần tử phản động, chống đối ở cả trong và ngoài nước để hoạt động chống phá.
Từ thực tiễn nêu trên, cần có một cái nhìn khách quan và toàn diện rằng, quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam hiện nay luôn được đảm bảo và ngày càng được cải thiện theo xu thế phát triển của đất nước và của thời đại. Chức sắc và tín đồ các tôn giáo đều được tự do sinh hoạt, tự do thực hành các lễ nghi tôn giáo, biểu hiện đức tin, được tạo điều kiện cho mở mang cơ sở vật chất, tu sửa nơi thờ tự, được mở các trường đào tạo những người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp đáp ứng nhu cầu phát triển của giáo hội phù hợp với trình độ phát triển của xã hội; được Nhà nước tạo điều kiện cho mở rộng, phát triển các quan hệ giao lưu quốc tế, v.v. Ở Việt Nam, không có chuyện kỳ thị, phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo hay vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật. Dư luận tuyệt đại đa số chức sắc, tín đồ đều cho rằng, chính sách, pháp luật về tôn giáo của Nhà nước Việt Nam là đúng, phù hợp, không có cản trở nào trong các hoạt động và sinh hoạt tôn giáo của họ. Thậm chí, họ còn được chính quyền các cấp rất quan tâm, thăm hỏi động viên trong các dịp lễ, tết và được tạo điều kiện thuận lợi trong các hoạt động tôn giáo. Chỉ có một bộ phận rất nhỏ chức sắc, tín đồ một số tôn giáo và Báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho rằng, ở Việt Nam người dân không được hưởng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, không có tự do tôn giáo, Nhà nước ta “đàn áp” tự do tôn giáo! Đây là nhận thức rất sai lệch, mang mục đích chính trị chứ không phải là tôn giáo thuần túy. Nói cách khác, đây là hoạt động lợi dụng vấn đề tự do tôn giáo để chống Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó mới là sự thật của cái gọi là Việt Nam “đàn áp” tự do tôn giáo.
Thời gian qua, ở nước ta đã diễn ra nhiều sự kiện quốc tế quan trọng khẳng định uy tín ngày càng lên cao của Việt Nam trên bình diện quốc tế, thu hút sự quan tâm của dư luận thế giới. Đó là ngày 07/6/2019, tại phiên bỏ phiếu chọn Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an do Đại hội đồng Liên hợp quốc tổ chức, Việt Nam được bầu với số phiếu tín nhiệm rất cao (192/193). Ngày 20/6/2019, tại phiên họp của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc tổ chức ở Geneva (Giơ-ne-vơ - Thụy Sĩ), với sự chứng kiến của đại diện 192 nước thành viên Liên hợp quốc, các tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ, Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc đã thông qua Báo cáo về tình hình đảm bảo quyền con người tại Việt Nam chu kỳ 2 trong khuôn khổ Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR), v.v. Các sự kiện này cho thấy, nỗ lực của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong việc chăm lo đời sống người dân, phát triển đất nước cũng như tích cực cùng nhân loại xây đắp, củng cố hòa bình trong khu vực và trên thế giới, xây dựng quan hệ bình đẳng cùng có lợi giữa các quốc gia để cùng phát triển. Từ tinh thần trách nhiệm, thái độ nghiêm túc của Việt Nam trong nỗ lực tăng cường, tạo điều kiện để nhân dân được thụ hưởng các quyền kinh tế - xã hội, văn hóa, dân sự, chính trị theo các chuẩn mực quốc tế, nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật và các cơ chế, chủ trương, chính sách, người dân ngày càng được bảo đảm tốt hơn các quyền và tự do (trong đó, có tự do tín ngưỡng, tôn giáo), đời sống vật chất, tinh thần từng bước được nâng cao, v.v.
Thế mà, Báo cáo Tự do tôn giáo quốc tế của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố ngày 10/6 vừa qua lại đưa ra những thông tin thiếu khách quan, sai lệch, vu cáo Việt Nam “đàn áp” tự do tôn giáo? Thử hỏi, Việt Nam “đàn áp” tự do tôn giáo mà hiện nay có tới 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân; 60 cơ sở đào tạo tôn giáo thuộc Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Phật giáo Hòa Hảo. Đến năm 2018, có 7.102 tổ chức, cơ sở tôn giáo đang sử dụng tổng diện tích 14.850 ha đất. Hiện có 12 báo, tạp chí liên quan đến tôn giáo, phần lớn các tổ chức tôn giáo đều có website riêng; trong 5 năm (2015-2019) có hơn 3.000 ấn phẩm tôn giáo được xuất bản với hơn 10 triệu bản in, hàng triệu đĩa CD, DVD về tôn giáo bằng nhiều ngôn ngữ. Nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn được tổ chức ở Việt Nam, như: Đại lễ Phật đản VESAK, 500 năm Cải chánh đạo Tin lành, v.v. Điều đáng nói là, tự do tôn giáo của các dân tộc thiểu số luôn được bảo đảm: năm 2017, Giáo hội Phật giáo Việt Nam xây dựng Học viện Phật giáo Nam tông Khmer tại Cần Thơ; ở Bình Phước và Tây Nguyên có 33 tổ chức, hệ phái, nhóm Tin lành đang sinh hoạt tại 304 chi hội và hơn 1.300 điểm nhóm; ở Tây Bắc có 693 điểm nhóm Tin lành, 8 Hội thánh cơ sở được thành lập; nhiều điểm nhóm của người dân tộc thiểu số theo Hội thánh Lutheran, Hội Liên hữu Baptist Việt Nam đã đăng ký sinh hoạt tập trung. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động đã xây dựng và thực hiện đường hướng hành đạo đậm chất nhân văn tôn giáo và trách nhiệm với đất nước, dân tộc. Cùng với phát triển về tổ chức, đăng ký hoạt động cho các tôn giáo đủ điều kiện, số lượng tín đồ và các hoạt động tôn giáo cũng không ngừng gia tăng. Tính đến tháng 9/2019, Việt Nam có 25,1 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số, 55.710 chức sắc, 145.721 chức việc. Các tổ chức tôn giáo ra đời một mặt phản ánh sự quan tâm của Nhà nước Việt Nam trong thực hiện nhất quán quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác, khẳng định Việt Nam không phân biệt giữa người có hay không có tín ngưỡng, tôn giáo; không phân biệt hay kỳ thị bất kỳ tôn giáo nào dù nội sinh hay được truyền từ nước ngoài, dù là tôn giáo đã ổn định lâu dài hay mới được công nhận.
Cùng với đó, các hoạt động tôn giáo đa dạng, sôi động, diễn ra trên khắp cả nước. Các cơ sở thờ tự của các tôn giáo khang trang, đời sống của tín đồ ngày càng sung túc. Các ngày lễ trọng, lễ hội truyền thống của tôn giáo được tổ chức trang nghiêm, thu hút đông đảo không chỉ tín đồ mà cả quần chúng nhân dân tham gia, như: Lễ Phật đản của Phật giáo, Lễ Giáng sinh, Lễ Phục sinh của Công giáo và Tin lành, Đại lễ Vía Đức Chí Tôn, Lễ Thượng ngươn của đạo Cao Đài, v.v. Nhiều cơ sở tôn giáo được chính quyền quan tâm cấp phép xây dựng, sửa chữa, nâng cấp, cải tạo khang trang, đáp ứng nhu cầu chính đáng về nơi hành lễ của tín đồ và tổ chức tôn giáo. Thông qua các hoạt động tôn giáo, hoạt động xã hội, chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, phát huy giá trị đạo đức tôn giáo và đóng góp nguồn lực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đấu tranh hiệu quả với các hoạt động lợi dụng tôn giáo chia rẽ đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc và luận điệu vu cáo Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo.
Thực tế đó cho thấy, sự thật về cái gọi là Việt Nam “đàn áp” tự do tôn giáo của Báo cáo Tự do tôn giáo mà Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra là không có cơ sở và không phù hợp với bước tiến tích cực trong quan hệ Việt Nam và Hoa Kỳ thời gian qua. Đồng thời, không phù hợp với nguyên tắc được xác định trong tuyên bố chung về tầm nhìn quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ công bố năm 2015: “Việc thực hiện tốt, đầy đủ và không ngừng làm sâu sắc, phong phú thêm quan hệ đối tác toàn diện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thể chế chính trị và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau là cơ sở để xây dựng lòng tin, tiến tới đưa quan hệ phát triển lên một tầm cao mới”./.

BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA, ĐẢM BẢO AN NINH KINH TẾ TRONG TÌNH HÌNH MỚI



Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng yêu cầu phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát công tác bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh kinh tế; chịu trách nhiệm chính và trước hết xử lý vấn đề an ninh ở lĩnh vực, địa phương mình...
Sáng 9/7, tại Hà Nội, Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 05/9/2019 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia (ANQG) và sơ kết 03 năm thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 05/01/2017 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế (ANKT) trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Các đồng chí: Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng; Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an; Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Phan Đình Trạc, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương đồng chủ trì Hội nghị.
Tham dự Hội nghị có hơn 500 đại biểu là các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng; đại diện các Ban Đảng, Đảng đoàn, Ban Cán sự đảng, Đảng ủy trực thuộc Trung ương; Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Quốc hội; các Ủy ban của Quốc hội; Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cán bộ chủ chốt của lực lượng Công an nhân dân, Quân đội nhân dân...
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Bộ trưởng Tô Lâm nhấn mạnh, công tác bảo vệ ANQG là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Năm 1998, lần đầu tiên Đảng ta ban hành Nghị quyết về Chiến lược ANQG, lần đầu tiên Đảng ta hệ thống nhận diện những nguy cơ đe dọa ANQG và đề ra các chủ trương, giải pháp cơ bản chỉ đạo về bảo vệ ANQG. Qua tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết về Chiến lược ANQG cho thấy: Dưới sự lãnh đạo thường xuyên, sát sao của Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, ANQG được giữ vững, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, giữ vững độc lập, tự chủ, đảm bảo toàn vẹn chủ quyền và lãnh thổ của đất nước. Ổn định chính trị và môi trường an ninh, an toàn đã trở thành một trong những lợi thế, nguồn lực quan trọng để phát triển đất nước, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, tạo lập vị thế, uy tín ngày càng cao của Việt Nam trên trường quốc tế.
Sau hơn 30 năm đổi mới đất nước, trong bối cảnh tình hình mới, ANQG đang đứng trước những nguy cơ, thách thức mới rất phức tạp, đòi hỏi phải có chiến lược mới với tầm nhìn mới, hệ thống giải pháp mới để giữ vững ANQG trong mọi tình huống. Trước tình hình đó, Đảng ủy Công an Trung ương đã phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành liên quan nghiên cứu, xây dựng và đề xuất Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 51 về Chiến lược bảo vệ ANQG.
Bộ trưởng Tô Lâm nêu rõ, trong ANQG, ANKT được xác định là nền tảng, là nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội. Để tăng cường bảo đảm ANKT, Bộ Chính trị lần đầu tiên ban hành Chỉ thị số 12 ngày 05/01/2017 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm ANKT trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế”. Qua 03 năm triển khai thực hiện chủ trương đặc biệt quan trọng của Đảng về bảo vệ ANKT, có nhiều vấn đề cần đánh giá, sơ kết để tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng, Đảng ủy Công an Trung ương đã chủ trì, phối hợp với các Ban Đảng, Đảng đoàn, Ban Cán sự đảng, Đảng ủy trực thuộc Trung ương và Tỉnh ủy, Thành ủy tổ chức sơ kết, đánh giá 03 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 12 của Bộ Chính trị...
Tại Hội nghị, các đại biểu đã nghe Thượng tướng Bùi Văn Nam, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an quán triệt những nội dung trọng tâm của Nghị quyết số 51-NQ/TW; trình bày Báo cáo tóm tắt sơ kết 03 năm thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TW của Bộ Chính trị...
Tại Hội nghị, các đại biểu đã thảo luận, làm rõ những việc đã làm được, chưa làm được, những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân trong 03 năm thực hiện Chỉ thị số 12; nêu lên những chủ trương giải pháp sát với thực tiễn chỉ đạo công tác ở từng bộ, ngành, địa phương để thực hiện có hiệu quả Chiến lược bảo vệ ANQG, công tác bảo đảm ANKT trong thời gian tới...
Phát biểu kết luận Hội nghị, đồng chí Trần Quốc Vượng, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền tập trung tổ chức học tập, quán triệt sâu sắc những nội dung trọng tâm của Nghị quyết số 51-NQ/TW trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực phụ trách; cần làm cho mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức rõ tình hình, mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo và nêu cao trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp để bảo vệ vững chắc ANQG, bảo đảm ANKT. Cụ thể hóa nội dung Nghị quyết số 51-NQ/TW, Chỉ thị số 12-CT/TW thành các chương trình, kế hoạch, nghị quyết chuyên đề phù hợp với đặc điểm, tình hình cơ quan, đơn vị, địa bàn và tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả.
Chủ động xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội gắn với công tác bảo đảm ANQG, chủ động ứng phó với các vấn đề an ninh phi truyền thống... Phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát công tác bảo vệ ANQG, bảo vệ ANKT; chịu trách nhiệm chính và trước hết xử lý vấn đề an ninh ở lĩnh vực, địa phương mình. Triển khai đồng bộ, quyết liệt các kế hoạch, biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, phần tử xấu và các loại tội phạm.
Đồng chí Trần Quốc Vượng cũng lưu ý việc nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, cả hệ thống chính trị trong bảo vệ ANQG, bảo đảm ANKT... Xây dựng đội ngũ cán bộ thực hiện công tác bảo vệ ANQG, bảo vệ ANKT đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Tập trung xây dựng lực lượng Công an cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, phấn đấu xây dựng lực lượng Công an nhân dân chuyên nghiệp, hiện đại, thực sự trong sạch, liêm chính, bố trí hợp lý trên các địa bàn.

AN NINH THÔNG TIN Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY - VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP



Ngày nay, an ninh thông tin đã và đang đi vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội và dần trở thành một bộ phận quan trọng của an ninh quốc gia. Nguy cơ gây mất an ninh thông tin là mối đe dọa lớn và ngày càng gia tăng đối với an ninh quốc gia. Bài viết tập trung phân tích, làm rõ tình hình an ninh thông tin ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay, chỉ rõ những vấn đề đang đặt ra trong bảo đảm an ninh thông tin và các giải pháp trọng tâm nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm an ninh thông tin của Việt Nam thời gian tới.
Trải qua 35 năm đổi mới, hệ thống thông tin của Việt Nam có sự phát triển mạnh mẽ, phục vụ đắc lực sự lãnh đạo, quản lý, điều hành của Đảng, Nhà nước, đáp ứng nhu cầu thông tin của xã hội, góp phần đảm bảo quốc phòng, an ninh của đất nước. Lĩnh vực viễn thông, Internet, tần số vô tuyến điện có sự phát triển mạnh mẽ, đạt được mục tiêu số hóa hoàn toàn mạng lưới, phát triển nhiều dịch vụ mới, phạm vi phục vụ được mở rộng, bước đầu hình thành những doanh nghiệp mạnh, có khả năng vươn tầm khu vực, quốc tế. Hệ thống bưu chính chuyển phát, báo chí, xuất bản phát triển nhanh cả về số lượng, chất lượng và kỹ thuật nghiệp vụ, có đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước.
Tuy nhiên, tình hình an ninh thông tin ở Việt Nam đã và đang có những diễn biến phức tạp. Các cơ quan đặc biệt nước ngoài, các thế lực thù địch, phản động tăng cường hoạt động tình báo, gián điệp, khủng bố, phá hoại hệ thống thông tin; tán phát thông tin xấu, độc hại nhằm tác động chính trị nội bộ, can thiệp, hướng lái chính sách, pháp luật của Việt Nam. Gia tăng hoạt động tấn công mạng nhằm vào hệ thống thông tin quan trọng quốc gia, hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc giaTheo thống kê, trung bình mỗi năm, qua kiểm tra, kiểm soát các cơ quan chức năng đã phát hiện trên 850.000 tài liệu chiến tranh tâm lý, phản động, ân xá quốc tế, tài liệu tuyên truyền tà đạo trái phép; gần 750.000 tài liệu tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước được tán phát vào Việt Nam qua đường bưu chính. Từ 2010 đến 2019 đã có 53.744 lượt cổng thông tin, trang tin điện tử có tên miền .vn bị tấn công, trong đó có 2.393 lượt cổng thông tin, trang tin điện tử của các cơ quan Đảng, Nhà nước “.gov.vn”, xuất hiện nhiều cuộc tấn công mang màu sắc chính trị, gây ra những hậu quả nghiêm trọng [1].
Tội phạm và vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thông tin diễn biến phức tạp, gia tăng về số vụ, thủ đoạn tinh vi, gây thiệt hại nghiêm trọng về nhiều mặt. Các hành vi phá hoại cơ sở hạ tầng thông tin; gây mất an toàn, hoạt động bình thường, vững mạnh của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và hệ thống thông tin vô tuyến điện,… đã và đang gây ra những thiệt hại lớn về kinh tế, xâm hại trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Theo kết quả đánh giá an ninh mạng do Tập đoàn công nghệ Bkav thực hiện, trong năm 2019, chỉ tính riêng thiệt hại do virus máy tính gây ra đối với người dùng Việt Nam đã lên tới 20.892 tỷ đồng (tương đương 902 triệu USD), hơn 1,8 triệu máy tính bị mất dữ liệu do sự lan tràn của các loại mã độc mã hóa dữ liệu tống tiền (ransomware), trong đó có nhiều máy chủ chứa dữ liệu của các cơ quan, gây đình trệ hoạt động của nhiều cơ quan, doanh nghiệp [2].
Hệ thống thông tin của Việt Nam còn tồn tại nhiều điểm yếu, lỗ hổng bảo mật dễ bị khai thác, tấn công, xâm nhập; tình trạng lộ, mất bí mật nhà nước qua hệ thống thông tin gia tăng đột biến; hiện tượng khai thác, sử dụng trái phép cơ sở dữ liệu, tài nguyên thông tin quốc gia, dữ liệu cá nhân người dùng diễn biến phức tạp; xuất hiện nhiều dịch vụ mới, hiện đại gây khó khăn cho công tác quản lý, kiểm soát của các cơ quan chức năng. Từ 2001 đến 2019, các cơ quan chức năng đã phát hiện hơn 1.100 vụ lộ, mất bí mật nhà nước, trong đó lộ, mất bí mật nhà nước qua hệ thống thông tin chiếm tỷ lệ lớn với trên 80% số vụ [1]. Tháng 3/2018, Facebook cũng đã để lộ dữ liệu cá nhân để một nhà phát triển bán lại cho Công ty Cambridge Analityca, dẫn tới 87 triệu dữ liệu thông tin người dùng bị lộ, trong đó có 427.466 tài khoản của người dùng Việt Nam [3]. 
Thực tế nêu trên đã làm xuất hiện nhiều nguy cơ đe dọa đến an ninh thông tin của Việt Nam ở cả bên trong và bên ngoài. Ở trong nước, trước hết là nguy cơ tụt hậu về công nghệ, lệ thuộc vào công nghệ của nước ngoài, nhất là hệ thống mạng lõi; phần mềm hệ thống, dịch vụ thông tin của nước ngoài (nhất là dịch vụ mạng xã hội) dẫn tới mất chủ quyền nội dung số, tài nguyên thông tin về các công ty công nghệ nước ngoài ngày càng nghiêm trọng hơn; các đối tượng cơ hội, chống đối chính trị trong nước, triệt để sử dụng mạng xã hội tán phát thông tin giả, thông tin xấu, độc nhằm gây rối nội bộ, kích động biểu tình, bạo loạn.
Ở bên ngoài, các thế lực thù địch triệt để sử dụng hệ thống thông tin để tác động, can thiệp nội bộ, hướng lái chính sách, thao túng dư luận, thúc đẩy “cách mạng màu” ở Việt Nam; xâm phạm độc lập, chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, tiến hành chiến tranh thông tin đối với Việt Nam. Các tổ chức phản động lưu vong, khủng bố tăng cường hoạt động tấn công, phá hoại hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; sử dụng không gian mạng để tán phát thông tin xấu, độc hại, kích động biểu tình, bạo loạn; hình thành các hội, nhóm, các tổ chức chính trị đối lập,… Các tổ chức tin tặc, tổ chức tội phạm thực hiện các cuộc tấn công mạng tự phát, đơn lẻ hoặc có chủ đích nhằm vào hệ thống thông tin trọng yếu quốc gia, làm tê liệt, gây gián đoạn hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý kinh tế-xã hội của các cơ quan Đảng, Nhà nước.
Trong bối cảnh đó, các cơ quan, ban, ngành ở Trung ương và địa phương đã chú trọng nghiên cứu, xây dựng, áp dụng đồng bộ các giải pháp tăng cường đảm bảo an ninh thông tin. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác đảm bảo an ninh thông tin ở Việt Nam hiện nay đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Tiềm lực bảo đảm an ninh thông tin, cả về con người, tài chính và cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu đảm bảo an ninh thông tin trong tình hình mới; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh thông tin chưa cao; năng lực phát hiện, xử lý các hoạt động xâm hại an ninh thông tin, sự cố gây mất an ninh thông tin của các cơ quan, đơn vị còn nhiều hạn chế; hiệu quả ứng dụng khoa học kỹ thuật trong đảm bảo an ninh thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của tình hình mới,…
Hiện nay, đất nước ta đang đứng trước những nguy cơ, thách thức lớn từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với sự phát triển, ứng dụng mạnh mẽ của trí tuệ nhân tạo, rô-bốt, công nghệ sinh học, sẽ hình thành nên nhiều lĩnh vực mới như: “Internet công nghiệp”, “Nhà máy thông minh”, “Thành phố thông minh”, “Xã hội siêu thông minh”, “Chính phủ điện tử”… hoạt động trên môi trường không gian mạng, tạo sự đột phá về phát triển kinh tế, chính trị - xã hội. Xu hướng Internet kết nối vạn vật (IoT), gồm Internet kết nối với năng lượng, dịch vụ, truyền thông đa phương tiện, con người, vạn vật sẽ thay đổi phương thức hoạt động của cả một nền kinh tế, thói quen, tâm lý, văn hóa xã hội. Sự phát triển kinh tế xã hội cũng như đảm bảo an ninh quốc gia ở Việt Nam những năm tới chủ yếu dựa trên nền tảng kỹ thuật số. Với xu thế phát triển của nền kinh tế chia sẻ, chuyển đổi số,… công nghiệp công nghệ thông tin sẽ trở thành ngành kinh tế chủ đạo, quyết định sự phát triển nhanh, bền vững của quốc gia.
Do đó, để nâng cao hiệu quả bảo đảm an ninh thông tin thời gian tới, cần quan tâm thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức về an ninh thông tin và bảo đảm an ninh thông tin. Cần nhận thức rõ, an ninh thông tin là độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia trên không gian thông tin, sự an toàn, phát triển ổn định, vững mạnh của lĩnh vực thông tin, hệ thống thông tin quốc gia. An ninh thông tin là nội dung trọng tâm của an ninh quốc gia trong điều kiện mới, có mối quan hệ chặt chẽ với các vấn đề an ninh truyền thống khác như an ninh chính trị nội bộ, an ninh quân sự, an ninh văn hóa tư tưởng, an ninh kinh tế, an ninh xã hội. Nguy cơ gây mất an ninh thông tin là mối đe dọa lớn và ngày càng gia tăng đối với an ninh quốc gia, an ninh quốc tế. Chính vì vậy, đảm bảo an ninh thông tin là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị trong đó lực lượng Công an nhân dân là nòng cốt. Để đảm bảo an ninh thông tin cần coi trọng và sử dụng đồng bộ các biện pháp chính trị, pháp luật, khoa học kỹ thuật, tuyên truyền - giáo dục, tổ chức – hành chính, kinh tế, ngoại giao và nghiệp vụ chuyên môn.
Thời gian tới, các cơ quan chức năng cần tăng cường giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao ý thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; chú trọng tuyên truyền, phổ biến cho học sinh, sinh viên về các nguy cơ, các yếu tố gây mất an ninh, đe dọa gây mất an ninh thông tin. Từ đó, nâng cao ý thức trong sử dụng các dịch vụ thông tin, nhất là dịch vụ do nước ngoài cung cấp; nâng cao bản lĩnh chính trị, khả năng nhận biết, tiếp nhận thông tin, khả năng tự vệ, “miễn dịch” trước những thông tin giả, thông tin xấu, độc hại. Có kế hoạch đưa nội dung về nhận diện các nguy cơ, yếu tố gây mất an ninh thông tin và trách nhiệm đảm bảo an ninh thông tin vào hệ thống giáo dục quốc dân, qua đó giáo dục ý thức, trách nhiệm, nâng cao nhận thức cho toàn dân về vấn đề này.
Hai là, nghiên cứu xác lập chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ, chủ quyền và lợi ích quốc gia trên không gian thông tin quốc tế; bảo vệ và khai thác có hiệu quả tài nguyên thông tin quốc gia.
Việt Nam cần tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, tập trung nghiên cứu, xác lập không gian mạng quốc gia (với cơ sở hạ tầng, dịch vụ, khung pháp lý) nhằm sớm khẳng định chủ quốc gia trên không gian mạng. Xác định các yếu tố cấu thành và đẩy mạnh giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả chủ quyền quốc gia trên không gian thông tin: (1) Phát triển công nghệ phần cứng nhằm bảo đảm tự chủ về phương tiện, thiết bị, nhất là hệ thống mạng lõi, máy tính, điện thoại, cơ sở hạ tầng thông tin; (2) Phát triển công nghệ phần mềm nhằm tạo lập hệ sinh thái phần mềm riêng, bao gồm: hệ điều hành, công cụ tìm kiếm, mạng xã hội và các ứng dụng dịch vụ trên Internet; (3) Phát triển công nghệ bảo mật riêng và hệ thống kiểm tra, giám sát an ninh nhằm chủ động phát hiện và ngăn chặn, chặn lọc các thông tin giả, thông tin xấu, độc hại; (4) Xây dựng hệ cơ sở dữ liệu quốc gia tích hợp, liên thông, an toàn (Big Data) tạo thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số và phát triển kinh tế số; (5) Xây dựng hệ thống tuyên truyền, định hướng thông tin hiện đại, an toàn và có trách nhiệm; hệ thống tấn công, phòng thủ riêng, đặc biệt là hệ thống thông tin trọng yếu của Đảng, Nhà nước và trên lĩnh vực an ninh, quốc phòng; (6) Xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật và thị trường dịch vụ phát triển.
Trước hết, cần có cơ chế đặc thù để tập trung nguồn lực xây dựng cho bằng được mạng xã hội, công cụ tìm kiếm, hệ điều hành tiện ích riêng của Việt Nam tương thích với quốc tế, có chỗ đứng vững chắc trên thị trường và trong xã hội. Điều này một mặt vừa khẳng định vị thế quốc gia, đảm bảo độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, từng bước hạn chế sự lệ thuộc vào công nghệ của nước ngoài, nâng cao khả năng bảo mật và khả năng tự chủ trong đảm bảo an ninh thông tin, đảm bảo lợi ích kinh tế quốc gia, tạo thuận lợi cho việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc, chủ động trong việc tiếp nhận thông tin và tạo thuận lợi trong thông tin, tuyên truyền của Đảng, Nhà nước, ngăn chặn có hiệu quả các thông tin xấu, độc hại, gia tăng khả năng đảm bảo bí mật thông tin cá nhân người dùng. Đồng thời cần có kế hoạch hợp lý khai thác và bảo vệ tài nguyên thông tin quốc gia phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh.
Ba là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh thông tin. Tập trung xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo đảm an ninh thông tin, tạo môi trường pháp lý để bảo đảm sự an toàn, tin cậy cho nền kinh tế số, cho việc chia sẻ dữ liệu số, cho quản lý hoạt động của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thông tin qua biên giới vào Việt Nam. Tiếp tục nghiên cứu xây dựng luật về chống thông tin giả, thông tin xấu, độc hại; luật bảo vệ thông tin cá nhân. Có cơ chế công khai giám sát, chặn lọc thông tin xuyên tạc, sai sự thật trên không gian mạng; quy định cụ thể và thực hiện nghiêm túc quy định bắt buộc sử dụng thông tin thật khi đăng ký tài khoản trên mạng. Xây dựng bộ quy tắc ứng xử trên không gian mạng; quy định về bảo vệ, kiểm tra, sử dụng tài nguyên thông tin quốc gia, dữ liệu cá nhân người dùng.
Bốn là, bảo đảm tuyệt đối an toàn các hệ thống thông tin quan trọng quốc gia, hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia, nâng cao năng lực phòng thủ, phục hồi sau các cuộc tấn công vào hệ thống thông tin, đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động xâm phạm an ninh thông tin của các thế lực thù địch và các loại tội phạm.
Chính phủ cần tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng hiện đại, băng thông đủ rộng để vượt qua các cuộc tấn công gây nghẽn mạng, có hệ thống máy lưu trữ dự phòng để chuyển hướng dữ liệu trước các cuộc tấn công và phục hồi sau tấn công mạng. Thường xuyên rà soát, phát hiện, khắc phục lỗ hổng bảo mật trên toàn hệ thống, bổ sung thiết bị, phần mềm chuyên dụng có khả năng kiểm tra, kiểm soát an ninh, an toàn thông tin trên môi trường mạng viễn thông, internet, tần số vô tuyến điện,… Xây dựng, triển khai thực hiện các giải pháp kỹ thuật chuyên biệt nhằm kiểm tra, phát hiện các nguy cơ gây mất an ninh thông tin. Tổ chức diễn tập hàng năm về phòng, chống tấn công mạng cấp quốc gia với sự tham gia của cơ quan chính phủ, các tập đoàn kinh tế trọng yếu, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet và các cơ quan, tổ chức có liên quan, đảm bảo xử lý kịp thời các nguy cơ gây mất an ninh, đe dọa gây mất an ninh thông tin ở Việt Nam.
Chú trọng dự báo, triển khai các giải pháp đấu tranh vô hiệu hóa hoạt động xâm hại an ninh thông tin của các đối tượng, nhất là hoạt động tấn công làm tê liệt hệ thống thông tin trọng yếu quốc gia; ý đồ sử dụng trí tuệ nhân tạo (Al), dữ liệu lớn (big Data) để thao túng, kích động dư luận xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy “cách mạng màu” ở Việt Nam; và âm mưu, ý đồ của các thế lực thù địch, bá quyền quân sự hóa không gian thông tin, phát động chiến tranh thông tin đối với Việt Nam.
Năm là, tập trung nguồn lực để xây dựng, từng bước phát triển nền công nghiệp công nghệ thông tin, đặc biệt là công nghiệp an ninh thông tin (an ninh mạng) của Việt Nam.
Với nguồn lực của Việt Nam hiện nay, cần tập trung phát triển công nghiệp an ninh thông tin theo hướng lưỡng dụng, kết hợp cả trong lĩnh vực dân sự với bảo đảm an ninh, quốc phòng; đối tác công tư. Nhà nước cần có cơ chế đặc biệt, triển khai ngay các giải pháp đi tắt, đón đầu để từng bước làm chủ và xuất khẩu công nghệ thông tin. Khuyến khích nghiên cứu, phát triển, sử dụng các phần mềm, dịch vụ thông tin riêng của Việt Nam, đáp ứng yêu cầu bảo mật thông tin, sự an toàn của bí mật nhà nước, giám sát an ninh mạng. Xây dựng doanh nghiệp công nghệ thông tin, cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet trong nước lớn mạnh, làm chủ thị trường, hình thành lực lượng doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, có năng lực tự sản xuất các trang thiết bị an ninh thông tin.
Chính phủ cần ban hành cơ chế khuyến khích, hỗ trợ và huy động các tổ chức, cá nhân khởi nghiệp về công nghệ an ninh mạng, các doanh nghiệp công nghệ thông tin, cung cấp dịch vụ viễn thông, internet trong nước làm chủ thị trường; hình thành các doanh nghiệp có năng lực tự sản xuất, cung cấp dịch vụ, các trang thiết bị, giải pháp gắn với bảo vệ an ninh mạng, tăng tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm công nghệ thông tin. Thành lập các quỹ đầu tư cho nghiên cứu, phát triển các giải pháp đảm bảo an ninh thông tin.
Trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, an ninh thông tin ngày càng trở thành một nội dung quan trọng của an ninh quốc gia. Nghiên cứu về an ninh thông tin, bảo đảm an ninh thông tin vì vậy luôn là một yêu cầu bức thiết hiện nay. Các phân tích về tình hình an ninh thông tin, vấn đề đặt ra và những giải pháp bảo đảm an ninh thông tin trong bài viết chỉ là những kết quả nghiên cứu ban đầu, xin mạnh dạn nêu lên để cùng trao đổi./.

Thiếu tướng, PGS.TS. Lê Văn Thắng
Giám đốc Học viện An ninh nhân dân
(1). Lê Văn Thắng (2019), “An ninh thông tin của Việt Nam trong điều kiện hiện nay: Thực trạng, vấn đề đặt ra và giải pháp”, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Hà Nội.
(2). Tập đoàn BKAV (2019), Báo cáo tổng kết công tác an ninh mạng năm 2019.
(3) Bộ Công an (2018), Báo cáo số 403/BC-A68-P1 ngày 13/3/2018 “Báo cáo sơ kết 04 năm thực hiện Chỉ thị số 28-CT/TW của Ban bí thư về tăng cường công tác bảo đảm an ninh, an toàn thông tin mạng trong tình hình mới.
(4) Bộ Chính trị (2018), Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 25/7/2018 về Chiến lược an ninh mạng quốc gia.
(5) Bộ Chính trị (2018), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 25/7/2018 về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng.


CHỦ ĐỘNG ĐẤU TRANH, BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRƯỚC THỀM ĐẠI HỘI XIII



(TG) - Thông thường, càng gần đến Đại hội Đảng bộ các cấp, các thế lực thù địch, phản động cùng những phần tử về cơ hội chính trị lại gia tăng các hoạt động tuyên truyền, chống phá Đảng và Nhà nước ta. Điều đáng lưu ý là gần đây đã xuất hiện thêm một số tài liệu chống đối trắng trợn hơn, xuyên tạc lịch sử cùng với những luận điệu hết sức phản động.
Có phần tử cơ hội chính trị đã bóp méo sự thật về các điều luật, các luật mà Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá XIV vừa thông qua, chúng tập trung chống phá nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đòi Đảng ta từ bỏ quyền lãnh đạo; bác bỏ con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đòi thực hiện đa nguyên, đa đảng ở Việt Nam theo quan điểm của phương Tây, thực hiện nhà nước pháp quyền tư sản. Chúng hô hào tập hợp lực lượng đấu tranh chống phá pháp luật v.v.. Chúng lợi dụng những tiêu cực nảy sinh trong một số cán bộ, đảng viên mà ta đang lên án phê phán, đấu tranh và xử lý như tham nhũng, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân và các tệ nạn xã hội khác… để bôi đen bức tranh xã hội, gây tâm lý hoang mang, mất lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước.
ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ TRƯỚC THỀM ĐẠI HỘI XIII
Lợi dụng các trang mạng xã hội, internet, các thế lực thù địch tập trung tuyên truyền những nội dung xấu, độc, trá hình, bới móc, thổi phồng, xuyên tạc những sai lầm, khuyết điểm hoặc lợi dụng những hạn chế, sơ hở trong quản lý nhà nước để vu khống, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò của cấp uỷ, chính quyền địa phương.
Lợi dụng thời điểm Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng, trong bối cảnh chống dịch Covid-19, chúng không ngừng chống phá Đảng, Nhà nước; lôi kéo tập hợp lực lượng và kích động tư tưởng chống đối; chia rẽ nội bộ Đảng với nhân dân và Quân đội nhân dân. Mục đích của chúng là, từ đó tác động, làm thay đổi nhận thức về chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước; không ngừng luận điệu kêu gọi thúc đẩy “dân chủ đa nguyên”, thay đổi thể chế chính trị, đổi tên Đảng, tên nước, sửa Cương lĩnh, Hiến pháp, “phi chính trị hóa” quân đội, công an; thực hiện “tam quyền phân lập” ở Việt Nam. Thúc đẩy, kích động phong trào “bất tuân dân sự”, tuần hành, biểu tình, bạo động, khiếu kiện, gây “điểm nóng “về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
CHỦ ĐỘNG ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI
Trong những năm qua, Đảng ta luôn nhấn mạnh vị trí, vai trò của công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, coi đó là một bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối lãnh đạo của Đảng.
Ngày 22/10/2018, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị, về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới (Nghị quyết số 35). Nghị quyết 35 nêu rõ: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Ðảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”. Ðó là nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân, trong đó các cơ quan báo chí tuyên truyền các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và của cả hệ thống chính trị.
Nghị quyết 35 nêu bảy nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu. Trọng tâm là tiếp tục làm cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội; đổi mới nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục đối với các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, nhằm nâng cao sức đề kháng, khả năng chủ động đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch.
Trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch trước thềm Đại hội Đảng, nhiệm vụ đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch càng phải được coi trọng, lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, hiệu quả.
Trong đó, phải chủ động phòng ngừa, cảnh giác, ngăn chặn, đấu tranh, không để tác động, chi phối bởi những thông tin không chính thức, thông tin xấu độc, bịa đặt, xuyên tạc trên internet, mạng xã hội của các thế lực thù địch. Chủ động chuẩn bị các phương án, biện pháp cụ thể, sát với tình hình; xây dựng lý luận sắc bén để đấu tranh, phản bác có hiệu quả với các quan điểm sai trái xuyên tạc nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng.
ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN
Để nâng cao hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái thù địch, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng trước thềm Đại hội XIII, theo chúng tôi các cấp ủy đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau đây:
Một là, thường xuyên nâng cao nhận thức trách nhiệm về cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận trong tình hình mới. Đây vừa là giải pháp vừa là yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan, đơn vị, địa phương và cả hệ thống chính trị cùng toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân cần thấy rõ: Cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay là một nhiệm vụ chính trị vừa cấp bách, vừa thường xuyên và lâu dài. Đây là cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa tư tưởng vô sản với tư tưởng tư sản, giữa chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản với các thế lực thù địch, phản động hết sức quyết liệt. Là cuộc đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng lý luận, quan điểm của Đảng, là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bảo vệ những giá trị tư tưởng, lý luận đúng đắn, cũng đồng thời, là bảo vệ những thành quả cách mạng mà nhân dân ta đã đổ bao xương máu, hy sinh mới có được. Đây thực sự là cuộc đấu tranh “một mất, một còn” giữa ta và các thế lực thù địch.
Hai là, chủ động bám sát các vấn đề, sự kiện, cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng, tạo thế chủ động trong mặt trận đấu tranh trên Internet, mạng xã hội. Thực hiện tốt việc cung cấp thông tin cho cán bộ theo định kỳ, gặp mặt các đồng chí cán bộ nghỉ hưu, nghỉ công tác hằng năm; chủ động gặp các cán bộ có quan điểm khác với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng, tạo sự đồng thuận về nhận thức và hành động.
Ba là, thường xuyên đổi mới phương thức, huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, chủ động động đấu tranh phản bác luận điệu sai trái, của các thế lực thù địch. Đây vừa là định hướng vừa là giải pháp cơ bản phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong đấu tranh phản bác quan điểm, luận điệu thù địch, sai trái của các đối tượng, phần tử xấu trên Internet, mạng xã hội. Đa dạng hóa hoạt động đấu tranh theo hướng: thiết lập và sử dụng các trang web, blog, diễn đàn để đăng tải các bài viết với nội dung tuyên truyền các quan điểm chính thống, định hướng dư luận, phản bác hoặc tiến hành đấu tranh phản bác ngay tại các trang mạng “độc hại”, phản động được đối tượng sử dụng. Xây dựng và mở rộng đội ngũ cộng tác viên đưa tin, viết bài, bình luận; nâng cao chất lượng các bài viết đấu tranh phản bác với luận cứ khoa học, tính thuyết phục cao. Kết hợp chặt chẽ các biện pháp đấu tranh, cả trực tiếp và gián tiếp; giữa xây và chống, trong đó lấy xây là chính; chủ động cung cấp thông tin và phối hợp với các cơ quan báo chí để viết bài đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội.
Bốn là, tăng cường quản lý, chủ động sử dụng các biện pháp kỹ thuật, ngăn chặn việc truy cập vào các trang mạng “độc hại” một cách có hiệu quả. Đây vừa là giải pháp vừa là yêu cầu chủ động phối hợp với các nhà cung cấp dịch vụ, tính toán sử dụng các giải pháp về công nghệ thông tin để ngăn chặn một cách triệt để các tin tức xấu độc trên các trang mạng. Kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Ðiều lệ Ðảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Ðảng. Siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong Ðảng. Các cấp ủy và tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ bí mật của Ðảng, Nhà nước, lan truyền những thông tin sai lệch hoặc tán phát những đơn thư nặc danh, mạo danh, hoặc thư có danh nhưng có nội dung xấu, xuyên tạc, vu khống, kích động.
Thực hiện tốt những nội dung, định hướng cơ bản trên sẽ góp phần ngăn chặn hiệu quả, giảm tác hại từ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động trên internet, mạng xã hội và các phương tiện truyền thông, nhất là khi chúng ta tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.
________________________
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H.2016, tr.201.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...