Thứ Năm, 7 tháng 6, 2018


LỜI KÊU GỌI THI ĐUA ÁI QUỐC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH CÓ SỨC SỐNG MẠNH MẼ TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC CỦA CHÚNG TA

Sáng 3-6, tại Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức trọng thể Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi Thi đua ái quốc (11-6-1948 - 11-6-2018) và tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang, Anh hùng Lao động, điển hình tiên tiến qua các thời kỳ. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới dự và phát biểu tại Lễ kỷ niệm. Tạp chí Xây dựng Đảng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.
“Thưa các vị đại biểu, các vị khách quý, 
Thưa toàn thể các đồng chí, đồng bào, 
Nhân dịp kỷ niệm 70 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc (11-6-1948 - 11-6-2018), hôm nay, chúng ta họp mặt tại đây để ôn lại những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, điểm lại những công việc chúng ta đã làm trong thời gian qua và biểu dương, tuyên dương những tập thể và cá nhân đã có những thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua ái quốc, nhằm đẩy mạnh và làm tốt hơn nữa công tác thi đua, khen thưởng trong thời gian tới. Thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tôi nhiệt liệt chào mừng các vị đại biểu, các vị khách quý, các đồng chí lão thành cách mạng, các Mẹ Việt Nam Anh hùng, và đặc biệt chào mừng 700 đại biểu điển hình tiên tiến - những bông hoa tươi thắm trong phong trào thi đua yêu nước đã về dự buổi lễ trọng thể này. Tôi cũng xin gửi lời thăm hỏi ân cần và lời chúc mừng nồng nhiệt tới toàn thể đồng chí, đồng bào và chiến sĩ cả nước đang ngày đêm hăng say lao động, sản xuất, chiến đấu, công tác, học tập, nghiên cứu khoa học, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
Thưa các vị đại biểu và các đồng chí, 
Như chúng ta đã biết, công tác thi đua, khen thưởng có vai trò cực kỳ quan trọng trong đời sống xã hội. Cách đây 170 năm, nhà lý luận thiên tài, nhà tư tưởng vĩ đại của giai cấp vô sản C.Mác đã chỉ rõ: Thi đua là một hiện tượng xã hội tồn tại khách quan, là quy luật phát triển tất yếu của quá trình hợp tác lao động của con người; ở đâu có hợp tác lao động thì ở đó có thi đua. V.I.Lê nin cũng từng nói: Cách mạng là ngày hội của quần chúng. Với phong trào cách mạng của triệu triệu quần chúng tự giác, tích cực tham gia thì không có khó khăn nào không vượt qua, không có kẻ thù nào không đánh thắng, không có nhiệm vụ cách mạng nào không hoàn thành. 
Vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin về thi đua vào phong trào cách mạng nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng quan niệm về thi đua lên một tầm tư tưởng, coi thi đua là một phẩm chất đạo đức, thể hiện lòng yêu nước của người Việt Nam. Người nói: Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua và những người thi đua là những người yêu nước nhất. Ngày 11-6-1948, giữa lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra gay go, ác liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi Thi đua Ái quốc. Người chỉ rõ: Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, gái, trai; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ đấu tranh trên một mặt trận: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa. Người khẳng định: Với tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta, với lòng yêu nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chúng ta có thể thắng lợi, chúng ta nhất định thắng lợi. Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sức lôi cuốn, động viên, hiệu triệu toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, vượt qua mọi hy sinh gian khổ, lập nên những chiến công hiển hách và thành tích to lớn trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Thi đua đã thực sự trở thành một động lực cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. 
Trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động nhiều phong trào thi đua yêu nước mang lại hiệu quả thiết thực. Trên tiền tuyến, các chiến sĩ thi đua chiến đấu lập công; ở hậu phương, nhân dân thi đua tăng gia sản xuất giỏi để vừa diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm. Các phong trào "Ba sẵn sàng", "Ba đảm đang", "Năm xung phong", "Sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần", "Mỗi người làm việc bằng hai, vì miền Nam ruột thịt", v.v... đã thực sự trở thành động lực mạnh mẽ và hành động cách mạng thiết thực, góp phần đưa các cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống xâm lược đến thắng lợi hoàn toàn, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 và Đại thắng Mùa Xuân năm 1975. 
Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các phong trào thi đua hướng vào việc giải quyết những nhiệm vụ khó khăn nhất của cả nước và của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Đó là, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; bảo đảm an sinh xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững chủ quyền quốc gia, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Trong những năm gần đây, chủ đề "Đoàn kết, sáng tạo, thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" đã được các ngành, các cấp hưởng ứng tích cực, bằng nhiều phong trào thi đua cụ thể, liên tục, thiết thực, có tác động lan tỏa rộng khắp trên tất cả các lĩnh vực, góp phần huy động được nhiều nguồn lực xã hội cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiêu biểu là các phong trào "Lao động giỏi, lao động sáng tạo"; "Thi đua quyết thắng", "Vì an ninh Tổ quốc"; "Dạy tốt, học tốt"; "Dân vận khéo"; đặc biệt là 3 phong trào thi đua trọng tâm: "Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới", "Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển", "Cả nước chung tay vì người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau",... 
Từ trong phong trào thi đua đã xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến, tiêu biểu trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, với nhiều đề tài, sáng kiến, giải pháp hữu ích, làm lợi cho Nhà nước và xã hội hàng nghìn tỉ đồng; nhiều mô hình, giải pháp được nhân rộng, tác động lan tỏa trong cả nước, đến mọi tầng lớp nhân dân. Chúng ta thực sự xúc động và tự hào về những việc làm, hành động cao đẹp của các anh hùng, chiến sĩ thi đua, điển hình tiên tiến đã được nêu trong Báo cáo của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương cùng những thước phim và các câu chuyện cụ thể, sinh động về những điển hình vừa được giao lưu, tôn vinh hôm nay. Những việc làm cao đẹp của các anh hùng, chiến sĩ thi đua, gương điển hình tiên tiến đã nhắc nhở mọi người, nhất là các cán bộ, công chức, viên chức phải đề cao trách nhiệm, tận tuỵ trong công việc, nâng cao hiệu quả công tác, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa rời dân, vi phạm quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Tôi tin chắc rằng, đồng hành cùng với 700 điển hình tiên tiến về dự cuộc gặp mặt hôm nay, còn có rất nhiều tấm gương thầm lặng khác đang cống hiến trên nhiều lĩnh vực, ở khắp mọi miền của Tổ quốc, trong các tầng lớp dân cư, kể cả đồng bào ta đang sinh sống, lao động, học tập ở nước ngoài không có điều kiện về dự buổi Lễ hôm nay. 
Thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tôi nhiệt liệt chúc mừng, trân trọng, đánh giá cao và biểu dương các anh hùng, chiến sĩ thi đua, các điển hình tiên tiến trong toàn quốc. Tôi cũng hoan nghênh, cảm ơn Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương, các bộ, ban, ngành, địa phương và nhân dân cả nước đã tích cực, chủ động, sáng tạo, có nhiều đóng góp thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước, tạo nên những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị và bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trong những năm qua. 
Bên cạnh những kết quả to lớn đã đạt được, chúng ta cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng, phong trào thi đua và công tác khen thưởng vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm. Phong trào thi đua tuy phát triển sâu rộng nhưng chưa toàn diện; nhiều nơi còn mang tính hình thức, chưa gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ chính trị. Việc suy tôn, phong tặng danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng còn có biểu hiện nể nang, dễ dãi, còn để xảy ra tình trạng "chạy thành tích", "chạy khen thưởng", "chạy huân chương"; khen thưởng đối với người lao động trực tiếp sản xuất, nông dân, công nhân tuy đã được quan tâm nhưng còn ít. Việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến hiệu quả chưa cao; công tác tuyên truyền thiếu đồng bộ, sinh động, thuyết phục, làm hạn chế động lực phấn đấu của tập thể, cá nhân. Những hạn chế, khuyết điểm đó cần được nghiêm túc rút kinh nghiệm và kịp thời khắc phục. 
Hội đồng Thi đua - Khen thưởng từ trung ương đến cơ sở, người đứng đầu các cấp ủy, chính quyền, cơ quan, tổ chức và những cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng cần đào sâu suy nghĩ, đề cao trách nhiệm, tiếp tục đổi mới trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu và tổ chức thực hiện để công tác thi đua, khen thưởng thực sự là một phương thức lãnh đạo của Đảng, một phương thức quản lý của chính quyền và là động lực để xây dựng con người mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
Thưa các đồng chí, 
Đất nước ta đang đứng trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới với những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức mới đan xen. Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước đang chuyển sang giai đoạn mới, cao hơn, ngày càng đi vào chiều sâu, đầy triển vọng nhưng cũng có không ít khó khăn, phức tạp hơn so với trước. Để phát huy những kết quả, thành tựu đã đạt được, đẩy mạnh và làm tốt hơn nữa phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong thời gian tới, tôi đề nghị toàn thể đồng chí, đồng bào, chiến sĩ cả nước tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, đưa công tác thi đua gắn với công việc hằng ngày của mỗi người như lời Bác Hồ dạy. Cụ thể, chúng ta cần tập trung làm tốt một số công việc chủ yếu sau: 
Một là, tiếp tục tuyên truyền, quán triệt và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng. Các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải trực tiếp chỉ đạo, tổ chức phong trào thi đua, bảo đảm thiết thực, hướng công tác thi đua vào thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, các khâu đột phá, tập trung giải quyết những nhiệm vụ khó, những vấn đề bức xúc, nổi cộm, trọng tâm là phát triển kinh tế nhanh, bền vững; xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị khóa XII về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh". Tiếp tục nhân rộng các phong trào thi đua cải cách hành chính, tăng cường kỷ luật, kỷ cương; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, nhân ái, nhân văn, phát triển toàn diện,... Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị, phải phát huy tốt vai trò tiên phong gương mẫu, thực sự là hạt nhân, là ngọn cờ dẫn đầu trong các phong trào thi đua.
Hai là, xây dựng kế hoạch và có biện pháp cụ thể để tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về chất trong công tác thi đua, khen thưởng. Phong trào thi đua phải thực sự thiết thực, đem lại lợi ích thiết thân, cụ thể cho đất nước, xã hội, con người; khơi dậy tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm, tính tích cực chính trị - xã hội của nhân dân, của các cấp, các ngành, các thành phần kinh tế, tạo động lực tinh thần, vật chất mới cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người người thi đua, ngành ngành thi đua, phấn đấu vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vì hạnh phúc của nhân dân phải trở thành ý chí, quyết tâm, tình cảm và hành động của tất cả mọi người. 
Ba là, trong tổ chức triển khai các phong trào thi đua, cần tăng cường việc kiểm tra, đánh giá, sơ kết, tổng kết và đổi mới mạnh mẽ việc biểu dương, khen thưởng. Bác Hồ nói: "Thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu hoạch". Biểu dương, khen thưởng phải kịp thời, công tâm, khách quan, công bằng, minh bạch, đúng người, đúng việc, lấy hiệu quả kinh tế, kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo; chú trọng khen thưởng công nhân, nông dân, người lao động trực tiếp sản xuất, công tác. 
Bốn là, tăng cường công tác phát hiện, bồi dưỡng, tuyên truyền về những tấm gương tập thể, cá nhân tiêu biểu, nhất là các nhân tố mới, để cổ vũ, nêu gương, nhân rộng trong toàn xã hội, tạo động lực phát triển và lan tỏa sâu rộng trong từng đơn vị, cơ sở. Tấm gương các điển hình tiên tiến phải có sức thuyết phục, cảm hóa mạnh mẽ như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền". Các cấp, các ngành, cơ quan thông tin, báo chí cần quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức tốt việc học tập, nhân rộng điển hình tiên tiến. Qua đó, phát triển, cổ vũ mạnh mẽ các phong trào thi đua. 
Năm là, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với công tác thi đua, khen thưởng. Tập trung rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về thi đua, khen thưởng, bảo đảm đồng bộ, thống nhất. Trước mắt, tập trung sửa đổi Luật Thi đua, khen thưởng cho phù hợp với tình hình thực tế và tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước. Đồng thời, cần tiếp tục củng cố tổ chức, bộ máy và cán bộ theo hướng gọn nhẹ, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, thống nhất từ trung ương đến địa phương. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực thực tiễn, tinh thông nghiệp vụ, biết vận động quần chúng và tổ chức phong trào thi đua, kịp thời tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước những chủ trương, chính sách về thi đua, khen thưởng phù hợp với thời kỳ mới, góp phần bồi đắp và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị, hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới. 
Thưa các đồng chí, 
Kỷ niệm 70 năm Ngày Bác Hồ ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc là dịp để chúng ta bày tỏ lòng thành kính và biết ơn vô hạn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là người khởi xướng, phát động các phong trào thi đua mà chính Người là tấm gương mẫu mực, là nguồn cổ vũ lớn lao cho các phong trào thi đua. Lời kêu gọi thi đua ái quốc nói riêng và tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung về thi đua yêu nước đến nay vẫn còn nguyên ý nghĩa lịch sử, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, có sức sống mạnh mẽ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta. 
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm về thi đua yêu nước đã được kết tinh trong suốt 70 năm qua, chúng ta tin tưởng rằng, với sự vào cuộc tích cực, quyết liệt của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và sự hưởng ứng rộng rãi của nhân dân, phong trào thi đua và công tác khen thưởng trong thời gian tới sẽ thực sự có những chuyển biến và đổi mới mạnh mẽ, thiết thực. 
Xin chúc phong trào thi đua của cả nước tiếp tục phát triển và đạt nhiều kết quả to lớn hơn nữa! 
Chúc các đồng chí và các vị đại biểu mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công!
http://xaydungdang.org.vn/Home/Lyluan-Thuctien-Kinhnghiem/2018/11641/Loi-keu-goi-thi-dua-ai-quoc-cua-Chu-tich-Ho-Chi.aspx

GIÁ TRỊ NHÂN VĂN TRONG LỜI KÊU GỌI THI ĐUA ÁI QUỐC 
CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Nói một cách cô đọng nhất về giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh và giá trị sự nghiệp của Người là giá trị nhân văn. Đó là giá trị tổng hợp các yếu tố chân - thiện - mỹ, thuộc bản chất người, được thể hiện qua tư tưởng, hành động của Người, từ đó lan rộng ra toàn xã hội về sự phấn đấu cho độc lập, tự do, hạnh phúc của mỗi người dân Việt Nam, của dân tộc Việt Nam và của toàn thể nhân loại. “Lời Kêu gọi thi đua ái quốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với toàn thể nhân dân Việt Nam cũng chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc đó.
Như ta đã biết, ngay sau thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong bối cảnh giặc đói, giặc dốt hoành hành khắp nơi, giặc ngoại xâm lăm le, âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ, trước tình thế cách mạng “ngàn cân treo sợi tóc”, ngày 11-6-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra “Lời kêu gọi thi đua ái quốc”, động viên đồng bào, chiến sỹ phát huy truyền thống yêu nước thực hiện những nhiệm vụ cấp bách chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, góp của, góp công vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Bác khẳng định: “Thi đua ái quốc sẽ ăn sâu, lan rộng khắp mọi mặt và mọi tầng lớp nhân dân, và sẽ giúp ta dẹp tan mọi nỗi khó khăn và mọi âm mưu của kẻ địch để đi đến thắng lợi cuối cùng”(1).
Vì mục tiêu dân sinh, dân trí, dân quyền
Bảy mươi năm qua, “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân Việt Nam, biến thành sức mạnh trong các phong trào thi đua nối tiếp nhau ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cách mạng, không chỉ trực tiếp giải quyết những nhiệm vụ cần kíp trước mắt, cũng như góp phần to lớn làm nên thắng lợi vĩ đại của hai cuộc kháng chiến, kiến quốc thần thánh vừa qua, mà còn chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc cần nhận diện để toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục các phong trào thi đua yêu nước trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh hiện nay.
Giá trị nhân văn của “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” thể hiệu sâu sắc trước hết ở mục đích dân sinh, dân trí, dân quyền, tiến tới xây dựng xã hội nhân văn của phong trào. Trong những năm đầu đầy cam go của công cuộc kháng chiến, phong trào thi đua được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rõ là “đồng thời phải: Diệt giặc đói khổ, Diệt giặc dốt nát, Diệt giặc ngoại xâm”, để: 
“Toàn dân đủ ăn, đủ mặc
Toàn dân biết đọc, biết viết,
Toàn bộ đội đầy đủ lương thực, khí giới để diệt ngoại xâm
Toàn quốc sẽ thống nhất độc lập hoàn toàn”(2).
Thi đua yêu nước nhằm thực hiện mục tiêu chính trị để giải quyết những nhiệm vụ cần kíp trước mắt đang được đặt ra làm cơ sở, tiền đề cho việc phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ toàn cục, nhiệm vụ chiến lược lâu dài của cách mạng dân tộc, dân chủ là giành độc lập cho dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đối với dân tộc ta, những ngày đầu xây dựng chính quyền mới trong hoàn cảnh đói, dốt mà thù trong, giặc ngoài, chúng ta đã nhân nhượng, càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, buộc phải cầm súng kháng chiến thì việc thi đua nhằm tạo ra xung lực mới lúc này để vừa vượt qua khó khăn hiện thời, vừa góp phần giải quyết toàn diện những vấn đề của kháng chiến trường kỳ, không chỉ có ý nghĩa trực tiếp thúc đẩy cuộc kháng chiến mau đến thắng lợi, mà còn chứa đựng những giá trị nhân văn là tạo ngay ra lượng vật chất, tinh thần để “cấp cứu” tình trạng suy kiệt về thể chất của một dân tộc trước sự áp bức, bóc lột đến xương cùng, tủy tận của lũ thực dân đế quốc, phong kiến suốt 90 năm qua. Từ hiệu triệu của “Lời kêu gọi…” cả nước đã dấy lên phong trào người thi đua, ngành ngành thi đua, cả nước thi đua mang lại kết quả to lớn là nhân dân ta đã có ăn, nạn đói được đẩy lùi, nhân dân ta có mặc, bộ đội có thêm lương thực, khí giới bước vào cuộc kháng chiến một cách vững vàng hơn. Kết quả to lớn của phong trào thi đua mang lại một niềm tin mới vào ý chí và sức mạnh vượt khó của nhân dân dù đó có là tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Vượt qua được những thử thách ban đầu là trải nghiệm, là tiền đề và cả bài học tạo niềm tin cho nhân dân vào những lần vượt hiểm, vượt khó tiếp theo mà ta biết không thể nào tránh khỏi trong hành trình của cách mạng. Phong trào thi đua yêu nước thực hiện được mục tiêu xác định, góp phần nâng cao tính nhạy cảm chính trị, ý thức chính trị và trách nhiệm chính trị của nhân dân về việc kịp thời giải quyết nhiệm vụ chính trị mà thực tế đặt ra của từng thời kỳ cách mạng. 
Phát huy tính toàn dân
Giá trị nhân văn thứ hai của “Lời kêu gọi…” là tính nhân dân của phong trào thi đua. Đối tượng/lực lượng tham gia phong trào thi đua ái quốc là toàn dân, không phân biệt: “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ đều cần trở nên một chiến sỹ đấu tranh… ai cũng thi đua, ai cũng tham gia kháng chiến và kiến quốc”(3). Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu một cách cụ thể: “Các cụ phụ lão thi đua đốc thúc con cháu hăng hái tham gia mọi công việc; các cháu nhi đồng thi đua học hành và giúp việc người lớn; đồng bào phú hào thi đua mở mang doanh nghiệp; đồng bào công nông thi đua sản xuất; đồng bào trí thức và chuyên môn thi đua sáng tác và phát minh; nhân viên Chính phủ thi đua tận tụy làm việc, phụng sự nhân dân; bộ đội và dân quân thi đua giết cho nhiều giặc…”(4).
Ngay từ năm 1946, khi trả lời các nhà báo nước ngoài về các điều kiện thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình”(5). Đó là quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, đem sức ta mà giải phóng cho ta, nên toàn dân phải thi đua kháng chiến và kiến quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tính nhân dân của phong trào thi đua yêu nước được thể hiện ở việc tổ chức cho các tầng lớp nhân dân được thực hiện quyền và nghĩa vụ đóng góp vào công việc chung của đất nước, tùy theo sức lực của mình. Để đạt được mục đích thi đua, trong “Lời kêu gọi...”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ “Cách làm là dựa vào:
Lực lượng của dân,
Tinh thần của dân, để gây:
Hạnh phúc cho dân”(6)
Việc xác định chủ thể của phong trào thi đua ái quốc là nhân dân, toàn dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc này là nhất quán quan điểm về lực lượng cách mạng được xác định từ trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng khi thành lập là quần chúng công nông. Quan điểm này mang tính cách mạng trong nhận thức về xác định lực lượng của công cuộc giải phóng dân tộc khỏi ách nô dịch của đế quốc thực dân và phong kiến tay sai, xây dựng chế độ mới xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tính nhân văn sâu sắc của quan điểm này là ở chỗ, quần chúng công nông từ địa vị nô lệ - đối tượng bị áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến được Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng thành chủ lực quân, chủ nhân ông của sự nghiệp cách mạng dân tộc, dân chủ. Và phong trào thi đua là phong trào của tất cả các tầng lớp nhân dân, sẽ trực tiếp mang lại quyền lợi cho chính quần chúng công nông và hết thảy các tầng lớp nhân dân. Thi đua “Làm cho mau, Làm cho tốt, Làm cho nhiều”(7) lúc này để khắc phục tình trạng đói, tình trạng dốt, tình trạng thiếu thốn vật chất, phương tiện, vũ khí của bộ đội để thúc đẩy cuộc kháng chiến, kiến quốc mau tới thành công là nhiệm vụ của chính nhân dân. Cuộc kháng chiến này, phong trào thi đua ái quốc này, không có người Việt Nam yêu nước nào đứng ngoài cuộc mà đều tham gia với tư cách làm chủ. Suy cho cùng, đây là phong trào thi đua của nhân dân, thi đua do nhân dân và thi đua vì nhân dân.
Tính nhân văn trong việc xác định lực lượng/thành phần tham gia phong trào thi đua của “Lời kêu gọi…” giúp cho mỗi người, mọi người dân Việt Nam yêu nước không chỉ nhận rõ trách nhiệm và quyền lợi của mình, mà còn làm bật dậy lòng tự hào, tự tôn địa vị của mỗi giai tầng trong sự nghiệp cách mạng chung này. Giá trị nhân văn đó đã tạo nên sức hấp dẫn kỳ diệu thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước phát triển rộng khắp toàn quốc, thu hút đồng bào và chiến sĩ mọi miền hăng say lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm chống giặc đói, thi đua học tập xóa nạn mù chữ, chống giặc dốt, dũng cảm, kiên cường trong chiến đấu diệt giặc ngoại xâm.
Thi đua trên mọi mặt trận
Giá trị nhân văn thứ ba của “Lời kêu gọi…” thể hiện ở tính toàn diện của phong trào thi đua. Nhiệm vụ cách mạng lúc này cũng như bất cứ thời kỳ lịch sử nào của cách mạng cũng phải được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực, chỉ có như vậy thì mục tiêu chung là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người mới có thể hoàn thành. Chủ tịch Hồ Chủ tịch kêu gọi, “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: Quân sự, Kinh tế, Chính trị, Văn hóa”(8), “Đồng bào công thương thi đua mở mang doanh nghiệp; Đồng bào công nông thi đua sản xuất; Đồng bào trí thức và chuyên môn thi đua sáng tác và phát minh; Nhân viên Chính phủ thi đua tận tụy làm việc phụng sự nhân dân; Bộ đội và dân quân thi đua giết cho nhiều giặc, đoạt cho nhiều súng”(9). Tính nhân văn là ở chỗ, không chỉ chiến trường mới là mặt trận, không chỉ trực tiếp cầm súng chiến đấu mới là chiến sĩ, không chỉ bộ đội mới đánh giặc mà mọi người, dù hoạt động ở mặt trận nào (kinh tế, chính trị, văn hóa…) lúc này nếu thi đua mang lại kết quả cao đều là những người yêu nước, đều trực tiếp góp phần xứng đáng của mình vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Đồng bào công, nông sản xuất giỏi cũng là đánh giặc giỏi, đồng bào công thương kinh doanh giỏi cũng là đánh Tây tài, đồng bào trí thức sáng tạo giỏi cũng là đánh giặc hay…Ngành nào, lĩnh vực nào cũng là thành phần quan trọng, không thể thiếu của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc toàn diện.
Phong trào thi đua diễn ra sôi nổi ở tất cả các lĩnh vực, làm cho từng lĩnh vực đều phát triển, đóng góp nhiều hơn cho kháng chiến, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân đều nâng lên hơn trước. Điều này thể hiện sâu sắc ý nghĩa tính chất toàn diện của cuộc kháng chiến đã được Đảng xác định. Vì thế, mọi công dân, mọi ngành đều hăng hái đem hết khả năng mà thi đua ái quốc. Đó là nguồn lực tổng hợp tham gia vào công cuộc kháng chiến kiến quốc.
Rèn luyện phẩm chất, đạo đức của mỗi con người
Giá trị nhân văn thứ tư của “Lời kêu gọi…” là tính văn hóa của phong trào thi đua - thi đua yêu nước. Mặc dù không trực tiếp nhắc đến văn hóa thi đua nhưng qua gần 500 từ, “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” toát lên tính văn hóa của một phong trào thi đua yêu nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định không chỉ ở mục đích thi đua, cách tổ chức, quan hệ, thái độ trong thi đua yêu nước mà chính từ trong phong trào thi đua ấy mà rèn luyện phẩm chất, đạo đức của mỗi người, mỗi đơn vị tham gia. Quan điểm xuyên suốt của Bác là thi đua mang lại cả ích nước lẫn lợi nhà nên thân ái, đoàn kết giúp đỡ cùng thi đua để đạt được thành tích cao, giúp đỡ những người và những nhóm còn kém theo kịp mức cao hiện nay. Thi đua là cùng làm cho nhanh, cho nhiều sản phẩm, phấn đấu cho sự nghiệp chung, vì mục tiêu chung của cách mạng mau thành công nên phải đoàn kết cùng làm. Theo Chủ tịch Hồ chí Minh, thi đua là đoàn kết, thi đua để tăng cường đoàn kết, có đoàn kết mới đẩy mạnh thi đua. Đoàn kết ấy là đoàn kết thật sự và rất chặt chẽ. Chiến sĩ thi đua là những người mới, những người luôn cố gắng thực hành cần, kiệm, liêm, chính, là những người tôi trung của nhân dân, con hiếu của Tổ quốc. Thi đua có văn hóa hay là tính văn hóa trong thi đua là những giá trị nhân văn thể hiện ở cả hai phương diện, đó là giá trị về sản phẩm tạo ra và là tinh thần cố kết cộng đồng ngày càng gắn bó hơn. Từ phong trào thi đua mà mỗi người dù ở ngành nào, giới nào, lĩnh vực có khác nhau đi nữa thì đều là bộ phận hữu cơ không thể tách rời, cùng hướng về đích chung lúc này là diệt được “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”, tiến tới độc lập cho Tổ quốc, hạnh phúc cho mọi người. Giá trị nhân văn của “Lời kêu gọi…” còn thể hiện ở niềm tin vững chắc vào tinh thần ái quốc mà thi đua của con người Việt Nam đang nung nấu khát vọng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người trong công cuộc cách mạng vô sản mà Bác Hồ đã chọn. Cuộc thi đua lúc này là điều kiện để phát triển toàn diện và phát huy hết mọi năng lực sáng tạo vốn có của nhân dân. “Tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình”(10), đó cũng là bản chất của xã hội mới mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng ở Việt Nam. Tính nhân văn đó thể hiện tầm văn hóa không chỉ ở những phong trào thi đua yêu nước mà còn là của một sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc ta dưới ngọn cờ của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Những giá trị nhân văn của “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện tình yêu thương, quý trọng, quan tâm và niềm tin vững chắc vào sức mạnh của nhân dân. Người khẳng định: “Với tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta, với lòng yêu nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng ta có thể thắng lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi trong thi đua ái quốc”(11).
Giá trị nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã giúp Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng những ý nghĩa của phong trào thi đua ái quốc lên tầm cao mang tính nhân văn cách mạng. Tính nhân văn ở đây không chỉ bị giới hạn trong khuôn khổ giải quyết vấn đề cần kíp trước mắt mà giúp mỗi người dân Việt Nam đương thời đang đói ăn, khát uống, thiếu học hành, mất tự do, độc lập trong cái xã hội thuộc địa tăm tối ấy hiểu được bổn phận, trách nhiệm lâu dài, nặng nề của mình trước sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người cao cả. Đó là giá trị nhân văn cách mạng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh: đem sức dân mà giải phóng cho dân, xây dựng một xã hội của dân, do dân và vì dân.
Thực tiễn lịch sử đã minh chứng, tính nhân văn từ “Lời kêu gọi...” đã nuôi dưỡng các phong trào thi đua ái quốc trên phạm vi cả nước trải dài hai cuộc trường kỳ kháng chiến, kiến quốc. Các phong trào: “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”, “Bình dân học vụ”, “Hũ gạo kháng chiến”…trong thời kỳ chống chủ nghĩa thực dân kiểu cũ xâm lược đã cuốn hút, cổ vũ, động viên đông đảo đồng bào và chiến sĩ khắp mọi miền hăng say lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm để “Chín năm làm một Điện Biên” oai hùng. Các phong trào: “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt” ở miền Bắc, phong trào thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công ở miền Nam; “Sóng Duyên Hải” trong sản xuất công nghiệp; “Gió Đại Phong” trong sản xuất nông nghiệp; “Cờ Ba nhất” trong quân đội; “Trống Bắc Lý” trong giáo dục; “Thanh niên Ba sẵn sàng”; “Phụ nữ Ba đảm đang”…; những khẩu hiệu hành động như: nhà nhà thi đua, người người thi đua, ngành ngành thi đua, ta nhất định thắng, địch nhất định thua, tất cả vì miền Nam ruột thịt, tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng giặc Mỹ xâm lược…ở thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam mang tính nhân văn cao cả nên đã động viên, cổ vũ, huy động toàn bộ sức người, sức của từ tiền tuyến tới hậu phương, dệt thành sức mạnh tổng hợp làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975 - sức mạnh văn hóa Việt Nam. 
Tư tưởng nhân văn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả cuộc đời cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và giá trị nhân văn trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” (ngày 11-6-1948) là một biểu hiện sinh động, cụ thể vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay và mãi mãi mai sau./.
-----------------------------------------------
(1), (2), (4), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5, tr. 914
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 913 - 914
(5), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr. 600
(6), (7), (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 913
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 915
PGS, TS Đoàn Thế Hanh: Giảng viên cao cấp, Viện Văn hóa và phát triển Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Binh-luan/2018/50854/Gia-tri-nhan-van-trong-Loi-keu-goi-thi-dua-ai-quoc.aspx


TỪ C. MÁC ĐẾN HỒ CHÍ MINH:
 ĐOÀN KẾT - MỘT DÒNG CHẢY CỦA VĂN HÓA NHÂN LOẠI
C. Mác, Hồ Chí Minh là những vĩ nhân, những nhà sáng lập ra một giá trị văn hóa đặc sắc không chỉ góp phần làm biến đổi diện mạo của cả một dân tộc, mà có ảnh hưởng đến cả một thời đại. Khái niệm văn hóa có nội hàm rất rộng. Ở đây chúng tôi chỉ giới hạn để nói về một khía cạnh của văn hóa là đoàn kết, một dòng chủ lưu trong tư tưởng của hai vĩ nhân này.
Lâu nay người ta đã có sự hiểu lầm cho rằng, học thuyết của C. Mác chỉ là học thuyết nói nhiều đến mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp, coi đấu tranh giai cấp là động lực duy nhất của sự biến đổi lịch sử. Sinh thời, năm 1947, trong cuốn Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán sự hiểu biết không thấu đáo về học thuyết đấu tranh giai cấp của C. Mác, nên mắc vào bệnh giáo điều, bắt chước như sau: “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”(1).
C. Mác và Chủ tịch Hồ Chí Minh đều nêu cao khẩu hiệu đoàn kết, coi đoàn kết là bản chất của con người và là động lực chủ yếu trong sự phát triển của xã hội loài người. Chính nhờ biết kết đoàn mà con người mới có đủ trí khôn và sức mạnh để sáng tạo ra lịch sử của chính mình. Một xã hội văn minh được xây lên bởi kết đoàn, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển của tất cả mọi người, đó cũng chính là lý tưởng cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đảng viên cộng sản chân chính ở nước ta tin theo.
Đoàn kết là một phạm trù cốt lõi của khoa học về con người. C. Mác đã từng nói “bản thân khoa học về con người là một sản phẩm của việc con người biểu hiện bản thân mình một cách thực tiễn”(2). Do vậy, nhìn nhận vấn đề đoàn kết trong đảng cộng sản và thái độ kết đoàn của đảng viên đối với nhau trong tổ chức đảng, đoàn kết với nhân dân, dân tộc trong một quốc gia và quan hệ quốc tế chính là nhìn nhận việc đảng cộng sản “biểu hiện bản thân mình” ra trong cuộc sống hằng ngày, trong các hoạt động thực tiễn. Đảng là ai? Đảng là sự hợp thành của những đảng viên, của những tổ chức đảng. Thông qua những đảng viên cụ thể, những chi bộ, đảng bộ cụ thể, người ta thấy được bức tranh chung về diện mạo của sự biểu hiện bản thân Đảng trong quan hệ với cộng đồng.
Người đảng viên cộng sản nói riêng và người dân nói chung, tất cả mọi người đều hành động vì hai lẽ: Thứ nhất, xét về mặt cá nhân, hành động là để mưu sinh, để tồn tại và nâng cao không ngừng đời sống vật chất và tinh thần của chính bản thân mình. Thứ hai, xét về mặt xã hội, hành động là sự “phản kháng của con người chống lại cuộc sống mất nhân tính”(3) để kiến tạo một xã hội dân chủ, tự do, con người biết yêu thương nhau, tôn trọng nhau. Cả hai lẽ đó đều mang tính người, tính cộng đồng, đều tất yếu phải có sự chung sức, chung lòng. Ngay cả cuộc sống mưu sinh của mỗi người cũng không thể tách khỏi đồng loại, tức là không thể tách khỏi nhu cầu và ước vọng chung của cộng đồng. Như vậy, con người luôn luôn thể hiện những giá trị đích thực của mình trước hoàn cảnh trong đời sống thực tiễn. Chính sự gắn bó với cộng đồng và sự thể hiện được những giá trị chung của cộng đồng sẽ tạo cho con người sức mạnh và nhân giá trị của mình lên nhiều lần.
Đảng cộng sản với tư cách là đội ngũ của những người tiên tiến nhất và ưu tú nhất của nhân dân lao động, của dân tộc thì càng phải thể hiện rõ tính “vượt trội”, tính tiên phong, điển hình của sự đoàn kết. Chỉ có như vậy, tổ chức đảng mới trở thành một khối thống nhất, mới dành được sự tin yêu và tín nhiệm của tất cả mọi người. Muốn vậy, tổ chức đảng phải là hiện hữu của một tổ chức gắn bó với nhau một cách trung thực, chung thủy, có tình nghĩa. Tình là những giá trị nhân văn, đạo đức, được tạo ra trong quan hệ kinh tế - xã hội, trong hoạt động thực tiễn. Nghĩa là lý tưởng phấn đấu cho một mục đích trong sáng vì lợi ích chung của cộng đồng.
Có tình, có nghĩa, con người mới biết yêu thương nhau và tín nhiệm nhau. C. Mác đã chỉ rõ:“Nếu anh giả định con người với tính cách là con người và quan hệ của con người với thế giới với tính cách là quan hệ có tính người, thì anh chỉ có thể đổi tình yêu lấy tình yêu, tín nhiệm lấy tín nhiệm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng, những ai tự giác đứng vào hàng ngũ cách mạng, mang danh là chiến sĩ tiên phong vì lý tưởng cao đẹp là phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc thì trước hết và trên hết phải luôn biết sống với đồng chí và đồng bào, đồng loại sao cho có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách, nói bao nhiêu điều tốt đẹp mà sống với đồng chí, đồng bào không có tình, có nghĩa thì cũng chỉ là kẻ ba hoa, sáo mép và giả dối.
Đảng viên, cán bộ, cấp trên và cấp dưới chỉ có thể đoàn kết thống nhất khi thực lòng tin yêu vào lý tưởng, (điều đó gọi là tình đồng chí), và chỉ có thể đoàn kết với nhân dân và chiếm được sự tin yêu của nhân dân khi toàn tâm, toàn ý phụng sự, trung thành với lợi ích của nhân dân, đất nước mình. Đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở lợi ích chung và cần được đắp bồi từ người có chức quyền cao nhất đến mọi đảng viên và người dân. Mọi người đều phải sống sao cho có tình, có nghĩa, cùng nhau phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu nước mạnh” như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn.
Tình yêu và lòng tin không thể đến từ một phía. Đảng viên và tổ chức đảng phải thông qua những hoạt động thực tiễn, động cơ, mục đích và thái độ sống của chính mình mà chiếm được trái tim và khối óc của quần chúng, nghĩa là mỗi một người cộng sản phải tạo ra được một ảnh hưởng tốt đối với những người xung quanh. Chính C. Mác đã chỉ rõ: “Nếu anh muốn ảnh hưởng tới những người khác thì anh phải là một người có một tác dụng thực sự thúc đẩy và kích thích những người khác. Mỗi quan hệ của anh đối với con người và đối với giới tự nhiên phải là một biểu hiện của đời sống cá nhân hiện thực của anh”(5). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra rất sớm rằng, quyền uy của Đảng không thể chỉ dựa vào chức quyền làm cứu cánh để áp đặt. Đảng không thể đòi, không thể cưỡng bức nhân dân và tổ chức của nhân dân “thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất”(6).
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào nửa đầu thế kỷ XX, đứng ở trung tâm của vũ đài chính trị, dưới sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trải qua những biến thiên của lịch sử, vượt biết bao thác ghềnh, gian nguy, hiểm trở, có lúc vấp váp và sai lầm nhưng qua những cuộc đấu tranh giải phóng, giành và giữ chính quyền, Đảng đã “trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc”(7).
Hiện nay, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế, bên cạnh những mặt tích cực, đã nảy sinh không ít mặt tiêu cực. Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định quyết tâm khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn, ngăn chặn tình trạng coi đồng tiền là sức mạnh vạn năng, thành “viên đạn bọc đường” “bắn đổ” không ít chiến sĩ đã từng dũng cảm đi tiên phong trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc. Chủ nghĩa cá nhân đặt lợi ích của cá nhân cao hơn tất cả, đã làm cho bản chất con người bị tha hóa và tất nhiên nó sẽ làm cho tổ chức chính trị, xã hội bị chia rẽ, quan hệ cộng đồng mang tính người suy giảm hoặc mất đi và hệ quả là dẫn tới sự suy vong của chế độ. Do đó, đồng tiền ở khía cạnh này, theo C. Mác chính là năng lực đã bị tha hóa của nhân loại, bởi vì “tiền biến trung thành phản, yêu thành ghét, ghét thành yêu, đức hạnh thành thói xấu, thói xấu thành đức hạnh, tớ thành chủ, chủ thành tớ, ngu thành khôn, khôn thành ngu...”(8). Sự sùng bái đồng tiền tạo ra phe phái, cánh hẩu, lợi ích nhóm…, nó phá vỡ sự đoàn kết, thống nhất của tổ chức chính trị, của Nhà nước và xã hội. Sùng bái tiền bạc ắt sẽ dẫn đến sự si mê quyền lực. Nếu mắc vào, điều đó sẽ làm tha hóa quyền lực chính trị của Đảng vốn lấy thanh liêm, đạo đức và trí tuệ làm sức mạnh, lấy phục vụ hạnh phúc, tự do của nhân dân làm mục đích lý tưởng; sẽ biến chủ nghĩa tập thể thành chủ nghĩa cá nhân, biến chủ nghĩa nhân đạo đích thực thành chủ nghĩa vị kỷ, vô nhân tính. Nó phá vỡ cơ sở của sự đoàn kết nhất trí, do đó, tổ chức không còn sức mạnh, sẽ như “đũa mỗi chiếc một nơi”. Trong xã hội loài người, bất cứ ở đâu, ở thời điểm nào, nếu còn có sự sùng bái đồng tiền thì ắt dẫn tới sự lạm dụng, lợi dụng quyền lực, tạo ra một sức ép nặng nề đối với mọi mặt của đời sống xã hội, gây ra sự bất mãn phổ biến trong xã hội, làm cho con người trở nên thấp hèn, nhỏ nhen, ti tiện. Sự khác biệt của chế độ xã hội mới, của Nhà nước do đảng cộng sản cầm quyền so với các kiểu nhà nước cũ đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát ở một điểm cốt lõi nhất: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(9). Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đoàn kết chính là sức mạnh tạo nên thành công:“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,/ Thành công, thành công, đại thành công”. Chính sự khác biệt ấy đã cho thấy tầm cỡ nhân loại của nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh trong quan hệ máu thịt với nhân dân Việt Nam để làm nên chiến thắng ở thế kỷ XX.
Đoàn kết là bản chất mang tính Người, là biểu hiện bản chất của một đảng cách mạng chân chính. Nếu ở C. Mác là:“Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!”, thì ở Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Lao động tất cả các nước, đoàn kết lại!”.
Rõ ràng từ C. Mác đến Hồ Chí Minh, đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế là sợi chỉ đỏ xuyên suốt một dòng chảy văn hóa của nhân loại.
Để kỷ niệm và nhớ ơn các vĩ nhân một cách thiết thực nhất trong tình hình hiện nay, toàn Đảng, từ Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đến từng đảng viên cần ghi nhớ và thật tâm làm theo Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trước hết nói về Đảng - Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.
Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Trước hết, cần khắc phục cho có hiệu quả rõ rệt những biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống, cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình trong nội bộ Đảng và trong hệ thống các cơ quan quyền lực của Nhà nước./.
---------------------------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 272
(2), (3), (4), (5), (8), (9) Mac - Ăng-ghen: Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, t. 1, tr. 130, tr. 44, tr. 136, tr. 136, tr. 135, tr. 249
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 139
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 7, tr. 517
PGS, TS. Trần Đình Huỳnh
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2018/51110/Tu-C-Mac-den-Ho-Chi-Minh-Doan-ket-Mot-dong.aspx

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...