TỪ C. MÁC ĐẾN HỒ CHÍ MINH:
ĐOÀN KẾT - MỘT DÒNG CHẢY CỦA VĂN HÓA NHÂN LOẠI
C. Mác, Hồ Chí Minh là những vĩ nhân,
những nhà sáng lập ra một giá trị văn hóa đặc sắc không chỉ góp phần làm biến
đổi diện mạo của cả một dân tộc, mà có ảnh hưởng đến cả một thời đại. Khái niệm
văn hóa có nội hàm rất rộng. Ở đây chúng tôi chỉ giới hạn để nói về một khía
cạnh của văn hóa là đoàn kết, một dòng chủ lưu trong tư tưởng của hai vĩ nhân
này.
Lâu nay người ta đã có sự hiểu lầm cho rằng, học
thuyết của C. Mác chỉ là học thuyết nói nhiều đến mâu thuẫn và đấu tranh giai
cấp, coi đấu tranh giai cấp là động lực duy nhất của sự biến đổi lịch sử. Sinh
thời, năm 1947, trong cuốn Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã phê phán sự hiểu biết không thấu đáo về học thuyết đấu tranh giai cấp
của C. Mác, nên mắc vào bệnh giáo điều, bắt chước như sau: “Nghe người ta nói
giai cấp đấu tranh mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn
cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”(1).
C. Mác và Chủ tịch Hồ Chí Minh đều nêu cao khẩu
hiệu đoàn kết, coi đoàn kết là bản chất của con người và là động lực chủ yếu
trong sự phát triển của xã hội loài người. Chính nhờ biết kết đoàn mà con người
mới có đủ trí khôn và sức mạnh để sáng tạo ra lịch sử của chính mình. Một xã
hội văn minh được xây lên bởi kết đoàn, trong đó sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển của tất cả mọi người, đó cũng chính là lý
tưởng cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đảng viên cộng sản chân chính
ở nước ta tin theo.
Đoàn kết là một phạm trù cốt lõi của khoa học về
con người. C. Mác đã từng nói “bản thân khoa học về con người là một sản phẩm
của việc con người biểu hiện bản thân mình một cách thực tiễn”(2). Do vậy, nhìn
nhận vấn đề đoàn kết trong đảng cộng sản và thái độ kết đoàn của đảng viên đối
với nhau trong tổ chức đảng, đoàn kết với nhân dân, dân tộc trong một quốc gia
và quan hệ quốc tế chính là nhìn nhận việc đảng cộng sản “biểu hiện bản
thân mình” ra trong cuộc sống hằng ngày, trong các hoạt động thực
tiễn. Đảng là ai? Đảng là sự hợp thành của những đảng viên, của những tổ chức
đảng. Thông qua những đảng viên cụ thể, những chi bộ, đảng bộ cụ thể, người ta
thấy được bức tranh chung về diện mạo của sự biểu hiện bản thân Đảng trong quan
hệ với cộng đồng.
Người đảng viên cộng sản nói riêng và người dân
nói chung, tất cả mọi người đều hành động vì hai lẽ: Thứ nhất, xét
về mặt cá nhân, hành động là để mưu sinh, để tồn tại và nâng cao không ngừng
đời sống vật chất và tinh thần của chính bản thân mình. Thứ hai,
xét về mặt xã hội, hành động là sự “phản kháng của con người chống lại cuộc
sống mất nhân tính”(3) để kiến tạo một xã hội dân chủ, tự do, con người biết
yêu thương nhau, tôn trọng nhau. Cả hai lẽ đó đều mang tính người, tính cộng
đồng, đều tất yếu phải có sự chung sức, chung lòng. Ngay cả cuộc sống mưu sinh
của mỗi người cũng không thể tách khỏi đồng loại, tức là không thể tách khỏi
nhu cầu và ước vọng chung của cộng đồng. Như vậy, con người luôn luôn thể hiện
những giá trị đích thực của mình trước hoàn cảnh trong đời sống thực tiễn.
Chính sự gắn bó với cộng đồng và sự thể hiện được những giá trị chung của cộng
đồng sẽ tạo cho con người sức mạnh và nhân giá trị của mình lên nhiều lần.
Đảng cộng sản với tư cách là đội ngũ của những
người tiên tiến nhất và ưu tú nhất của nhân dân lao động, của dân tộc thì càng
phải thể hiện rõ tính “vượt trội”, tính tiên phong, điển hình của sự đoàn kết.
Chỉ có như vậy, tổ chức đảng mới trở thành một khối thống nhất, mới dành được
sự tin yêu và tín nhiệm của tất cả mọi người. Muốn vậy, tổ chức đảng phải là
hiện hữu của một tổ chức gắn bó với nhau một cách trung thực, chung thủy, có
tình nghĩa. Tình là những giá trị nhân văn, đạo đức, được tạo
ra trong quan hệ kinh tế - xã hội, trong hoạt động thực tiễn. Nghĩa là
lý tưởng phấn đấu cho một mục đích trong sáng vì lợi ích chung của cộng đồng.
Có tình, có nghĩa, con người mới biết yêu thương
nhau và tín nhiệm nhau. C. Mác đã chỉ rõ:“Nếu anh giả định con người
với tính cách là con người và quan hệ của con người với thế giới với
tính cách là quan hệ có tính người, thì anh chỉ có thể đổi tình yêu lấy tình
yêu, tín nhiệm lấy tín nhiệm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng, những ai tự
giác đứng vào hàng ngũ cách mạng, mang danh là chiến sĩ tiên phong vì lý tưởng
cao đẹp là phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc thì trước hết và trên hết phải
luôn biết sống với đồng chí và đồng bào, đồng loại sao cho có tình,
có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách, nói bao nhiêu điều tốt đẹp mà
sống với đồng chí, đồng bào không có tình, có nghĩa thì cũng chỉ là kẻ ba hoa,
sáo mép và giả dối.
Đảng viên, cán bộ, cấp trên và cấp dưới chỉ có
thể đoàn kết thống nhất khi thực lòng tin yêu vào lý tưởng, (điều đó gọi
là tình đồng chí), và chỉ có thể đoàn kết với nhân dân và chiếm
được sự tin yêu của nhân dân khi toàn tâm, toàn ý phụng sự, trung thành với lợi
ích của nhân dân, đất nước mình. Đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở lợi ích
chung và cần được đắp bồi từ người có chức quyền cao nhất đến mọi đảng viên và
người dân. Mọi người đều phải sống sao cho có tình, có nghĩa, cùng nhau phấn
đấu cho mục tiêu “dân giàu nước mạnh” như Chủ tịch Hồ Chí Minh
từng căn dặn.
Tình yêu và lòng tin không thể đến từ một phía.
Đảng viên và tổ chức đảng phải thông qua những hoạt động thực tiễn, động cơ,
mục đích và thái độ sống của chính mình mà chiếm được trái tim và khối óc của
quần chúng, nghĩa là mỗi một người cộng sản phải tạo ra được một ảnh hưởng tốt
đối với những người xung quanh. Chính C. Mác đã chỉ rõ: “Nếu anh muốn ảnh hưởng
tới những người khác thì anh phải là một người có một tác dụng thực sự thúc đẩy
và kích thích những người khác. Mỗi quan hệ của anh đối với con người và đối
với giới tự nhiên phải là một biểu hiện của đời sống cá
nhân hiện thực của anh”(5). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra rất
sớm rằng, quyền uy của Đảng không thể chỉ dựa vào chức quyền làm cứu cánh để áp
đặt. Đảng không thể đòi, không thể cưỡng bức nhân dân và tổ chức của nhân dân
“thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành
nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất”(6).
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào nửa đầu thế kỷ
XX, đứng ở trung tâm của vũ đài chính trị, dưới sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, trải qua những biến thiên của lịch sử, vượt biết bao thác ghềnh, gian
nguy, hiểm trở, có lúc vấp váp và sai lầm nhưng qua những cuộc đấu tranh giải
phóng, giành và giữ chính quyền, Đảng đã “trở thành hình thức tổ chức cao nhất
của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân
tộc”(7).
Hiện nay, trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế, bên
cạnh những mặt tích cực, đã nảy sinh không ít mặt tiêu cực. Đảng Cộng sản Việt
Nam đã khẳng định quyết tâm khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo
lý, coi thường các giá trị nhân văn, ngăn chặn tình trạng coi đồng tiền là sức
mạnh vạn năng, thành “viên đạn bọc đường” “bắn đổ” không ít chiến sĩ đã từng
dũng cảm đi tiên phong trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc. Chủ
nghĩa cá nhân đặt lợi ích của cá nhân cao hơn tất cả, đã làm cho bản chất con
người bị tha hóa và tất nhiên nó sẽ làm cho tổ chức chính trị, xã hội bị chia
rẽ, quan hệ cộng đồng mang tính người suy giảm hoặc mất đi và
hệ quả là dẫn tới sự suy vong của chế độ. Do đó, đồng tiền ở khía cạnh này,
theo C. Mác chính là năng lực đã bị tha hóa của nhân loại, bởi vì “tiền biến
trung thành phản, yêu thành ghét, ghét thành yêu, đức hạnh thành thói xấu, thói
xấu thành đức hạnh, tớ thành chủ, chủ thành tớ, ngu thành khôn, khôn thành
ngu...”(8). Sự sùng bái đồng tiền tạo ra phe phái, cánh hẩu, lợi ích nhóm…, nó
phá vỡ sự đoàn kết, thống nhất của tổ chức chính trị, của Nhà nước và xã hội.
Sùng bái tiền bạc ắt sẽ dẫn đến sự si mê quyền lực. Nếu mắc vào, điều đó sẽ làm
tha hóa quyền lực chính trị của Đảng vốn lấy thanh liêm, đạo đức và trí tuệ làm
sức mạnh, lấy phục vụ hạnh phúc, tự do của nhân dân làm mục đích lý tưởng; sẽ
biến chủ nghĩa tập thể thành chủ nghĩa cá nhân, biến chủ nghĩa nhân đạo đích
thực thành chủ nghĩa vị kỷ, vô nhân tính. Nó phá vỡ cơ sở của sự đoàn kết nhất
trí, do đó, tổ chức không còn sức mạnh, sẽ như “đũa mỗi chiếc một nơi”. Trong
xã hội loài người, bất cứ ở đâu, ở thời điểm nào, nếu còn có sự sùng bái đồng
tiền thì ắt dẫn tới sự lạm dụng, lợi dụng quyền lực, tạo ra một sức ép nặng nề
đối với mọi mặt của đời sống xã hội, gây ra sự bất mãn phổ biến trong xã hội,
làm cho con người trở nên thấp hèn, nhỏ nhen, ti tiện. Sự khác biệt của chế độ
xã hội mới, của Nhà nước do đảng cộng sản cầm quyền so với các kiểu nhà nước cũ
đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát ở một điểm cốt lõi nhất: “Đảng không
phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng
dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(9). Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn nhấn mạnh đoàn kết chính là sức mạnh tạo nên thành công:“Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết,/ Thành công, thành công, đại thành công”.
Chính sự khác biệt ấy đã cho thấy tầm cỡ nhân loại của nhà văn hóa kiệt xuất Hồ
Chí Minh trong quan hệ máu thịt với nhân dân Việt Nam để làm nên chiến thắng ở
thế kỷ XX.
Đoàn kết là bản chất mang tính Người, là biểu
hiện bản chất của một đảng cách mạng chân chính. Nếu ở C. Mác là:“Vô sản tất
cả các nước, đoàn kết lại!”, thì ở Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Lao
động tất cả các nước, đoàn kết lại!”.
Rõ ràng từ C. Mác đến Hồ Chí Minh, đoàn kết
trong Đảng, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế là sợi chỉ đỏ xuyên suốt một
dòng chảy văn hóa của nhân loại.
Để kỷ niệm và nhớ ơn các vĩ nhân một cách thiết
thực nhất trong tình hình hiện nay, toàn Đảng, từ Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư đến từng đảng viên cần ghi nhớ và thật tâm làm theo Di
chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trước hết nói về Đảng -
Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục
vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và
lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác.
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của
Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn
sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường
xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất
để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng
chí thương yêu lẫn nhau.
Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và
cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Trước hết, cần khắc phục cho có hiệu quả rõ rệt
những biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống, cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ,
thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích
tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình trong
nội bộ Đảng và trong hệ thống các cơ quan quyền lực của Nhà nước./.
---------------------------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 272
(2), (3), (4), (5), (8), (9) Mac -
Ăng-ghen: Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, t. 1, tr. 130, tr.
44, tr. 136, tr. 136, tr. 135, tr. 249
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.
3, tr. 139
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 7, tr. 517
PGS, TS. Trần Đình Huỳnh
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2018/51110/Tu-C-Mac-den-Ho-Chi-Minh-Doan-ket-Mot-dong.aspx
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét