Thứ Năm, 10 tháng 8, 2023

Đấu tranh đẩy lùi thái độ bàng quan, dao động về tư tưởng xã hội chủ nghĩa

 Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.

Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, một bộ phận cán bộ, đảng viên tỏ ra thờ ơ, dao động về tư tưởng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Đây là biểu hiện suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị cần đấu tranh phê phán, loại bỏ.

Tư tưởng tiến bộ, nhân văn nhưng vẫn bị thờ ơ, nghi hoặc

Tư tưởng XHCN là một hệ thống những quan niệm phản ánh nhu cầu, ước mơ, nguyện vọng của các giai cấp lao động về một xã hội không có áp bức bóc lột, mọi người đều bình đẳng và có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; là những thành tựu của con người đạt được trong quá trình đấu tranh giải phóng giai cấp; là chế độ xã hội không có áp bức bóc lột, mọi người đều được tự do, bình đẳng, có điều kiện phát triển toàn diện.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn con đường XHCN và xây dựng đất nước theo định hướng XHCN để “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” như Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định.

Tuy nhiên, sau sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu, không ít người, trong đó có cả những cán bộ, đảng viên tỏ ra hoài nghi về sự lựa chọn con đường đi lên CNXH của Đảng ta; thậm chí còn xuất hiện những tư tưởng cơ hội đòi xét lại Chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ nhận sự lựa chọn con đường cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Có thể khẳng định rằng, thái độ thờ ơ, dao động của một số cán bộ, đảng viên về tư tưởng XHCN là “căn bệnh” rất nguy hại, biểu hiện đa dạng như: Dửng dưng, làm ngơ, không quan tâm đến những sự kiện, sự việc diễn ra của đất nước, địa phương, cơ quan, đơn vị cũng như trước khó khăn của đất nước, trong khi đó lại có những lời lẽ chê bai, phê phán sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và chính quyền các cấp.

Biểu hiện rõ nhất của việc thờ ơ, dao động về tư tưởng XHCN là những phát ngôn mơ hồ về CNXH. Giọng điệu của họ là ngợi ca chủ nghĩa tư bản như hình mẫu của sự phát triển hiện đại và xem cuộc khủng hoảng của CNXH thời gian qua là "bằng chứng khách quan" của một thử nghiệm thất bại. Một số thái độ dao động đáng lên án hơn là lên tiếng phê phán Đảng, Bác Hồ đã không lựa chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa để Việt Nam sớm “hóa rồng”, “hóa hổ” như một số nước Đông Bắc Á. Họ cố tình lãng quên rằng, trong suốt thời kỳ dài từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, các chí sĩ yêu nước Việt Nam đã từng thử nghiệm những con đường giải phóng dân tộc, phát triển đất nước khác nhau, trong đó có con đường tư bản chủ nghĩa, nhưng tất cả đều không thành công. Trước tình hình đó, đất nước và nhân dân đòi hỏi một con đường khác, con đường dẫn nhân dân Việt Nam đến độc lập, tự do, hạnh phúc thật sự mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khai mở từ mùa xuân năm 1930.

Một biểu hiện khác của thái độ thờ ơ, dao động đối với tư tưởng XHCN là phủ nhận giá trị bền vững của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới của đất nước và thế giới. Có người lập luận rằng, học thuyết do C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin sáng lập là kết quả của việc tổng kết lịch sử châu Âu thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 nên không còn sức sống trong thời đại mới. Học thuyết đó chỉ là sản phẩm của thời đại công nghiệp, không còn phù hợp trong thời đại toàn cầu hóa, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo... Thực chất đây là sự phủ nhận toàn bộ giá trị của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh-một biểu hiện suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng đã chỉ ra.

“Quy luật tiến hóa của lịch sử” đang hiện diện sinh động ở Việt Nam

Điều kiện bảo đảm cách mạng thành công, xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta là trước hết phải có Đảng. Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng và xây dựng CNXH ở nước ta; Đảng phải lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng. Do đó, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến công tác xây dựng Đảng; yêu cầu Đảng phải nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng, trí tuệ, vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng CNXH vào hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam.

Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đến nay, đã có nhiều hội thảo bàn luận khá sôi nổi về khả năng và triển vọng của CNXH; trong đó, đáng tiếc là có một số ý kiến của cán bộ, đảng viên có biểu hiện hoài nghi về tương lai của chế độ XHCN. Vào những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, trước sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu, với bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”.

Về sự lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam, Văn kiện Đại hội VII của Đảng (năm 1991) chỉ rõ: Đây là “sự lựa chọn của chính lịch sử”; gắn liền với tư duy sáng tạo, hợp logic và nhất quán của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh. Đến Đại hội XI của Đảng, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Việc xác định những đặc trưng cơ bản trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH” đã phản ánh tổng quát, toàn diện quan niệm về CNXH của Đảng ta, là sự kiên định, hiện thực hóa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về CNXH trong điều kiện mới của đất nước.

Phê phán, đẩy lùi thái độ thờ ơ, dao động về tư tưởng XHCN

Nhìn từ góc độ bản chất, niềm tin CNXH chính là niềm tin khoa học, phát triển trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng, gắn bó chặt chẽ với hoạt động của những người cộng sản. Trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, những người cộng sản luôn phấn đấu vì hạnh phúc của toàn thể nhân loại, nhân dân lao động, vì lợi ích của giai cấp và dân tộc. Do đó, xét đến cùng, niềm tin CNXH mang bản chất giai cấp công nhân sâu sắc, là sự thống nhất và biện chứng của tri thức-niềm tin-tình cảm-ý chí-hành động. Đặc trưng cơ bản nhất của niềm tin CNXH là sự nhận thức đúng đắn các quy luật phổ biến và quy luật đặc thù trong sự phát triển của tự nhiên và xã hội. Có niềm tin về CNXH, cán bộ, đảng viên luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

Hiện nay, vẫn còn tình trạng một số cán bộ, đảng viên thờ ơ, dao động với nhiều vấn đề của xã hội, trong đó có thờ ơ, dao động với tư tưởng CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đây chính là kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Bởi các thế lực thù địch luôn ráo riết đẩy mạnh hoạt động chống phá những nước CNXH, trong đó có Việt Nam. Chúng tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng, lý luận, với mục tiêu phủ nhận bản chất khoa học, cách mạng nền tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và thành tựu sự nghiệp xây dựng CNXH của Việt Nam. Tính chất thâm độc của các thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta trong những năm gần đây là triệt để lợi dụng công nghệ thông tin, mạng xã hội với các chiêu trò “đổi trắng thay đen”, đưa các thông tin đúng-sai lẫn lộn và xây dựng các “ngọn cờ” chống phá từ bên trong, kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nếu cán bộ, đảng viên thờ ơ, dao động sẽ dễ sa vào những luận điệu sai trái, phản động của các thế lực thù địch.

Trước tình hình trên, việc làm rõ con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là cơ sở phản bác thuyết phục, đanh thép các luận điệu sai trái, thù địch; củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới theo định hướng CNXH nhằm thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Hiện nay, đa số cán bộ, đảng viên là những người có tri thức, được học tập, công tác, lao động trong điều kiện thuận lợi, do đó, cần hết sức tỉnh táo trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc về CNXH và con đường đi lên CNXH dưới những hình thức khác nhau, trên những diễn đàn khác nhau, nhất là internet và mạng xã hội. Khi thấy những thông tin trên mạng xã hội, cần tỉnh táo nhận diện nguồn tin, tránh bình luận, chia sẻ tùy tiện. Điều này vô tình tuyên truyền cho các luận điệu sai trái, thù địch. Bên cạnh đó, cán bộ, đảng viên cũng cần biết lợi dụng thế mạnh của internet, mạng xã hội để tuyên truyền, lan tỏa những thông tin tốt về tính ưu việt của CNXH, sự đúng đắn của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam theo phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”. Đối với cán bộ, đảng viên có trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị cao, cần nêu cao tinh thần đấu tranh trực diện với những quan điểm sai trái, thù địch thông qua việc viết bài trên các sách, báo, tạp chí hay tham gia những diễn đàn báo chí, phát thanh, truyền hình, mạng xã hội... Những sản phẩm đấu tranh trực diện đó thường có tính lan tỏa mạnh mẽ đối với cán bộ, đảng viên, tác động trực tiếp đến tâm lý, tư tưởng và định hướng dư luận trong cán bộ, đảng viên và quần chúng.

Thái độ thờ ơ, dao động của một bộ phận cán bộ, đảng viên về tư tưởng XHCN là đáng phê phán và cần có những biện pháp để chấn chỉnh kịp thời, nếu không xử lý dứt điểm dễ dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Việc loại bỏ thái độ thờ ơ, dao động của một số cán bộ, đảng viên về tư tưởng CNXH là góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN trong tình hình hiện nay.

Nguồn: Báo QĐND

Đội lốt phản biện xã hội để phá bĩnh

 Phản biện xã hội là một biện pháp để mở rộng dân chủ, tranh thủ trí tuệ xã hội, từ đó hoàn thiện chính sách, tạo ra sự đồng thuận cao trong xã hội. Thế nhưng hiện nay đang có một số cá nhân, tổ chức đội lốt phản biện xã hội để phá bĩnh, càn quấy. Do đó cần phân biệt rõ thế nào là phản biện xã hội mang tính xây dựng và thế nào là đội lốt phản biện xã hội để phá bĩnh, từ đó ngăn chặn hiện tượng nguy hiểm này.

Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng ý kiến đóng góp

Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay luôn luôn coi trọng ý kiến đóng góp phê bình, kiến nghị với Đảng và Nhà nước về các vấn đề quốc kế dân sinh của mọi tầng lớp nhân dân, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ: “Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân”; “Phát huy vai trò và tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội”... Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng khẳng định: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò tự quản của nhân dân”...

Phản biện xã hội là một hình thức, một biện pháp cụ thể thể hiện quyền của nhân dân và ý thức trách nhiệm của nhân dân đối với công việc chung của đất nước; thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân; thể hiện lòng tin của Đảng, Nhà nước đối với trình độ chính trị, mức độ hiểu biết của nhân dân về lãnh đạo và quản lý. Đây cũng là minh chứng cho thấy Nhà nước ta thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Trong đời sống chính trị-xã hội của một đất nước luôn tồn tại nhu cầu cá nhân đưa ra những quan điểm, chính kiến của mình, cũng như cơ quan nhà nước lựa chọn, tranh thủ ý kiến, nhận xét của các tổ chức, cá nhân, xã hội để đưa ra những quyết sách đúng đắn, kịp thời, hợp lý nhất trong quá trình nhận diện và giải quyết các vấn đề cuộc sống đặt ra. Phản biện xã hội về thực chất là người dân, các tổ chức chính trị-xã hội, xã hội-nghề nghiệp góp sức với Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng các chủ trương, chính sách, chuẩn bị các quyết định về chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. 

Đó được hiểu là sự nhận xét, đánh giá, nêu chính kiến khẳng định những nội dung đúng đắn của chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương trình, dự án, đề án, đồng thời phát hiện những điểm chưa chính xác, chưa phù hợp với đời sống xã hội và lợi ích chính đáng của nhân dân để kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung cho chính xác, phù hợp. Trong phản biện xã hội, bên phản biện không chỉ phản bác mà còn tán đồng, đề xuất những ý kiến sửa đổi, bổ sung có luận cứ chứng minh kèm theo nhằm làm cho dự án, kế hoạch đưa ra được đầy đủ, hoàn thiện hơn, góp phần tạo ra và bảo đảm sự đồng thuận xã hội, sự đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đội lốt phản biện xã hội để phá bĩnh
Ảnh minh họa: TTXVN 

 

Phân biệt rõ giữa xây dựng và phá hoại

Phản biện xã hội khác với phá bĩnh xã hội. Phản biện xã hội để tìm ra và góp ý tìm cách sửa chữa cái sai, góp phần hoàn thiện, nâng cao chất lượng chính sách, quyết định, giải pháp cho vấn đề cần giải quyết, vì lợi ích chung, sự tiến bộ. Ngược lại, phá bĩnh xã hội về bản chất là hành vi và lời nói mang tính phá hoại vì lợi ích riêng, lợi ích nhóm, song giả danh phản biện, giả danh cái tốt, cái tiến bộ để cố ý gây rối, phá phách trực tiếp cốt làm hỏng công việc hoặc mất trật tự xã hội chung, vùi dập con người, phủ nhận chính sách, phủ nhận sự phát triển của tập thể và đất nước... 

Phá bĩnh xã hội là công cụ sở trường của nhiều trang mạng, các cá nhân, tổ chức thù địch, phản động, cơ hội chính trị, luôn tìm mọi cách tán phát những thông tin xuyên tạc, bịa đặt, vu khống và chụp mũ, đả kích, nói xấu mang tính chống đối, lật đổ, xuyên tạc sự thật nhằm gây nghi ngờ, chia rẽ đoàn kết, phá hoại lòng tin, sự đồng thuận xã hội trong nước, trong Đảng và bôi nhọ, hạ uy tín của Đảng, Nhà nước hoặc của doanh nghiệp Việt Nam cả trong nước và trên trường quốc tế.

Đặc điểm chung nổi bật của việc phá bĩnh xã hội là nhân danh phản biện xã hội để bình luận tùy tiện, suy diễn, xỏ xiên, quy kết với quan điểm cá nhân, tựu trung lại là nói xấu Đảng, phản đối chế độ và chính sách hiện hành, phủ nhận thành tựu và sự phát triển của đất nước; thậm chí, nhiều kẻ còn cài cắm ngụ ý, qua đó khoe khoang và khéo thể hiện mình là người thông minh, cấp tiến, vì dân, vì nước...

Tiêu biểu cho các lực lượng chuyên hoạt động theo cách thức này là những tổ chức, cá nhân ở nước ngoài như: “Liên minh dân tộc Việt Nam” do Nguyễn Hữu Chánh cầm đầu; “Đảng Vì dân” do Nguyễn Công Bằng và Trịnh Thị Ngọc Anh cầm đầu, v.v...

Chống phá Đảng, Nhà nước, phá hoại đất nước

Một sự việc thể hiện rõ sự xuyên tạc trắng trợn, chua ngoa và lộ liễu là ngày 10-6-2023, trang tin "Chân trời mới Media" và trang RFA đăng bài viết với tiêu đề: “Nhóm lợi ích” lớn nhất và nguy hiểm nhất... Trong đó, tác giả đã quy kết ý kiến của một đại biểu Quốc hội đề nghị Chính phủ dùng 130.000 tỷ đồng cắt lỗ cho EVN là ý kiến đã được sự đồng thuận chung của cả Quốc hội là biểu hiện của lợi ích nhóm và bản chất thể chế hiện hành. Tác giả bài viết đã cố tình đánh lừa người đọc, bởi thông lệ chung trong nghị trường của tất cả các nước trên thế giới là luôn có sự đa dạng ý kiến, thậm chí ý kiến ngược chiều nhau. Có vậy mới cần hình thức bỏ phiếu để thông qua quyết sách quốc gia, quyết định theo đa số phiếu...

Trên thực tế, ngay tại Quốc hội, ý kiến trên đã không được tiếp thu vì thiếu căn cứ pháp lý. Vậy mà tác giả bài viết đã cố tình "đánh lận con đen", quy kết xỏ xiên, đầy kích động rằng: “Bất kể các “nhóm lợi ích” hành xử trắng trợn đến thế nào thì tất cả vẫn vô can, bởi ngoài lợi ích riêng tư, các “nhóm lợi ích” này đều tận tình bảo vệ quyền lực-“lợi ích” nền tảng của “nhóm lợi ích” lớn nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam”. Ở đây, sự suy luận vô lý đã bị đẩy lên cao trào, bộc lộ rõ mục đích của tác giả bài viết là nhân danh phản biện để chống phá Đảng, chế độ và Nhà nước Việt Nam.

Đáng chú ý là các thế lực thù địch không chỉ đội lốt phản biện xã hội để chống phá Đảng, Nhà nước mà còn muốn dìm các doanh nghiệp Việt Nam. Ví dụ, ngày 18-2-2023, Công ty TNHH Sản xuất và Kinh doanh VinFast thông báo triệu hồi để kiểm tra, khắc phục miễn phí lô 2.781 xe VinFast được sản xuất tại Nhà máy VinFast ở Hải Phòng trong khoảng thời gian từ tháng 9-2022 đến tháng 2-2023, thuộc hai phiên bản xe VF8, do phát hiện có lỗi lắp ráp linh kiện có thể làm giảm tác dụng của phanh phía trước.

Vậy mà chỉ hai ngày sau, trên trang Facebook tổ chức Việt Tân đã tán phát bài viết với tựa đề: “Nguy hiểm quá”, trong đó đưa ra ý kiến bình luận kiểu phá bĩnh rằng: “Nếu bị lỗi phanh trong khi xe đang chạy trên đường, có thể dẫn đến tai nạn chết người. Nguy hiểm quá!” và nhận định tùy tiện: “VinFast không xong rồi!...”. Trên thế giới, việc thu hồi sản phẩm để sửa chữa là bình thường trong ngành sản xuất ô tô, kể cả ở Nhật Bản, Mỹ và các nước châu Âu. Chỉ là một dịch vụ hậu mãi đơn thuần gắn với một lỗi kỹ thuật được công ty chủ động phát hiện và sửa chữa vì quyền lợi của khách hàng mà bị bóp méo thành dấu hiệu của sự phá sản. Liệu Việt Tân có dám đăng những bình luận kiểu đó với các hãng xe nước ngoài khác hay không? Hay họ sợ bị kiện ra tòa và dễ mất tiền to vì đặt điều vu khống, "dìm hàng” doanh nghiệp?

Ở trong nước, một số tổ chức tự xưng, trái pháp luật như: “Hội Nhà báo độc lập”; “Văn đoàn độc lập Việt Nam”... cũng ưa chuộng cách thức mượn danh phản biện xã hội để tuyên truyền cho các mục tiêu chính trị sai trái của mình.

Gần đây, lợi dụng chủ trương góp ý dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), đã xuất hiện một số trang web, blogger tham gia “góp ý” theo kiểu cố ý bẻ cong sự thật, làm cho người dân hiểu sai từ “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu” thành “đất đai là độc quyền sở hữu của Nhà nước”, coi đó là cội nguồn của đầu cơ, tham nhũng đất đai. Thậm chí, họ còn xuyên tạc rằng việc sửa luật như “đẽo cày giữa đường”, “càng sửa càng mù mờ”, càng dễ thao túng, rằng Luật Đất đai chỉ giúp làm “sân chơi” cho giới chủ bất động sản đứng sau quan chức, từ đó cố tình kích động hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Bên cạnh đó, ngay trong các tổ chức đảng và cơ quan nhà nước cũng có một số người ngộ nhận, tự cho mình là người “phản biện”, có tư tưởng “tiến bộ”, lấy danh nghĩa phản biện xã hội, thông qua các “thư ngỏ”, “kiến nghị” gửi các cấp, các ngành, gửi các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đăng tải trên mạng xã hội, blog, website cá nhân, trả lời phỏng vấn của các đài, báo nước ngoài... để nêu ý kiến cá nhân về những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành, địa phương. Trong đó, họ cố tình miệt thị, công kích, bóp méo sự thật và xuyên tạc chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, thổi phồng những tồn tại, hạn chế của đời sống xã hội, từ đó tuyệt đối hóa tự do, dân chủ, thậm chí quy chụp cực đoan rằng mọi hạn chế và tiêu cực trong đời sống kinh tế-xã hội nước ta đều có chung nguyên nhân là sự trì trệ về chính trị và “do độc Đảng”.

Tỉnh táo nhận diện những kẻ giả danh

Có thể thấy, việc nhận diện và ngăn chặn sự lợi dụng phản biện xã hội để phá bĩnh xã hội, chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội, phản động, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ... là cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng trong công tác xây dựng Đảng cũng như giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

Để làm việc đó, cần quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc và hiệu quả Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 26-10-2022 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về phát huy vai trò, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội.

Cần chủ động công khai, minh bạch thông tin và giải trình nhanh, đúng đắn, chính xác về những chủ trương, chính sách, bảo đảm thông tin chính thống giữ vai trò chủ đạo, làm căn cứ thẩm định và định hướng dư luận, phản bác kịp thời thông tin từ những kẻ phá bĩnh, càn quấy. Khi nhận thấy trường hợp đội lốt phản biện có dụng ý xấu, cần phải làm rõ động cơ, mục đích để có biện pháp xử lý phù hợp; có chế tài xử lý việc lợi dụng góp ý, phản biện nhằm gây rối xã hội.

Đồng thời cần tăng cường công tác quản lý nội bộ, đấu tranh và xử lý đối với biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị, những người bản lĩnh chính trị không vững vàng, phẩm chất, năng lực, uy tín giảm sút, thiếu gương mẫu, gây mất đoàn kết, cục bộ, bè phái, cơ hội...

Mỗi người dân cần tỉnh táo, thận trọng, trang bị cho mình “bộ lọc” và thông tin cần thiết giúp nhận diện âm mưu, thủ đoạn lợi dụng phản biện xã hội để gây nhiễu thông tin, chống phá đất nước của các thế lực thù địch, phản động. Đặc biệt, cần chú ý trước những thông tin không rõ nguồn, được viện dẫn rất vu vơ, mơ hồ, xuất phát từ các ý kiến của những người mượn danh phản biện, các “nhà dân chủ”, “nhà bất đồng chính kiến” vốn có thành kiến, có âm mưu, hành động chống phá Đảng, Nhà nước.

Nguồn: Báo QĐND

Đẩy mạnh đối ngoại quốc phòng theo hướng đi vào thực chất

 Ngày 28-7, Bộ Quốc phòng tổ chức Hội nghị sơ kết công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng 6 tháng đầu năm 2023 theo hình thức trực tuyến với 22 điểm cầu trong toàn quân. Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng dự và chỉ đạo hội nghị.

Đẩy mạnh đối ngoại quốc phòng theo hướng đi vào thực chất

Các đại biểu dự hội nghị.

 Báo cáo do lãnh đạo Cục Đối ngoại, Bộ Quốc phòng trình bày tại Hội nghị nêu rõ, trong 6 tháng đầu năm 2023, công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đã được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai theo đúng chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. 

Trên cơ sở đó, các cơ quan, đơn vị đã chủ động, tích cực triển khai các hoạt động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng với nhiều đổi mới, sáng tạo, đạt kết quả toàn diện trên cả bình diện song phương và đa phương. Đối ngoại quốc phòng tiếp tục trở thành một trong những trụ cột quan trọng của đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, góp phần bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ Đảng, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường tiềm lực quốc phòng của đất nước.

Đẩy mạnh đối ngoại quốc phòng theo hướng đi vào thực chất

Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến phát biểu chỉ đạo tại hội nghị.

 Trong đó, hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam với các nước được củng cố, thúc đẩy, đạt hiệu quả thực chất, chú trọng vào các lĩnh vực mà Việt Nam có nhu cầu và khả năng, như: Trao đổi đoàn các cấp; duy trì các cơ chế đối thoại, tham vấn; đào tạo; công nghiệp quốc phòng; hợp tác quân binh chủng; khắc phục hậu quả chiến tranh; quân y; gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc...

Hoạt động đối ngoại biên phòng tiếp tục là điểm sáng, góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị và tin cậy với các nước láng giềng, bảo vệ vững chắc vành đai an ninh của Tổ quốc. Hiện nay, Việt Nam đang tích cực phối hợp với các nước có biên giới liền kề để làm tốt công tác chuẩn bị tổ chức Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc lần thứ 8 và Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia cấp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng lần thứ nhất.

Đẩy mạnh đối ngoại quốc phòng theo hướng đi vào thực chất
Quang cảnh hội nghị tại điểm cầu Cục Đối ngoại, Bộ Quốc phòng.

Cùng với đó, đối ngoại quốc phòng đa phương tiếp tục được chú trọng. Tại các hội nghị, diễn đàn quân sự - quốc phòng đa phương ở khu vực và quốc tế, Việt Nam đã đưa ra những đóng góp có giá trị, góp phần thúc đẩy các sáng kiến nhằm duy trì hòa bình, ổn định tại khu vực, được các nước ghi nhận và đánh giá cao. Hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc được triển khai hiệu quả, nổi bật là tổ chức huấn luyện và Lễ xuất quân Đội Công binh số 2 và Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 5 đi làm nhiệm vụ tại các Phái bộ…

 Tại hội nghị, các đại biểu đã thảo luận, chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân, đồng thời đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng trong thời gian tới.

Đẩy mạnh đối ngoại quốc phòng theo hướng đi vào thực chất
Hội nghị diễn ra dưới sự chủ trì của Thiếu tướng Vũ Thành Văn, Cục trưởng Cục Đối ngoại, Bộ Quốc phòng.

Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến biểu dương, ghi nhận sự nỗ lực và những kết quả mà các cơ quan, đơn vị trong toàn quân đã đạt được trong 6 tháng đầu năm 2023, đặc biệt là nhận thức về tầm quan trọng của công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đã có sự chuyển biến rõ rệt.

 Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến yêu cầu các cơ quan, đơn vị trong nửa cuối năm 2023 cũng như thời gian kế tiếp tiếp tục triển khai các nội dung, hoạt động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng trên cơ sở bám sát chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước và các định hướng, lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; tập trung hoàn thành tốt kế hoạch trao đổi đoàn và công tác đối ngoại của năm 2023; nắm chắc diễn biến tình hình khu vực và thế giới, đổi mới và tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược cho Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng xử lý hài hòa các mối quan hệ và triển khai các hoạt động liên quan tới lĩnh vực hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng; tập trung thúc đẩy hợp tác với các nước trên nhiều lĩnh vực khác nhau, nhất là các lĩnh vực mới, theo hướng đi vào thực chất, đem lại hiệu quả thiết thực; đồng thời tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế, văn bản quy phạm pháp luật về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng.

Đẩy mạnh đối ngoại quốc phòng theo hướng đi vào thực chất

Hội nghị được tổ chức theo hình thức trực tuyến với 22 điểm cầu trong toàn quân. 

 Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến cũng đề nghị các cơ quan, đơn vị liên quan trong toàn quân quan tâm hơn nữa tới việc xây dựng, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng phục vụ cho công tác đối ngoại.

Nguồn: Báo QDND

Đối ngoại quốc phòng nhằm mục tiêu vì hòa bình, hợp tác và phát triển

 Giúp dư luận trong và ngoài nước hiểu rõ bản chất, mục đích của công tác đối ngoại quốc phòng, nhất là trong tình hình quốc tế phức tạp hiện nay, là cách để chúng ta phản bác lại các quan điểm sai lệch hoặc cố tình "bóp méo" đường lối, chủ trương đối ngoại của Đảng và Nhà nước cũng như chính sách quốc phòng của Việt Nam.

Trước hết, Việt Nam có quan điểm, chủ trương hết sức rõ ràng đối với chính sách đối ngoại nói chung và đối ngoại quốc phòng nói riêng. Trong đó, Đại hội XIII của Đảng đã xác định những nguyên tắc nền tảng của công tác đối ngoại thời kỳ đổi mới là: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.

Đối với các vấn đề quốc tế và trong triển khai các hoạt động đối ngoại quốc phòng, Việt Nam luôn nhất quán quan điểm và dựa vào các nguyên tắc này.

Nhân nói về chính sách quốc phòng, gần đây, một số tổ chức, cá nhân phản động, bất mãn đã lợi dụng các sự kiện nóng của quốc tế và phản ứng của Việt Nam, các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo Quân đội để xuyên tạc đường lối đối ngoại của Việt Nam. Chẳng hạn, họ nói một cách ẩn ý rằng, trong bối cảnh cuộc xung đột Nga-Ukraine đang diễn ra, Việt Nam đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với Nga thực chất là đi với nước này chống nước kia.

Đối ngoại quốc phòng nhằm mục tiêu vì hòa bình, hợp tác và phát triển
Đại tướng Phan Văn Giang tiếp Thượng tướng Sengnouane Xayalath, Chủ tịch Hiệp hội Cựu chiến binh Lào ngày 11-5-2023. Ảnh: PHƯƠNG LINH 

Về vấn đề này, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 đã chỉ rõ chính sách quốc phòng “4 không”, đó là: Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Gần đây nhất, phát biểu khi chủ trì phiên họp thứ nhất Ban chỉ đạo xây dựng Đề án tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế diễn ra ngày 2-8 vừa qua, Thủ tướng Phạm Minh Chính một lần nữa khẳng định Việt Nam tiếp tục thực hiện chính sách quốc phòng “4 không” nói trên.

Trước đó, chia sẻ khi đến thăm Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế Mỹ (CSIS) trước thềm Hội nghị cấp cao đặc biệt ASEAN-Hoa Kỳ tại Washington vào tháng 5-2022, Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng nêu rõ rằng: Trong một thế giới đầy biến động, cạnh tranh chiến lược và nhiều sự lựa chọn, Việt Nam không chọn bên mà chọn chính nghĩa, sự công bằng, công lý và lẽ phải trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc; bình đẳng, tất cả cùng có lợi, cùng thắng.

Qua đó để thấy, việc lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam đến thăm hoặc tham dự các diễn đàn, sự kiện tại Nga hay bất cứ quốc gia nào khác là nhằm tăng cường giao lưu, hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đồng thời đóng góp và kiến tạo hòa bình. Đây là điều hết sức bình thường, hoàn toàn phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ của công tác đối ngoại mà Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra, cũng như xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Sau một thời gian bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, các nội dung hợp tác dồn lại nhiều nên hoạt động thăm viếng, tiếp xúc, trao đổi và hợp tác thậm chí sẽ còn được đẩy mạnh và diễn ra sôi động hơn.

Xuyên tạc, cổ xúy cho tư tưởng Việt Nam “tham gia liên minh” hay quy chụp Việt Nam “đi với nước này chống nước kia” thực chất chỉ là quan điểm mang tính chống phá, cố tình hiểu sai bản chất vấn đề của một số cá nhân, tổ chức nhằm mục đích hạ thấp uy tín, chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước.

Thực tế cũng chứng minh đối ngoại quốc phòng đã góp phần to lớn vào thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc từ xa, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh và xung đột. Thông qua đẩy mạnh, mở rộng quan hệ về quân sự, quốc phòng, chúng ta có thêm điều kiện để giữ vững an ninh trên bộ, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và tăng cường tiềm lực quốc phòng để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước, cùng các quốc gia và đối tác quốc tế giải quyết các thách thức an ninh chung.

Một trong những ví dụ điển hình cho những lợi ích mà đối ngoại quốc phòng mang lại đó là bảo vệ an ninh, thúc đẩy hợp tác hữu nghị ở biên giới trên bộ giữa Việt Nam và các nước láng giềng. Kể từ khi lần đầu tiên được tổ chức tại tỉnh Quảng Ninh (Việt Nam) và tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) vào tháng 3-2014, đến nay, Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam-Trung Quốc đã trải qua 7 kỳ giao lưu với nội dung ngày càng thiết thực và có chiều sâu hơn. Song song với các cuộc gặp gỡ giữa lãnh đạo quân đội hai nước ở khu vực biên giới là các hoạt động tặng quà, xây trường học, xây nhà văn hóa, khám, chữa bệnh miễn phí cho người dân hai bên... Cùng với đó, sau mỗi lần giao lưu, công tác quản lý và bảo vệ biên giới, hợp tác cửa khẩu, kinh tế-thương mại biên giới, đấu tranh phòng, chống tội phạm, tuần tra chung... cũng được đẩy mạnh.

Đó không phải là những cuộc giao lưu mang tính phô trương, hình thức hay “làm màu” như một số đối tượng rêu rao, mà đã đem lại những hiệu quả to lớn, giúp khu vực biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc duy trì ổn định, an ninh trật tự được bảo đảm, hệ thống mốc quốc giới được giữ vững; đồng thời đẩy mạnh các hoạt động hợp tác giữa nhân dân khu vực giáp biên cũng như lực lượng bảo vệ biên giới hai nước. Chẳng thế mà sau thành công của các chương trình giao lưu biên giới với Trung Quốc, vài năm trở lại đây, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã phối hợp với các nước bạn nhân rộng mô hình này thông qua việc lần lượt tổ chức Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới với Lào và Campuchia. Ngay trong năm nay sẽ diễn ra Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam-Lào-Campuchia cấp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng lần thứ nhất và Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam-Trung Quốc lần thứ 8.

Rõ ràng, đối ngoại quốc phòng đã giúp biên giới không chỉ đơn thuần đóng vai trò xác định ranh giới lãnh thổ giữa Việt Nam và các nước mà trở thành không gian để hợp tác, thúc đẩy phát triển kinh tế, giao lưu nhân dân ở khu vực biên giới. Hơn thế nữa, ở từng thời điểm khác nhau, các hoạt động hợp tác, đối ngoại quốc phòng những năm qua đã góp phần quan trọng vào việc thu hẹp khác biệt, giải quyết bất đồng, “tăng nốt thăng, giảm nốt trầm” trong quan hệ ngoại giao với một số nước. Dĩ nhiên, việc phát triển các mối quan hệ quân sự, quốc phòng tới tầm mức nào còn phụ thuộc vào khả năng, nhu cầu của Việt Nam và từng quốc gia, tùy thuộc vào tình hình cụ thể.

Bất luận ai cố tình phán sai, nói lệch thế nào, các hoạt động đối ngoại quốc phòng mà Quân đội nhân dân Việt Nam đã và đang triển khai vẫn là tấm gương phản chiếu chính sách quốc phòng vì hòa bình, tự vệ, hợp tác và phát triển.

Nguồn: Báo QĐND

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...