Chủ Nhật, 10 tháng 1, 2021

Âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước

Để chống phá cách mạng nước ta, các thế lực thù địch từ lâu xem tôn giáo là một trong những mũi nhọn để công kích, chống phá. Những đối tượng phản động, cơ hội chính trị lợi dụng tôn giáo và quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo để kích động và tiến hành các hoạt động chống chính quyền, chống chế độ XHCN dưới chiêu bài “đấu tranh cho tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền”, tiến tới phủ nhận, xóa bỏ vai trò của Đảng, Nhà nước ta.

Các thế lực thù địch đi sâu tuyên truyền, gieo rắc tâm lý cho rằng: “CNXH không chấp nhận tôn giáo, xóa bỏ tôn giáo; công dân theo đạo không được xét, kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam”; cố gắng tạo ra khoảng cách cũng như dùng các thủ đoạn làm tăng sự đối kháng giữa tôn giáo với đời sống hiện thực để kích động tôn giáo chống lại Đảng, Nhà nước và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch không những phủ nhận những kết quả trong công tác tôn giáo mà còn ra sức lợi dụng tôn giáo, coi tôn giáo là vũ khí lợi hại để chống phá sự nghiệp cách mạng với nhiều chiêu thức thâm độc, tinh vi, xảo quyệt; khi thì bí mật, lúc thì trắng trợn, công khai. 

Thực tiễn cho thấy: Trong lịch sử xã hội loài người, tôn giáo có vị trí, vai trò lớn, có những đóng góp quan trọng vào giá trị văn hóa nhân loại và ở Việt Nam cũng vậy. Trong tiến trình đi lên CNXH, tôn giáo luôn được thừa nhận và bảo vệ theo đúng quan điểm của Đảng, Nhà nước ta. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến tôn giáo, Người khẳng định mỗi tôn giáo đều có những ý nghĩa tốt đẹp, trong đó: Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái. Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi. Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa. Đồng bào các tôn giáo từ xưa đến nay là bộ phận không thể tách rời trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Năm 1952, trong Báo cáo tại Hội nghị lần thứ 3 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II, khi đề cập đến Tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: Phần lớn đồng bào tôn giáo, nhất là các tầng lớp lao động đều yêu nước kháng chiến. Hiện nay, các tôn giáo ở Việt Nam đã xây dựng đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc.

Trong quá trình lãnh đạo, quản lý đất nước, Đảng, Nhà nước ta vừa quan tâm, chăm lo, bảo đảm quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo, vừa tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho nhân dân về đường lối, chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo, vừa quan tâm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để các tôn giáo hoạt động, phát triển bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật. Điều này thể hiện rõ trong quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước ta.

Điều 24 Hiến pháp 2013 ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được nhìn nhận là quyền tự nhiên của con người - tức đã là con người, ai cũng được thụ hưởng, đó là quyền bẩm sinh của con người, con người sinh ra đã có quyền đó. Một điểm nữa để khẳng định rõ hơn chính sách tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là việc có nhiều hơn những người theo tôn giáo được kết nạp Đảng. 

Trong hơn 5 năm qua, hơn 3.000 đầu ấn phẩm tôn giáo được xuất bản với hơn 10 triệu bản in, hàng triệu CD, DVD bằng nhiều ngôn ngữ, nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn được tổ chức ở Việt Nam như Đại lễ Phật đản Vesak, 500 năm cải chính đạo Tin lành…Điều đáng nói, tự do tôn giáo các dân tộc thiểu số luôn được bảo đảm: Năm 2017, Giáo hội Phật giáo Việt Nam triển khai xây dựng Học viện Phật giáo Nam tông Khmer tại Cần Thơ; ở Bình Phước và Tây Nguyên có 33 tổ chức, hệ phái, nhóm Tin lành đang sinh hoạt tại 304 chi hội và hơn 1.300 điểm nhóm; ở Tây Bắc có 693 điểm nhóm Tin lành, 8 Hội thánh cơ sở được thành lập; nhiều điểm nhóm của người dân tộc thiểu số theo Hội thánh Lutheran, Hội Liên hữu Baptist Việt Nam đã đăng ký sinh hoạt tập trung.

Quan trọng hơn, các tôn giáo được tự do hành lễ, dù ở nhà riêng hay các nơi thờ tự; được tạo điều kiện mở mang cơ sở vật chất, tu sửa nơi thờ tự, được mở các trường đào tạo những người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp, đáp ứng nhu cầu phát triển của Giáo hội, được Nhà nước tạo điều kiện phát triển các quan hệ giao lưu quốc tế…Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động đã xây dựng và thực hiện đường hướng hành đạo đậm chất nhân văn tôn giáo và trách nhiệm với đất nước, dân tộc. 

Phủ nhận quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước cũng như những kết quả đạt được trong công tác tôn giáo - điều này xuất phát từ bản chất, mục tiêu cao nhất của các thế lực thù địch là lật đổ chế độ chính trị của các nước tiến bộ không đi theo quỹ đạo của họ, mà trước hết là các nước XHCN bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ.

Tín ngưỡng tôn giáo của người dân luôn được Nhà nước ta quan tâm

Thời gian qua, một số tổ chức và cá nhân luôn tìm cách sử dụng vấn đề tôn giáo để chống phá Việt Nam về dân chủ, nhân quyền. Luận điệu mà họ đưa ra là vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, vi phạm quyền “tự do tôn giáo” của người dân; đòi tách tôn giáo khỏi sự quản lý của Nhà nước, yêu cầu chính quyền không kiểm soát, kiểm duyệt các tôn giáo, cho phép tôn giáo được tự do hoạt động.

Họ nêu ra các vấn đề rằng, “nhiều văn bản pháp luật Việt Nam về tôn giáo, dân tộc không tương đồng với Công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Thậm chí, họ còn trắng trợn phê phán, xuyên tạc “Luật tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam là tạo ra cơ sở pháp lý để đàn áp, bóp nghẹt tôn giáo”; “là bước thụt lùi về tự do tôn giáo”. 

Thực tế cho thấy, không thể có quyền tự do tôn giáo tuyệt đối. Xét về bản chất, tôn giáo là một tổ chức tập hợp những người tin theo một đối tượng tôn thờ, được sắp xếp theo cơ cấu nhất định. Mọi tổ chức tồn tại, hoạt động trong xã hội đều phải chịu sự quản lý, giám sát của Nhà nước, tuân thủ quy định của pháp luật. Do vậy, các tôn giáo phải chịu sự quản lý của Nhà nước, phải chấp hành quy định của pháp luật. Việc ban hành các văn bản pháp luật để tiến hành quản lý nhà nước đối với các tôn giáo là nhu cầu tất yếu, khách quan của mọi quốc gia trên thế giới. 

Điều 18 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị quy định: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội hoặc để bảo vệ quyền và tự do cơ bản của người khác”. 

Ở nhiều nước trên thế giới, hoạt động tôn giáo cũng phải tuân thủ luật pháp như: Điều 26, Luật của Cộng hòa Pháp về tách Giáo hội khỏi Nhà nước quy định: “Việc tụ tập để thực hiện các nghi lễ tôn giáo phải báo cáo và chịu sự kiểm soát của các cơ quan chính quyền có chức năng gìn giữ trật tự công cộng. Ở những nơi chuyên vào việc thờ tự và thực hành nghi lễ tôn giáo cấm việc hội họp có tính chất chính trị”. Điều 27 quy định: “Các nghi lễ, các cuộc rước tôn giáo tiến hành bên ngoài khu vực nhà thờ và việc kéo chuông phải tuân theo những quy định của chính quyền tỉnh, thành phố”.

Ở Mỹ, hoạt động của các tổ chức tôn giáo được quản lý theo luật pháp của các bang. Luật của các bang quy định về hoạt động tôn giáo có những điểm khác nhau về chi tiết, song nhìn chung đều dựa trên yêu cầu thống nhất trong toàn liên bang như: Việc đăng ký thủ tục bắt buộc đối với các tổ chức tôn giáo trong toàn liên bang, lệ phí phải nộp cho chính quyền về việc đăng ký là 15 đô la; các cơ quan chính quyền của bang trực tiếp thi hành việc giám sát các hoạt động của các tổ chức tôn giáo trên địa bàn hành chính của bang. Chỉ sau khi được chính quyền xem xét, đồng ý cho phép thành lập thì các tổ chức tôn giáo mới được phép hoạt động và có tư cách pháp nhân. 

Tại Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của người dân được đảm bảo. Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về tôn giáo, trong đó đều khẳng định “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân”; “Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”; “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật”. 

Thể chế hóa các quan điểm của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo như Hiến pháp năm 2013, Luật Tín ngưỡng tôn giáo năm 2016, Nghị định số 162/NĐ-CP ngày 31/12/2017 về biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng tôn giáo... Trong các văn bản pháp luật này đều khẳng định Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. 

Điều 24, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”. 

Điều 3, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”. 

Lợi dụng tôn giáo để chống phá Việt Nam về dân chủ, nhân quyền là hoạt động xuyên suốt của những tổ chức, cá nhân và quốc gia thiếu thiện chí với Việt Nam. Trong khi thực tiễn là Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của người dân; nỗ lực bảo đảm cho các tôn giáo được hoạt động bình thường trong khuôn khổ pháp luật.

Nhận diện thủ đoạn chống phá lực lượng CAND thời gian gần đây (Bài 1)

Bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện âm mưu và các hoạt động “phi chính trị hóa” lực lượng CAND, tìm mọi cách làm cho cán bộ, chiến sỹ Công an suy yếu về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, từ đó thúc đẩy các hoạt động “tự diễn biến”, phá vỡ bức tường thép quan trọng trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân. Do vậy, cần nhận diện thủ đoạn, hoạt động mà các đối tượng thường sử dụng trong thời gian qua như sau:

Thứ nhất, các đối tượng ra sức tuyên truyền, xuyên tạc về bản chất cách mạng, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức lực lượng CAND, cho rằng “Công an là công cụ đàn áp của Đảng Cộng sản”, hay rêu rao rằng “Bộ Công an lấn quyền và tạo hình ảnh bất khả xâm phạm”; tìm mọi cách chia rẽ Công an với nhân dân, với Quân đội và các lực lượng khác trong hệ thống chính trị ở nước ta.

Thứ hai, lợi dụng việc một số tin báo điện tử trong nước đăng tin bài, hình ảnh phản ánh sai phạm của lực lượng Công an địa phương trong điều tra một số vụ án và hành vi tiêu cực của CSGT để thổi phồng các vụ việc, lấy sai phạm của một số cá nhân để quy kết, xuyên tạc, vu cáo, bóp méo sự thật nhằm bôi đen, làm mất uy tín lực lượng Công an, kích động quần chúng chống cán bộ Công an thi hành công vụ.

Thứ ba, cố ý bôi nhọ, hạ bệ hình ảnh cán bộ, chiến sĩ CAND, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm các đồng chí lãnh đạo Bộ Công an.

Thứ tư, đối với một số vụ việc gây rối trật tự công cộng, có tính chấy nguy hiểm đối với xã hội, phải sử dụng lực lượng Cảnh sát cơ động, đặc nhiệm để giải quyết, các đối tượng cho rằng lực lượng CAND ngày nay không còn là của nhân dân, bảo vệ nhân dân, mà là công cụ để bảo vệ quyền lợi của một nhóm người có chức, có quyền, qua đó nhằm đối trọng nhân dân với lực lượng Công an.

Thứ năm, lợi dụng không gian mạng như: Youtube, Blog, Facebook…, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tạo lập hàng trăm tài khoản ảo, cắt ghép một số hình ảnh, video liên quan đến lực lượng Công an để đưa ra những bình luận ác ý, tung tin sai sự thật, bịa đặt nhằm công kích vào tâm lý người dân, gây sự hoài nghi, làm giảm sút lòng tin đối với chế độ.

Những âm mưu, thủ đoạn trên cần có cách nhìn khách quan, toàn diện,  cụ thể như sau:

Trước hết, cần khẳng định rằng, trong bất kỳ một xã hội có giai cấp nào thì điều tất yếu đó là phải tổ chức ra lực lượng bảo vệ chế độ, nhà nước đó.

Đối với nước ta, lực lượng CAND ra đời trong tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc, luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, luôn mang trong mình bản chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân, dân tộc sâu sắc.

Khi đề cập đến đặc điểm công tác, chiến đấu của CAND và công tác Công an, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, lực lượng CAND phải thường xuyên phối hợp chặt chẽ với QĐND và các ngành, các đoàn thể quần chúng trong công tác giữ gìn an ninh, trật tự.

Theo Người: “Công an thì phải đánh địch thường xuyên, lúc chiến tranh có việc, lúc hòa bình lại càng nhiều việc”; vì vậy, Công an phải thường xuyên thực hiện tốt quan hệ hợp đồng tác chiến vì mục tiêu chung bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ và nhân dân. Tại lễ thành lập lực lượng Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng), tháng 3-1959, Hồ Chủ tịch khẳng định: “Công an và Quân đội là hai cánh tay của nhân dân, của Đảng, của Chính phủ, của vô sản chuyên chính. Vì vậy, càng phải đoàn kết chặt chẽ với nhau, giúp đỡ lẫn nhau, ra sức phát triển ưu điểm, khắc phục những tư tưởng không đúng”.

Thực hiện chỉ dạy của Bác, CAND đã phối hợp chặt chẽ với QĐND và các tổ chức trong hệ thống chính trị; tập trung xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân gắn với nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận lòng dân vững chắc, tạo thành sức mạnh tổng hợp, thế trận liên hoàn trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự.

Hai là, ở Việt Nam, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức, hoạt động của lực lượng CAND được quy định trong Luật CAND (sửa đổi) đã được Quốc hội Khoá XIV thông qua ngày 20/11/2018, tại Kỳ họp thứ 6. Luật CAND (sửa đổi) có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2019 quy định rõ:

Vị trí CAND: Là lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

Chức năng: CAND có chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Bên cạnh đó, Luật cũng xác định những nhiệm vụ, quyền hạn của CAND. (còn nữa)

Nhận diện thủ đoạn chống phá lực lượng CAND thời gian gần đây (Bài 2)

Nguyên tắc tổ chức, hoạt động của CAND:

1. Đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự thống nhất quản lý nhà nước của Chính phủ và sự chỉ huy, quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Công an.

2. Được tổ chức tập trung, thống nhất, chuyên sâu, tinh gọn và theo cấp hành chính từ Trung ương đến cơ sở.

3. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; cấp dưới phục tùng cấp trên; dựa vào nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Ba là, thực tiễn đã chứng minh CAND Việt Nam thực sự là đội quân tiên phong, nòng cốt trong đấu tranh chống phản cách mạng, chống gián điệp, phản động, phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh, trật tự, bảo vệ Đảng, chế độ, chính quyền cách mạng và bảo vệ nhân dân. Cán bộ, chiến sĩ Công an từ trong quá khứ, hiện tại và tương lai luôn cố gắng rèn luyện, phấn đấu trở thành đảng viên của Đảng, hệ thống tổ chức đảng trong CAND không ngừng được củng cố và phát triển lãnh đạo mọi mặt công tác công an. Lực lượng Công an được tôi luyện qua các thời kỳ cách mạng đã trở thành đội ngũ vững mạnh về chính trị, tư tưởng, “chỉ biết còn Đảng thì còn mình”, trung thành vô hạn với lý tưởng, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân.

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc tổ chức, hoạt động của CAND đã được pháp luật quy định và trong thực tế không có chuyện Công an là công cụ đàn áp của Đảng Cộng sản Việt Nam, hay Công an lấn quyền như những điều bịa đặt, vu khống mà họ tạo ra.

Với sự chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, trực tiếp của Đảng, Nhà nước, sự phối hợp chặt chẽ của các ngành, đoàn thể, sự tin yêu, giúp đỡ, đùm bọc của nhân dân, lực lượng CAND không ngừng trưởng thành, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, vững về pháp luật, sắc bén về nghiệp vụ và đã có những đóng góp đặc biệt quan trọng vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng.

Thứ năm, đất nước ổn định, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, những kết quả đạt được trong công tác phòng chống dịch COVID-19, những nỗ lực không biết mệt mỏi trong phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai ở miền Trung vừa qua là sự quyết tâm đồng lòng của cả nước, đó là sự thống nhất ý chí và hành động của toàn dân và hệ thống chính trị, trong đó có những đóng góp quan trọng của cán bộ, chiến sĩ CAND; sự cống hiến, hy sinh của lực lượng CAND trong thời chiến cũng như thời bình là điều không thể phủ nhận, chối bỏ như cách mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã làm trong thời gian qua.

Mặt khác, chúng ta không thể lấy những sai phạm, thiếu sót của một vài cá nhân để quy kết đó là sai phạm của cả tổ chức, lực lượng. Mọi sai phạm dù đó là ai đi chăng nữa đều phải xử lý theo pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ sai phạm.

Âm mưu, thủ đoạn và những việc làm của các thế lực thù địch là rõ ràng, càng chứng minh tính chất phản động, phản cách mạng của họ, thay vì có những đóng góp cho việc giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội thì họ lại cố ý phá vỡ tính ổn định đó bằng những luận điệu phi lý, lố bịch. (Hết)

Lễ xuất quân và diễn tập phương án bảo vệ Đại hội lần thứ XIII của Đảng

Sáng 10-1, tại Hà Nội, Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan và UBND TP Hà Nội tổ chức lễ xuất quân, diễn tập phương án bảo vệ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Đồng chí Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng dự và phát biểu chỉ đạo. Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì lễ xuất quân, diễn tập. 

Phát biểu chỉ đạo tại Lễ xuất quân, diễn tập, đồng chí Trần Quốc Vượng biểu dương, ghi nhận, đánh giá cao sự chủ động, nỗ lực cố gắng của lực lượng Công an nhân dân đã chủ động phối hợp với lực lượng QĐND và các bộ, ngành liên quan tổ chức Lễ xuất quân, phương án bảo vệ và triển khai các mặt công tác bảo đảm an ninh, an toàn phục vụ Đại hội XIII của Đảng.

Trang bị hiện đại của lực lượng CAND

Đồng chí Trần Quốc Vượng yêu cầu, trong bất kỳ điều kiện hoàn cảnh nào, các lực lượng phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, không chủ quan, lơ là, mất cảnh giác, luôn giữ vững tinh thần vượt mọi khó khăn, gian khổ, đem hết sức lực, tài trí của mình để bảo vệ tuyệt đối an ninh, an toàn Đại hội, bảo vệ Đảng. Tiểu ban An ninh, trật tự Bộ Công an tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Bộ Y tế, Thành ủy, UBND thành phố Hà Nội, các ban, bộ, ngành, địa phương liên quan và các bộ phận chức năng của Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội rà soát kỹ các nhiệm vụ phục vụ được phân công; tiếp tục hoàn thiện các phương án bảo vệ, xử lý các tình huống phức tạp nảy sinh; huy động sức mạnh tổng hợp cả hệ thống chính trị, toàn dân, phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân trong công tác bảo vệ Đại hội lần thứ XIII của Đảng. 

Phát biểu tại lễ xuất quân, diễn tập, Đại tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an khẳng định, lực lượng Công an sẽ nêu cao tinh thần trách nhiệm, phối hợp chặt chẽ với lực lượng Quân đội và các lực lượng liên quan triển khai quyết liệt, đồng bộ, có hiệu quả các phương án, kế hoạch; nắm chắc tình hình, phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và phần tử xấu, không để bị động, bất ngờ. 

Lễ xuất quân và diễn tập đã tiến hành duyệt đội ngũ, diễu hành các phương tiện, thiết bị kỹ thuật, biểu diễn quân sự, võ thuật, khí công, công phá và diễn tập xử lý tình huống tập trung đông người gây rối an ninh, trật tự, bạo loạn; tình huống đánh bắt khủng bố, giải cứu con tin trên nhà cao tầng.

Nâng cao vị thế, uy tín Việt Nam trong khu vực và trên thế giới (Bài 1)

“Thông thường, khi dịch bệnh xảy ra, các hoạt động đối ngoại trên thế giới của các nước đều bị ảnh hưởng rất lớn. Chúng ta cũng không ngoại lệ. Nhưng trong năm 2020, chúng ta vẫn triển khai được các hoạt động hết sức quan trọng, cả đối ngoại song phương lẫn đối ngoại đa phương”, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh khẳng định. 

PV: Năm 2020 đã khép lại và được đánh giá là năm thành công của đối ngoại Việt Nam. Nhiều nhà phân tích và các chính trị gia trên thế giới nhận xét rằng, Việt Nam trong vai trò kép của mình là Chủ tịch ASEAN và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (LHQ) đã thể hiện được vai trò dẫn dắt và là chỗ dựa tin cậy, vững chắc trong khu vực cũng như cộng đồng quốc tế. Xin Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao đánh giá về thành tựu đối ngoại mà Việt Nam đạt được.

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh: Năm 2020 là một năm đặc biệt. Tình hình thế giới, khu vực đều biến động hết sức nhanh chóng và nhất là đại dịch COVID-19. Trong tình hình như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả hệ thống chính trị chúng ta đã làm tốt nhiệm vụ kép, vừa kiềm chế được dịch COVID-19, đồng thời vẫn giữ được môi trường ổn định, phát triển kinh tế xã hội của đất nước chúng ta.

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh.

Những thành tích hết sức lớn lao của đất nước chúng ta trong năm 2020 là cơ sở hết sức thuận lợi cho các hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Thông thường, khi dịch bệnh xảy ra, các hoạt động đối ngoại trên thế giới của các nước đều bị ảnh hưởng rất lớn. Chúng ta cũng không ngoại lệ nhưng trong năm 2020, chúng ta vẫn triển khai được các hoạt động hết sức quan trọng, cả đối ngoại song phương lẫn đối ngoại đa phương. 

Chúng ta duy trì được quan hệ với các đối tác không phải qua các chuyến thăm nước ngoài mà bằng hình thức điện đàm, trực tuyến. 33 cuộc điện đàm của các đồng chí lãnh đạo cấp cao, từ đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng đến Chủ tịch Quốc hội và các cấp khác đã được triển khai. Trong năm 2020 chúng ta cũng hoàn thành xuất sắc vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch Liên minh Nghị viện Đông Nam Á (AIPA) cũng như năm đầu tiên của nhiệm kỳ Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ với những kết quả hết sức cụ thể. 

Về hội nhập kinh tế, trong năm 2020 chúng ta cũng đã cùng Liên minh châu Âu triển khai việc thúc đẩy và thông qua Hiệp định thương mại tự do (EVFTA) và cùng với các nước trong ASEAN thúc đẩy để ký kết được Hiệp định thương mại RCEP.

 Đặc biệt, trong nhiệm vụ bảo hộ công dân khi COVID-19 xảy ra trên thế giới, có thể nói, Việt Nam là một trong số ít quốc gia đã có các chuyến bay đưa công dân đang học tập hoặc thăm viếng ở nước ngoài bị mắc kẹt muốn về nước. Chỉ riêng trong năm 2020 chúng ta đã triển khai trên 260 chuyến bay chở 73.000 công dân Việt Nam ở 59 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới về nước một cách an toàn. 

Chưa hết, vấn đề quảng bá Việt Nam ra nước ngoài vẫn tiếp tục được thực hiện và vươn xa hơn, thông qua phương thức mới, đó là nền tảng số. 

PV: Xin Phó Thủ tướng nói kỹ hơn về vai trò Chủ tịch ASEAN 2020 của Việt Nam? 

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh: Thực tế mà nói, COVID-19 đã ảnh hưởng rất lớn đến vai trò của Chủ tịch ASEAN. Song, năm 2020 chúng ta đã hoàn thành xuất sắc vai trò Chủ tịch ASEAN trên các lĩnh vực. Đây là đánh giá không phải của chúng ta mà là của cộng đồng quốc tế. Trước tiên, chúng ta đã đề ra một chủ đề hết sức đúng với tình hình, đó là “gắn kết và chủ động thích ứng”, đạt được mục tiêu là tăng cường vai trò trung tâm đoàn kết của ASEAN, sự thích ứng nhanh chóng không phải của từng nước mà của cả khối ASEAN đối với tình hình thế giới bên ngoài cũng như khu vực và đối với từng nước.

Thứ hai là đảm bảo thực hiện được toàn bộ nội dung của năm Chủ tịch ASEAN đã đề ra, đó là vấn đề xây dựng Cộng đồng ASEAN. Trên 80 văn kiện đã được thông qua, 28 sáng kiến của Việt Nam được đưa vào văn kiện trong đó tập trung vào xây dựng Cộng đồng ASEAN, rà soát lại Hiến chương ASEAN và xây dựng Tầm nhìn ASEAN sau năm 2025. 

Thứ ba là Việt Nam đã đưa ASEAN là một tổ chức khu vực có thể nói không phải là duy nhất nhưng trong số ít thích ứng rất nhanh với tình hình COVID-19. Chúng ta đã tổ chức được các hội nghị đặc biệt của ASEAN, giữa ASEAN với các đối tác để ứng phó với COVID-19 và đưa ra được 4 nội dung thích ứng với COVID-19 gồm: xây dựng được quỹ ứng phó; kho dự phòng; kế hoạch để thích ứng với từng kịch bản của COVID-19 và kế hoạch phục hồi kinh tế hậu dịch bệnh. 

Cuối cùng là việc chuyển đổi phương thức họp của ASEAN, không giống như ASEAN của mọi năm. Hơn 550 cuộc họp trực tuyến, trong đó có 20 cuộc họp cấp cao đã được tổ chức. Điều đó chứng minh Việt Nam đã chuyển đổi phương thức rất nhanh mà vẫn đảm bảo được việc thông qua các văn kiện. 

PV: Còn với tư cách là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, chúng ta đã làm được gì trong năm qua?

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh: Đây là lần thứ hai chúng ta trở thành thành viên của Hội đồng Bảo an LHQ, với nhiệm kỳ 2020-2021 và là đại diện của các nước đang phát triển, của các nước vừa và nhỏ. Chúng ta đã được các nước đặt lòng tin với số phiếu bầu lớn nhất trong lịch sử của Hội đồng Bảo an là 192/193. 

Trong năm đầu tiên của nhiệm kỳ tại Hội đồng Bảo an LHQ, chúng ta đã tham gia đóng góp hết sức tích cực với tinh thần, nguyên tắc đảm bảo độc lập, tự chủ và tôn trọng luật pháp quốc tế, lợi ích của các nước. Chính vì nguyên tắc đó, chúng ta đã đóng góp một cách tích cực và hiệu quả vào đồng thuận trong Hội đồng Bảo an LHQ để giải quyết những vấn đề của khu vực cũng như những vấn đề mới nổi lên trên thế giới và khu vực. 

Với vai trò Chủ tịch của Hội đồng Bảo an LHQ trong tháng đầu tiên (tháng 1-2020) - tháng duy nhất trong năm tổ chức được tất cả các cuộc họp trực tiếp, chúng ta đã phát huy tốt, kết hợp được với vai trò Chủ tịch của ASEAN, đưa vào 2 nội dung hết sức quan trọng: tổ chức được phiên họp mở của Hội đồng Bảo an LHQ về việc tăng cường thực thi Hiến chương LHQ và đưa vấn đề hợp tác giữa Hội đồng Bảo an LHQ với ASEAN. 

Trong năm 2020, chúng ta cũng đã thúc đẩy các ưu tiên của Việt Nam và cơ bản những ưu tiên đó chúng ta đã thực hiện được như: thúc đẩy vai trò của phụ nữ với hòa bình, an ninh với việc tổ chức Hội nghị toàn cầu về phụ nữ và hòa bình, an ninh. 

Bên cạnh đó, lần đầu tiên Việt Nam dự thảo và đưa ra thông qua một nghị quyết của LHQ lấy ngày 27-12 là Ngày quốc tế phòng, chống dịch bệnh. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử tham gia LHQ, Việt Nam dự thảo một nghị quyết và được 112 nước đồng bảo trợ, là con số kỷ lục về đồng bảo trợ của một nghị quyết. Nghị quyết được thông qua bằng đồng thuận, đánh dấu một dấu ấn vươn tầm của đối ngoại Việt Nam, ngoại giao Việt Nam trên diễn đàn quốc tế, đặc biệt là tại LHQ. (còn nữa)

Nâng cao vị thế, uy tín Việt Nam trong khu vực và trên thế giới (Bài 2)

PV: Năm 2021 là năm thứ hai của nhiệm kỳ Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, vậy hướng tiếp theo của Việt Nam là gì và xin Phó Thủ tướng chia sẻ thêm về những nhiệm vụ trọng tâm của đối ngoại Việt Nam trong thời gian tới? 

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh: Năm 2021, dịch COVID-19 có thể sẽ kiểm soát được mức độ và cũng có thể chưa được kiểm soát, sẽ tác động không nhỏ đến tình hình chung. Tình hình kinh tế thế giới cũng trên đà phục hồi chậm. Bên cạnh đó là những cuộc xung đột đang tiếp diễn cũng như những khả năng xung đột mới có thể xảy ra... Đó là những tác động không nhỏ đến hoạt động của Hội đồng Bảo an LHQ. Ưu tiên của chúng ta trong vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ là tiếp tục tham gia giải quyết các xung đột, quan tâm đến vấn đề trẻ em trong xung đột, phụ nữ với hòa bình, an ninh, vấn đề khôi phục kinh tế sau xung đột, vấn đề khắc phục hậu quả bom mìn sau xung đột... Một số vấn đề mới cũng hết sức đáng quan tâm là biến đổi khí hậu, vấn đề an ninh và hoạt động gìn giữ hòa bình LHQ. 

Về quan hệ đối ngoại, chúng ta sẽ tiếp tục củng cố, làm sâu sắc hơn quan hệ của Việt Nam với các nước, các đối tác, đặc biệt các đối tác chiến lược, các đối tác toàn diện, các nước láng giềng bằng những phương thức mới, đạt hiệu quả cao; chủ động hội nhập quốc tế thông qua các hoạt động tại Hội đồng Bảo an LHQ; phát huy được những kết quả trong năm Chủ tịch ASEAN 2020. Chúng ta cũng đã tham gia, ký kết các hiệp định thương mại tự do và tiếp tục sẽ có các hiệp định thương mại tự do được phê chuẩn. Vì thế, chúng ta phải làm sao thực thi một cách hiệu quả, tận dụng được các cơ hội của các hiệp định thương mại tự do mang lại.

Và đặc biệt, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, xuyên suốt là duy trì môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ chủ quyền biển đảo của chúng ta. 

PV: Vâng, nhắc đến vấn đề biển đảo, xin Phó Thủ tướng cho biết, trong năm qua, chúng ta đã đóng góp như thế nào cho hòa bình ở Biển Đông? 

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh: Trước tiên phải nói là tình hình Biển Đông trong năm 2020 vẫn tiếp diễn phức tạp và có nhiều những yếu tố làm cho tình hình bất ổn định. Song, chúng ta vẫn duy trì được môi trường ổn định ở Biển Đông thông qua nhiều biện pháp, trong đó có các biện pháp quan hệ song phương với các nước. Trong tất cả các cuộc trao đổi của lãnh đạo cấp cao với các nước cũng như trong các cuộc tiếp xúc các cấp, vấn đề Biển Đông luôn được nêu với mục tiêu, yêu cầu là phải đảm bảo môi trường hòa bình, ổn định tại Biển Đông, tôn trọng luật pháp quốc tế và đặc biệt là Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982), không có các hành động làm phức tạp tình hình tại Biển Đông. 

Tại các hội nghị quốc tế và đặc biệt trong ASEAN, Biển Đông tiếp tục là vấn đề được quan tâm. Trong năm Chủ tịch ASEAN 2020, chúng ta đã nêu và tạo được sự đồng thuận, ủng hộ trong ASEAN cũng như bên ngoài. Quan trọng nhất là vấn đề tuân thủ luật pháp quốc tế, coi UNCLOS 1982 là cơ sở pháp lý cho quyền và lợi ích hợp pháp của các nước. Đây là nội dung hết sức mới trong các văn kiện của ASEAN và được các nước ASEAN đồng thuận, được các nước bên ngoài ủng hộ. Trên thực tế, các nước trong 2020 đã nhấn mạnh nhiều vào yếu tố tuân thủ luật pháp quốc tế và UNCLOS. (Hết)

(Nguồn: http://antg.cand.com.vn/Su-kien-Binh-luan-antg/Nang-cao-vi-the-uy-tin-Viet-Nam-trong-khu-vuc-va-tren-the-gioi-626247/)


Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...