Trọng
Cao
“Bất bạo động” là một phương thức hoạt động chống phá nguy hiểm
nhưng lại thường được ngụy trang dưới danh nghĩa phản kháng “ôn hòa”, “dân sự”.
Vì vậy, việc nhận diện đúng bản chất của phương thức “bất bạo động” không chỉ
góp phần thống nhất nhận thức mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá
âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch, phản động, từ đó chủ động
trong việc triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn.
“Bất bạo động” được hình thành và phát triển
mạnh mẽ trong những năm đầu của thế kỷ XX. Trên thế giới, Mahatma Gandhi được
xem là người đầu tiên áp dụng phương thức đấu tranh này để giải phóng dân tộc
Ấn Độ khỏi sự đô hộ của Anh. Đấu tranh “bất bạo động” cũng được biết đến từ
cuộc nổi dậy của sắc dân da đen ở Mỹ đòi quyền bình đẳng, chống lại nạn kỳ thị,
phân biệt chủng tộc, được lãnh đạo bởi mục sư Martin Luther King.
Ở nước ta, thuật ngữ
“bất bạo động” được xuất hiện vào khoảng thập niên đầu của thế kỷ XX. Những tư
tưởng ban đầu của phương pháp đấu tranh “bất bạo động” đã được nhà yêu nước
Phan Châu Trinh tiến hành để đấu tranh chống lại thực dân Pháp xâm lược với
phong trào Duy Tân. Phương thức hoạt động của phong trào là “bất bạo động”,
công khai hoạt động nhằm khai hóa dân tộc, cải cách trên mọi lĩnh vực, khuyến
khích giáo dục bỏ lối học từ chương, phát động phong trào học Quốc ngữ, mở mang
công thương nghiệp, chấn hưng công nghiệp, bỏ mê tín dị đoan… Khẩu hiệu của
phong trào lúc bấy giờ là “chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh”.
Tư tưởng ban đầu là như
vậy, tuy nhiên gần đây, đặc biệt là sau khi hàng loạt các cuộc “cách mạng sắc
màu” nổ ra tại một số nước, với kịch bản được các thế lực thù địch áp dụng nhằm
hậu thuẫn cho các lực lượng đối lập lật đổ chính quyền đương nhiệm tại các quốc
gia này thì phương thức “bất bạo động” đã và đang được các thế lực thù địch,
phản động triệt để sử dụng để chống phá Việt Nam với mục đích cuối cùng là lật
đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta. Có thể
hiểu, “bất bạo động” là thuật ngữ dùng để chỉ một phương thức hoạt động chống
đối của các thế lực thù địch, phản động không sử dụng sung, đạn mà sử dụng các
thủ đoạn “bất hợp tác”, “bất phục tùng”, “bất tuân dân sự” kết hợp với sử dụng
áp lực của quần chúng để gây áp lực với Đảng, Chính phủ, từ đó làm suy yếu,
tiến tới lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền và chính phủ, nhà nước
đương nhiệm ở các quốc gia.
Có thể
nhận diện phương thức “bất bạo động” chống phá cách mạng Việt Nam với những đặc
trưng cơ bản sau:
Thứ
nhất, “bất bạo động” là phương thức hoạt động không sử dụng
súng, đạn mà sử dụng áp lực của quần chúng, từng bước làm suy yếu, tiến tới xóa
bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền và chính phủ, nhà nước đương nhiệm. Khác
với phương thức bạo lực, vũ trang, “bất bạo động” là phương thức hoạt động
chống đối không sử dụng vũ trang mà chủ yếu tập trung vào việc sử dụng sức mạnh
của quần chúng để chống đối chính quyền, trên cơ sở hô hào, kích động quần
chúng tẩy chay, bất hợp tác với chính quyền; kích động công nhân đình công, bãi
công; lôi kéo, lừa bịp, kích động các giai tầng xã hội xuống đường tuần hành,
biểu tình, gây áp lực với Đảng, Nhà nước, đòi thực hiện các yêu sách như: đòi
Đảng cầm quyền từ bỏ vai trò lãnh đạo; đòi cải cách chính trị; phi chính trị
hóa lực lượng vũ trang… từ đó làm suy yếu, tiến tới vô hiệu hóa vai trò lãnh
đạo của Đảng cầm quyền, chính quyền đương nhiệm, lập nên chính quyền mới thân
với các thế lực thù địch nước ngoài.
Thứ
hai, tẩy chay, bất hợp tác với chính quyền, đưa chính quyền
vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan” là những nội dung cơ bản của phương thức
“bất bạo động”. Thực tiễn các cuộc “cách mạng màu” diễn ra tại một số nước trên
thế giới thời gian qua cho thấy, những nội dung chính được các lực lượng đối
lập, chống đối sử dụng trong đấu tranh “bất bạo động” như sau: Một là, bất tuân dân sự. Tức là người
tham gia phương thức này có thể từ chối thực hiện những việc mà họ vẫn thường
làm, hoặc bắt buộc phải làm theo yêu cầu của luật pháp (tẩy chay bầu cử, biểu
tình, đình công, bãi thị, bãi khóa…). Hai
là, hành động một cách có chủ đích. Tức là người tham gia có thể thực hiện
những việc mà họ thường không làm hoặc không được trông đợi sẽ làm, hoặc bị cấm
thực hiện (tập hợp lực lượng, rải truyền đơn, kích động quần chúng xuống đường,
chiếm trụ sở, bắt giữ cán bộ; tạo sự kiện, lấy cớ cho các tổ chức quốc tế, các
nước phương Tây can thiệp...). Ba là, thuyết
phục và thương lượng. Đưa ra các điều kiện phù hợp với tình hình, từ thấp
đến cao, đẩy chính quyền vào thế buộc phải dùng vũ lực, gây đổ máu, tạo cớ bên
ngoài can thiệp buộc chính quyền phải nhượng bộ.
Nói cách khác, tẩy chay,
bất hợp tác với chính quyền được thực hiện trong phương thức “bất bạo động” chủ
yếu là tẩy chay, bất hợp tác về kinh tế (không tuân theo các quy định, luật lệ,
pháp luật của nhà nước về kinh tế, công nhân đình công, doanh nghiệp dừng sản
xuất, bãi thị đồng loạt, rút tiền khỏi ngân hàng, từ chối trả các lệ phí, từ
chối nhận tiền của nhà nước…); bất hợp tác về chính trị (công khai từ chối ủng
hộ nhà nước; viết và phát biểu kêu gọi chống đối; tẩy chay bầu cử; ngồi ăn vạ;
bất hợp tác về tư pháp, phản ứng; cản trở các hệ thống thông tin và tin tức…);
bất hợp tác xã hội (tẩy chay giao tiếp; sinh viên biểu tình, bất phục tùng dân
sự, rút lui khỏi các định chế xã hội; ở nhà, tạo khu an toàn, tiêu thổ tập
thể...)…
Thứ ba, đình
công, biểu tình, tuần hành chống đối chính quyền là hình thức chủ yếu, đặc
trưng chính của “bất bạo động”. Mục tiêu chính của các thế lực thù địch, phản
động trong thực hiện phương thức “bất bạo động” là bằng những “chiến thuật” hòa
bình trong đấu tranh chính trị để lật đổ chính quyền. Do đó, đình công, biểu
tình, tuần hành là hình thức được chúng xác định mang lại hiệu quả cao nhất, ít
thiệt hại nhất. Đồng thời, sử dụng các hình thức này, trong trường hợp chính quyền
sử dụng vũ lực để đàn áp thì đó sẽ là điều kiện thuận lợi, là “cái cớ” để các
thế lực thù địch bên ngoài lợi dụng can thiệp, gây sức ép, thậm chí sử dụng sức
mạnh quân sự để tấn công.
Thứ tư, “bất
bạo động” đến một mức độ nhất định có thể chuyển thành “bạo động” khi có điều
kiện, thời cơ. Về hình thức, “bất bạo động” được thể hiện thông qua các biện
pháp “ôn hòa”, “dân sự”. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, không phải bất cứ lúc
nào, trong trường hợp nào “bất bạo động” cũng đều là ôn hòa, phi bạo lực. Khi “bất
bạo động” đến một mức độ nhất định có thể chuyển thành “bạo động”. Nói cách
khác, ranh giới giữa “bất bạo động” và “bạo động” là khá mong manh, có thể
chuyển hóa cho nhau rất nhanh chóng.
Ở Việt Nam, thời gian
gần đây được sự hậu thuẫn của các thế lực thù địch nước ngoài, các tổ chức phản
động lưu vong, số đối tượng chống đối cực đoan trong nước đang ra sức hô hào,
tuyên truyền rộng rãi về phương thức “bất bạo động” trên các trang mạng xã hội;
mở các lớp huấn luyện, đào tạo về “bất bạo động” cho số đối tượng chống đối,
phản động; triệt để lợi dụng các vụ việc, sự kiện chính trị, xã hội phức tạp,
nhạy cảm để lôi kéo, kích động, thu hút quần chúng tham gia vào các hoạt động
trái pháp luật…Các cuộc biểu tình phản đối Công ty Formosa Hà Tĩnh gây ô nhiễm
môi trường xảy ra tại các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình năm 2016, 2017; các
cuộc biểu tình phản đối Luật An ninh mạng và dự thảo Luật Đặc khu tại Bình
Thuận, Bình Dương, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh… năm 2018… là những vụ việc
phức tạp về an ninh, trật tự mang bóng dáng của “bất bạo động”.
Có thể thấy rằng, “bất
bạo động” là một phương thức hoạt động với những thủ đoạn “mềm dẻo” không bộc
lộ trực tiếp và lộ liễu tính thách thức về chính trị và sự đối kháng với chính
quyền. Điều này không chỉ giúp các đối tượng tránh được sự trấn áp của chính
quyền mà còn gây ra nhiều khó khăn đối với công tác phát hiện, đấu tranh của
lực lượng chức năng. Nguy hiểm hơn nữa là nó có khả năng gây ra mơ hồ, ngộ nhận
trong một bộ phận quần chúng và sự “ủng hộ” trong dư luận quốc tế và trong
nước, dễ lừa bịp, lôi kéo sự tham gia của các tầng lớp xã hội, đặc biệt là đối
với thanh niên, sinh viên, trí thức, văn nghệ sĩ, thậm chí kể cả cán bộ, đảng
viên trong hệ thống chính trị. Vì vậy, cần phải nhận diện đúng bản chất của
“bất bạo động” để có giải pháp đấu tranh là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan
trọng của mỗi tổ chức, cá nhân ở nước ta hiện nay.