Chủ Nhật, 19 tháng 4, 2020

THÀNH TỰU GIÁO DỤC CỦA VIỆT NAM BÁC BỎ MỌI XUYÊN TẠC



Đã thành thông lệ, sắp đến kỳ Đại hội Đảng, các thế lực thù địch lại ra sức chống phá cách mạng nước ta trên mọi lĩnh vực, trong đó có phủ nhận thành tựu giáo dục, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, đấu tranh bác bỏ luận điệu xuyên tạc của chúng về vấn đề này là việc làm cấp thiết.
Với mưu đồ xuyên tạc tình hình đất nước, chế độ, một số người có cái nhìn thiếu khách quan, toàn diện, nhất là họ lợi dụng những yếu kém, khuyết điểm của ngành Giáo dục trong thời gian gần đây để xuyên tạc, phủ nhận thành tựu to lớn của nền giáo dục nước ta. Từ đó, đưa ra những luận điệu: “nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục dối trá từ trên xuống dưới”, “công cuộc cải cách giáo dục đã hoàn toàn thất bại”, v.v. Đây là những luận điệu sai trái nhằm xuyên tạc, phủ nhận thành tựu của nền giáo dục nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhìn lại nền giáo dục trước năm 1945, dưới chế độ thực dân, phong kiến, 95% dân số nước ta rơi vào tình cảnh mù chữ, đại đa số con em gia đình nông dân, nhân dân lao động không được đến trường. Trung bình mỗi tỉnh chỉ có từ 02 đến 04 trường tiểu học, mỗi trường có từ 100 đến vài trăm học sinh. Bậc Trung học chỉ có ở một số đô thị lớn, như: Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Mỗi trường cũng chỉ có khoảng 100 đến 200 học sinh. Đến năm 1945, toàn Đông Dương chỉ có Viện Đại học Đông Dương, gồm 10 trường Cao đẳng thành viên, với 1.575 sinh viên so với tổng số dân Việt Nam lúc đó là 23 triệu người.
Từ thực trạng nêu trên, ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”1, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm đến lĩnh vực giáo dục và đào tạo; coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Trong từng thời kỳ cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền giáo dục của Việt Nam có sự cải cách, đổi mới và đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới.
Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến vấn đề “diệt giặc dốt”, là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách của nước nhà lúc bấy giờ. Người đã ký sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ. Tiếp đến, tháng 10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi chống nạn thất học. Chỉ sau một năm phát động phong trào “diệt giặc dốt”, cả nước đã có 2,5 triệu người thoát nạn mù chữ và đến năm 1948 đã có 06 triệu người thoát nạn mù chữ.
Từ giữa thế kỷ XX đến nay, Việt Nam đã tiến hành nhiều cuộc cải cách giáo dục. Năm 1950, trong hoàn cảnh nước nhà còn muôn vàn khó khăn, nhưng cuộc cải cách giáo dục lần đầu tiên nhằm mục tiêu xây dựng một nền giáo dục của dân, do dân và vì dân. Đến năm 1956, cải cách giáo dục lần thứ hai hướng tới đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những công dân tốt, có đức, có tài. Năm 1981, cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba toàn diện hơn, đồng bộ hơn nhằm tạo bước chuyển biến mới về hệ thống giáo dục, nội dung và phương pháp dạy học. Đến những năm cuối của thế kỷ XX, nước ta đã có hơn 93,7% dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ, 85% tỉnh, thành phố và 90% quận, huyện đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước đang tiến tới phổ cập trung học cơ sở, giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số đã có những chuyển biến tích cực.
Hiện nay, chúng ta đang tích cực tiến hành một “cuộc cách mạng” về giáo dục với việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo tinh thần Nghị quyết 29-NQ/TW, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), bảo đảm cho giáo dục Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Theo lộ trình, bắt đầu từ năm học 2020 - 2021, ngành Giáo dục chính thức triển khai áp dụng chương trình giáo dục phổ thông mới ở bậc tiểu học.
Một trong những thành tựu trong gần 35 năm đổi mới được cộng đồng quốc tế ghi nhận là nền giáo dục Việt Nam có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng. Chúng ta đã hoàn thành mục tiêu đưa trẻ em đúng độ tuổi được đến trường, cơ bản hoàn thành phổ cập trung học cơ sở. Đến nay, Việt Nam đã có 700 trường đại học, học viện và trường cao đẳng với gần 73.000 giảng viên, hơn 16.500 tiến sĩ, 500 chương trình đào tạo, phối hợp với nhiều trường đại học trên thế giới và nhiều chương trình đào tạo kỹ sư chất lượng cao, cử nhân tài năng, chương trình tiên tiến theo chuẩn quốc tế.
Theo báo cáo được Ngân hàng Thế giới công bố ngày 15/3/2018, có 07 trong số 10 hệ thống giáo dục hàng đầu thế giới đang nằm ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương. Trong đó, sự phát triển thực sự ấn tượng thuộc về hệ thống giáo dục của Việt Nam và Trung Quốc. Tháng 6/2018, tổ chức Quacquarelli Symonds  (QS) - Vương quốc Anh - đã công bố kết quả xếp hạng trường tốt nhất thế giới năm 20192. Theo đó, lần đầu tiên Việt Nam có trường Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh trong top 1.000 trường đại học hàng đầu thế giới.
Bước sang thiên niên kỷ mới, Việt Nam cũng trở thành một trong những điểm sáng trên bản đồ giáo dục thế giới khi đăng cai và tổ chức thành công nhiều kỳ thi quốc tế, như: Olympic Toán học quốc tế 2007, Olympic Vật lý quốc tế 2008, Olympic Sinh học quốc tế 2016. Đặc biệt, thành tích của các đội tuyển học sinh Việt Nam tham dự các kỳ thi Olympic quốc tế cũng rất nổi bật. Trong 3 năm gần đây, 2017 đến 2019 đội tuyển Olympic quốc tế các môn: Toán, Vật lý, Hóa học, Tin học của Việt Nam đều đạt thứ hạng cao.
Đối với nhà giáo, từ lâu dân tộc Việt Nam đã có truyền thống tôn sư trọng đạo, mọi người, mọi nhà luôn trân trọng những người làm nghề dạy học. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chính sách hợp lý, để bảo đảm cho đội ngũ nhà giáo yên tâm gắn bó với sự nghiệp “trồng người”, góp phần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục nước nhà phát triển. Hầu hết các thầy, cô giáo đều yêu nghề, yêu người, không ngừng rèn luyện, phấn đấu hoàn thành tốt sứ mệnh cao cả của mình, xứng đáng với lòng tin yêu, kính trọng của toàn xã hội.
Những kết quả đã đạt được là minh chứng sinh động về thành tựu to lớn của nền giáo dục Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mặc dù trong thời gian qua, với nhiều nguyên nhân khác nhau, nền giáo dục nước ta còn tồn tại một số hạn chế, bất cập, song không vì thế mà xuyên tạc, phủ định nền giáo dục Việt Nam.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nói chung và ngành Giáo dục nói riêng đã và đang nỗ lực loại bỏ những tiêu cực, khắc phục những hạn chế, bất cập nhằm tiếp tục phát triển nền giáo dục nước ta ngang tầm khu vực và thế giới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ nâng cao dân trí, bồi dưỡng, phát triển nhân tài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
___________________
1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr 7.
2 - Bảng xếp hạng đại học thế giới Quacquarelli Symonds (QS World University Rankings) là bảng xếp hạng thường niên về thứ hạng các trường đại học trên thế giới của tổ chức giáo dục Quacquarelli Symonds (QS). Bảng xếp hạng đại học thế giới QS được đánh giá là một trong những bảng xếp hạng có uy tín và ảnh hưởng hàng đầu thế giới.

BÌNH LUẬN - PHÊ PHÁN PHÒNG, CHỐNG "DBHB" - "TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA"



Nhận diện để chống xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh dưới góc nhìn văn học
Xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh luôn là mục tiêu chống phá của các thế lực thù địch. Vì vậy, để thực hiện điều đó, chúng sử dụng nhiều hình thức, biện pháp; trong đó, dùng văn học, nghệ thuật là một thủ đoạn nguy hiểm. Vì thế, nhận diện để chống mưu đồ của các thế lực thù địch dưới góc nhìn văn học là việc làm vừa cấp thiết, vừa lâu dài.
Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho hoạt động sáng tạo của các thế hệ văn nghệ sĩ, ở mọi loại hình nghệ thuật. Chỉ tính riêng văn học, mảng văn thơ viết về Bác đã hình thành một dòng chảy lớn, với các tác giả Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Hoàng Trung Thông, Minh Huệ, Viễn Phương, Trần Đăng Khoa,… trong thơ; Sơn Tùng, Hồ Phương, Hoàng Quảng Uyên, Nguyễn Thế Quang,… trong văn xuôi; Đặng Thai Mai, Hoàng Xuân Nhị, Hà Minh Đức, Phong Lê, Phan Ngọc, Lê Xuân Đức, Đoàn Trọng Huy, Nguyễn Thanh Tú,… trong nghiên cứu, phê bình. Những năm gần đây, tiếp nối mạch cảm hứng từ cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Búp sen xanh (1981) và các tác phẩm khác viết về Bác của Sơn Tùng, một số tiểu thuyết, như: Cha và con (2007) của Hồ Phương viết về thời niên thiếu của Bác; Khúc hát những dòng sông (2013) của Nguyễn Thế Quang khắc họa những năm cuối đời của bà Hoàng Thị Loan - thân mẫu Bác Hồ; bộ ba tiểu thuyết Mặt trời Pác Bó (2010), Giải phóng (2013) và Trông vời cố quốc (2017) của Hoàng Quảng Uyên tái hiện cuộc đời của Bác từ lúc ra đi tìm đường cứu nước cho đến những ngày Cách mạng Tháng Tám và cuộc kháng chiến kéo dài chín năm đã làm sáng tỏ thêm chân dung vĩ đại Hồ Chí Minh. Đồng thời cho thấy, lòng kính yêu sâu sắc, niềm ngưỡng mộ không bao giờ vơi cạn của các nhà văn Việt Nam đối với Bác. Việc nghiên cứu, tìm hiểu, ca ngợi, tôn vinh cuộc đời và sự nghiệp của Bác vừa là niềm say mê tự nguyện, vừa là bổn phận thiêng liêng của không ít người cầm bút xưa nay.
Hình tượng Hồ Chí Minh đã trở thành một đề tài có sức hấp dẫn lớn, giữ vị trí đặc biệt trong văn học Việt Nam hiện đại. Trên thực tế, không chỉ các nhà thơ Việt Nam, mà còn có không ít nhà thơ trên thế giới viết về Người, như Madeleine Riffaud (Pháp), Ewan MacColl (Anh), Ernst Schumacher (Đức), Pavel Antokolsky (Nga), Georgi Veselinov (Bulgaria), Lisandro Otero (Cuba), Rene Depestre (Haiti), v.v. Nhà thơ Cuba Felix Pita Rodriguez khẳng định, bằng nhan đề một bài thơ của mình, Hồ Chí Minh - tên Người là cả một niềm thơ.
Những thập niên gần đây, một trong những mũi nhọn chống phá hàng đầu để thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là tập trung xuyên tạc, phủ nhận hình tượng Hồ Chí Minh. Chúng cho rằng, sở dĩ chế độ cộng sản ở Việt Nam còn tồn tại được đến ngày nay là nhờ nương tựa vào cái bóng của “huyền thoại Hồ Chí Minh”; do đó, muốn chế độ ở Việt Nam sụp đổ thì một trong những vấn đề quan trọng nhất là phải xóa bỏ được “thần tượng” này. Từ hải ngoại, chúng lan truyền các thông tin, luận điệu xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Một số đối tượng là nhà nghiên cứu, nhà báo, nhà văn ở trong nước và nước ngoài có quan điểm sai trái, lệch lạc cũng có những ấn phẩm mang hình thức văn học phụ họa, tiếp tay rất tích cực.
Các ấn phẩm, tài liệu mang yếu tố xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh - xuất hiện trong khoảng 30 năm qua - về mặt thể loại tồn tại cả ở hình thức hư cấu (truyện ngắn, tiểu thuyết) và phi hư cấu (hồi ký, nghiên cứu, phê bình). Có thể kể đến: Lê Hữu Mục với Hồ Chí Minh không phải là tác giả “Ngục trung nhật ký” (nghiên cứu, 1990), Trần Huy Quang với Linh nghiệm (truyện ngắn, 1992), Bùi Tín với Mặt thật (hồi ký, 1994), Vũ Thư Hiên với Đêm giữa ban ngày (hồi ký, 1997), Minh Võ với Hồ Chí Minh - nhận định tổng hợp (nghiên cứu, 2003), Dương Thu Hương với Đỉnh cao chói lọi (tiểu thuyết, 2009), v.v. Năm 2009, bộ phim tài liệu Sự thật về Hồ Chí Minh (được chủ trương bởi “Phong trào quốc dân đòi trả tên Sài Gòn”) ra đời tại cộng đồng người Việt ở Mỹ cũng là một sản phẩm “tiêu biểu” của chiến dịch “xóa thần tượng Hồ Chí Minh”. Nhìn chung, các ấn phẩm, tài liệu trên đều ít nhiều chứa đựng thông tin sai lạc về Hồ Chí Minh, được thể hiện trên các nội dung chủ yếu sau:
Trước hếtxuyên tạc về đời tư. Nhiều năm qua, đời tư của Hồ Chí Minh là khía cạnh các thế lực thù địch tập trung nhiều nhất sự xuyên tạc, bôi nhọ. Một số ấn phẩm văn học, tài liệu nghiên cứu ở hải ngoại cho rằng, Hồ Chí Minh không phải đã hy sinh cuộc đời riêng để tận hiến cho dân tộc mà từng có vợ, con và nhiều người tình. Qua đó, họ kết tội Hồ Chí Minh vô đạo đức vì không dám thừa nhận và nhẫn tâm bỏ mặc vợ con mình. Đó là những câu chuyện về quan hệ đời tư của Hồ Chí Minh được họ đề cập trong các hồi ký, bài báo, tiểu thuyết, tài liệu nghiên cứu. Một điểm chung là tất cả các thông tin này đều không có căn cứ rõ ràng, không đưa ra được bằng chứng thuyết phục nào để khẳng định đó là sự thật. Những lời kể chỉ là được “nghe nói lại” từ lời người khác; cả người nghe và người nói đều không phải nhân chứng, không phải người trong cuộc.
Thứ haixuyên tạc về nhân cách. Lâu nay các thế lực thù địch luôn xuyên tạc nhân cách cao đẹp của Hồ Chí Minh, tạo dựng lên một chân dung Hồ Chí Minh khác hẳn với con người thực. Chúng bịa đặt ra những câu chuyện trong đó Hồ Chí Minh được miêu tả như một con người tầm thường, bản năng và sống xa hoa hưởng lạc chứ không hề giản dị thanh bạch như “cộng sản tuyên truyền”. Những luận điệu trên chủ yếu được đưa ra từ những ấn phẩm xuất bản ở hải ngoại của một số kẻ chống cộng điên cuồng, như: Hoàng Quốc Kỳ, Nguyễn Thuyên, Việt Thường,… và được Minh Võ tập hợp, giới thiệu khái quát trong cuốn sách Hồ Chí Minh - nhận định tổng hợp, kèm theo những bình luận, nhận định hết sức cực đoan của chính Minh Võ. Ngoài ra, những chi tiết mang tính dung tục nhằm hạ thấp nhân cách Hồ Chí Minh còn xuất hiện dày đặc trong tiểu thuyết của Dương Thu Hương như một sự phụ họa ráo riết cho những ngụy ngôn của thế lực thù địch. Cũng như sự xuyên tạc về đời tư, những thông tin xuyên tạc về nhân cách trên đều không có bằng chứng cụ thể; nhiều thông tin trong đó chỉ mang tính vụn vặt, tiểu tiết, hẹp hòi, không đáng dùng làm căn cứ đánh giá con người Hồ Chí Minh với tầm vóc một vĩ nhân, một nhân vật quốc tế.
Thứ baphủ nhận quyền tác giả và xuyên tạc về tác phẩm. Trong cuốn sách Hồ Chí Minh không phải là tác giả “Ngục trung nhật ký”, Lê Hữu Mục (nguyên giáo sư Đại học Văn khoa Sài Gòn) “chứng minh” người viết cuốn Ngục trung nhật ký là “già Lý” (một người Hán đã ở trong tù cùng với Nguyễn Ái Quốc tại Hồng Kông), Hồ Chí Minh lấy tập thơ đó làm của mình. Những lý lẽ của Lê Hữu Mục mang tính chủ quan, áp đặt, suy diễn. Vì thế, năm 1993 đã bị học giả Phan Ngọc phản bác bằng những lập luận sắc sảo trong bài viết Câu chuyện tác giả “Ngục trung nhật ký”, và cuối năm 2019, lại bị bài viết của Phan Khả Minh (cùng tên với bài của Phan Ngọc) in trên Tạp chí Hồn Việt vạch trần thêm nhiều chỗ sai trái.
Thứ tư, phủ nhận tư tưởng yêu nước, dân tộc của Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - Người vừa là người yêu nước vừa là người cộng sản, vừa hy sinh vì dân tộc Việt Nam vừa nêu cao tinh thần quốc tế vô sản. Cả cuộc đời và sự nghiệp của Người đã nói lên điều đó. Nghị quyết về việc kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hồ Chí Minh của Đại hội đồng UNESCO tại Paris năm 1987 cũng khẳng định: “Chủ tịch Hồ Chí Minh, một biểu tượng xuất sắc về sự tự khẳng định dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”1. Nhưng, chối bỏ sự thật lịch sử, các thế lực thù địch đã cố tình phủ nhận điều này. Chúng cho rằng, Hồ Chí Minh không hề yêu nước thương dân mà suốt đời chỉ tôn thờ chủ nghĩa cộng sản quốc tế, làm tay sai cho Trung Quốc, Liên Xô, từ đó kết tội Hồ Chí Minh “bán nước”. Đây là quan điểm xuyên suốt của Minh Võ trong cuốn Hồ Chí Minh - nhận định tổng hợp; ông ta tán dương những tiếng nói cùng quan điểm (Tưởng Vĩnh Kính, Nguyễn Thuyên) và bài xích những quan điểm không đồng thuận với mình (Jean Lacouture, David Halberstam). Bên cạnh đó, Minh Võ còn đưa ra những nhận định phi lý, bất chấp thực tế khách quan.
Thứ nămphủ nhận sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và xây dựng nền móng chế độ mới của Hồ Chí Minh. Công lao trời biển của lãnh tụ Hồ Chí Minh đối với đất nước ta không chỉ là giành độc lập, tự do cho dân tộc, chấm dứt gần một trăm năm chế độ thuộc địa thực dân và hàng nghìn năm chế độ quân chủ phong kiến mà còn thiết lập nên nền móng cơ bản của một chế độ mới, xây dựng nền cộng hòa dân chủ với những bước đi từ không đến có ở hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề. Đó là sự thật không thể phủ nhận. Vậy mà, trong Đỉnh cao chói lọi (cuốn tiểu thuyết có nhân vật chính là “Chủ tịch nước” - một hình ảnh mô phỏng và xuyên tạc về Chủ tịch Hồ Chí Minh), Dương Thu Hương đã triệt để phủ nhận chế độ hiện tại ở Việt Nam, coi đó là một xã hội hạ đẳng, thụt lùi và quy tất cả trách nhiệm vào Hồ Chí Minh - người khai sinh chế độ. Phủ nhận công lao của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp kiến quốc, Dương Thu Hương phủ nhận cả thành quả của Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến do Đảng ta và Hồ Chí Minh lãnh đạo. Cái nhìn đen tối của nhà văn này không chỉ cho thấy sự cực đoan, phiến diện trong tư duy và nhận thức, mà còn bộc lộ cả sự bạc bẽo, vô ơn. Tương tự, truyện ngắn Linh nghiệm của Trần Huy Quang lại mô phỏng thời khắc người thanh niên Nguyễn Ái Quốc gặp chủ nghĩa Lênin với giọng điệu châm biếm, giễu nhại. Bằng lối viết ẩn dụ, truyện ngắn này phụ họa cho luận điệu của Nguyễn Thuyên - Minh Võ, rằng Hồ Chí Minh đã “chạy theo một chủ nghĩa ngoại lai để đem tai họa về cho dân tộc”2; đồng thời, xuyên tạc nhân cách lãnh tụ khi ám chỉ Hồ Chí Minh đã lợi dụng quần chúng nhân dân để đạt được mục đích của đời mình.
Như trên đã trình bày, nhiều năm qua, các tác phẩm văn học về đề tài Hồ Chí Minh chủ yếu là ca ngợi, tôn vinh hình tượng và di sản của Bác. Có rất ít bài viết trực tiếp đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc về Người. Trong khi đó, các thế lực thù địch có chủ trương, mục đích rõ ràng và ngày càng trắng trợn hơn trong chiến dịch “xóa thần tượng”, sử dụng nhiều trang mạng xã hội để chống phá quyết liệt. Bởi vậy, nhận diện đúng để đẩy mạnh đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh (trong văn học nói riêng, trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa nói chung) lúc này là cấp thiết. Song hiện nay, nhiều người cầm bút có tâm lý tránh né, ngại đấu tranh, ngại va chạm; nhiều tờ báo cũng e ngại việc tạo diễn đàn tranh luận những vấn đề chính trị. Không ít các văn nghệ sĩ chỉ có thiên hướng sáng tác về những vấn đề muôn thuở của con người, không muốn đi vào lĩnh vực chính sự. Giới trẻ (trong đó có các cây bút trẻ) một số ít quan tâm đến chính trị, thiếu hiểu biết về lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới và cuộc đời của các lãnh tụ. Một số người muốn phản biện, đấu tranh lại ít có điều kiện tìm kiếm, tiếp cận các ấn phẩm, tài liệu của “phía bên kia” và thiếu trình độ ngoại ngữ để đọc những công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh viết bằng các ngôn ngữ khác.
Để đẩy mạnh đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, cần nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh một cách hệ thống, toàn diện và hiểu biết sâu về cuộc đời cách mạng của Người. Đồng thời, cần nắm vững hệ thống văn bản, quan điểm của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Tuyên giáo Trung ương về văn hóa, văn học nghệ thuật. Cùng với đó, phải có những hiểu biết về văn hóa, văn học, sử học và tri thức về các ngành khoa học xã hội nhân văn khác; kết hợp hài hòa giữa “chống” và “xây”, giữa đấu tranh trực diện và đấu tranh gián tiếp trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng. Trong lĩnh vực văn học, việc tuyên truyền, giáo dục về tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh cho cán bộ và nhân dân cũng cần tiếp tục được tiến hành với hai hình thức: nghiên cứu và quảng bá sâu rộng các tác phẩm của Hồ Chí Minh; thúc đẩy hoạt động sáng tác về Hồ Chí Minh, làm sáng rõ tư tưởng và tấm gương đạo đức của Người qua tác phẩm của các văn nghệ sĩ. Bảo vệ tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là bảo vệ chân lý và sự thật, do đó, đây là công việc vừa cấp thiết vừa lâu dài.
1 - Về Nghị quyết của UNESCO vinh danh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 02-12-2019, dangcongsan.vn.
2 - Minh Võ – Hồ Chí Minh - nhận định tổng hợp, Tủ sách Tiếng Quê Hương, Virginia, Hoa Kỳ, 2006, Tập 1, tr. 237.




GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH LÀ KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN!



Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thể kỷ qua. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”.
 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH SOI SÁNG CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành, phát triển trên cơ sở kế thừa, chọn lọc những tư tưởng, giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, phù hợp với thực tiễn hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam. Cùng với đó là sự tiếp thu, tiếp biến và vận dụng sáng tạo tinh hoa văn hóa nhân loại: văn hóa phương Đông và phương Tây mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin; trong đó, nét đặc sắc chính là sự kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa phương Đông với thành tựu hiện đại của văn minh phương Tây và tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin trên nền tảng những tri thức văn hóa tinh túy, chắt lọc, hấp thụ được tích lũy qua thực tiễn. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành bởi tư duy, trí tuệ, phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn của Người. Đó cũng là quá trình tiếp thu, làm giàu, rèn luyện từ học tập, nghiên cứu, trải nghiệm thực tiễn, khám phá các quy luật vận động, đời sống văn hóa, xã hội và cuộc đấu tranh của các dân tộc vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội để khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn, kiểm nghiệm trong thực tiễn nên mang giá trị khách quan, cách mạng và khoa học.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; là kết quả của sự kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; không chỉ giải quyết vấn đề thuộc về tư duy lý luận mà cao hơn, đó là tư duy hành động. Trong khi tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với xu thế khách quan của thời đại, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Đặc sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, đạo đức và phong cách; là quan điểm và tấm gương mẫu mực của người chiến sĩ cộng sản trung thành và kiên định lý tưởng cách mạng, luôn đặt lợi ích của Đảng, dân tộc và nhân dân lên trên hết, luôn tận trung với nước, tận hiếu với dân; luôn cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư; là phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, phong cách làm việc dân chủ, khoa học; phong cách ứng xử văn hóa, nhân văn, trọng nghĩa tình, nói đi đôi với làm, sống giản dị, hòa đồng với thiên nhiên,v.v.. tự mình nêu gương về đạo đức cách mạng, thể hiện sinh động, tự nhiên, đầy cảm hóa trong công tác và ứng xử hằng ngày.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận và định hướng để Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng đường lối cách mạng đúng đắn, tổ chức lực lượng và lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sáng lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trong các cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và những thành tựu quan trọng về mọi mặt trong hơn 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn, quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta trên hành trình kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Không thể phủ nhận giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, song các thế lực thù địch không ngừng thực hiện âm mưu và hoạt động "diễn biến hòa bình”; những kẻ tự xưng là “người yêu nước”, người “bất đồng chính kiến” ở trong và ngoài nước đã lợi dụng internet, mạng xã hội để xuyên tạc, bóp méo và bôi nhọ thân thế, sự nghiệp, xuyên tạc và phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh khi nói và viết: “Hồ Chí Minh du nhập những tư tưởng ngoại lai vào Việt Nam”; “Hồ Chí Minh đi trên cỗ xe Nho giáo đến với chủ nghĩa Mác - Lênin”; “Tư tưởng Hồ Chí Minh là tư biện, lý thuyết, giáo điều”; tư tưởng Hồ Chí Minh là sự sao chép, máy móc chủ nghĩa Mác - Lênin, không phù hợp với thực tiễn hiện nay, bởi thế, cần từ bỏ nó để “kịp đi với con đường chung mà thế giới hiện nay đang đi” - con đường tư bản chủ nghĩa. Có những người tìm mọi cách đả kích, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, tấm gương đạo đức cách mạng của Người để “hạ bệ thần tượng” và lung lạc những người nhẹ dạ, cả tin để phủ nhận những giá trị cơ bản, đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Thậm chí, có người lại “cực đoan” đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng ở Việt Nam chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ và coi tư tưởng Hồ Chí Minh chính là chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam nên Việt Nam chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh để xuyên tạc và hạ thấp sự cống hiến của Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam và thế giới, hạ thấp tư tưởng của Người mà không hiểu và cố tình không hiểu rằng: Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho hành động của Đảng, tiếp tục dẫn dắt, soi đường cho Đảng và nhân dân Việt Nam trên con đường xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Những giọng điệu "lạc dòng", phủ nhận của một bộ phận những người không hiểu, thậm chí cố tình không hiểu đúng bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh đó không hề làm giảm đi giá trị tư tưởng của Người, vì “trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận vế cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc..." như Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 18/2/1995 của Bộ Chính trị khóa VII đã khẳng định.
ĐẢNG LẤY CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH LÀM NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG, KIM CHỈ NAM CHO HÀNH ĐỘNG
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa và Người nhận thấy: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”[2]. Người nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, thấm nhuần những chỉ dẫn của V.I.Lênin: “Chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”[3] để nỗ lực hoạt động, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam sau đó và khẳng định: Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt; "Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”, "bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[4]. Sau đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động và điều này được khẳng định trong Luận cương chính trị năm 1930 Đảng: “Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc”[5].
Trung thành với những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng Hồ Chí Minh không giáo điều mà nắm lấy tinh thần, bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin để vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam trong quá trình: 1) Thành lập Đảng và xây dựng Đảng cầm quyền; 2) Tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong tiến trình cách mạng; 3) Xây dựng nhà nước kiểu mới; 4) Xây dựng chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, bỏ qua chế độ chế độ tư bản chủ nghĩa… Lý luận Mác - Lênin là thế giới quan, nhân sinh quan, là lý luận tiên phong của thời đại được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. 
Cùng với thời gian, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không chỉ khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và tư tưởng của Người đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc ta mà còn nhấn mạnh tại Đại hội VI (12/1986) - Đại hội khởi xướng công cuộc đổi mới của Đảng: “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”[6]. Tại Đại hội VII (6/1991), Đảng nhấn mạnh việc phải “Nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh”[7]; thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991) và khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn đất nước để đề ra cương lĩnh chính trị đúng đắn và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân”[8]. Bước phát triển trong tư duy, nhận thức và hoạt động thực tiễn về nền tảng tư tưởng của Đảng này đã cho thấy cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận cơ bản cấu thành hệ tư tưởng, thế giới quan, phương pháp luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, sự khẳng định này cũng bảo đảm sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, thể hiện rõ ý chí kiên quyết đấu tranh đối với những những luận điệu sai trái, thù địch, đi ngược lại tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhận thức đầy đủ, sâu sắc giá trị to lớn, toàn diện cống hiến vô giá về lý luận, tư tưởng Hồ Chí Minh được thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới trong thế kỷ XX chứng thực, Đại hội IX (4/2001) của Đảng và khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại… Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”[9]. Tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định gồm 9 nội dung cơ bản: 1) Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. 2) Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. 3) Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. 4) Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. 5) Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. 6) Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. 7) Tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. 8) Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. 9) Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Tiếp đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động… Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là di sản tư tưởng và lý luận vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”[10]. Đây là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam.
TIẾP TỤC LÀM CHO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH LAN TỎA, THẤM SÂU TRONG ĐẢNG VÀ TRONG XÃ HỘI
Hồ Chí Minh đã đi xa hơn nửa thế kỷ, song tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng đầy gian truân song rất đỗi vĩ đại của Người đã là một tấm gương sáng cổ vũ các dân tộc yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý trên thế giới tham gia cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, hòa bình và tiến bộ xã hội. Thực tiễn những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước, nhất là trong hơn 30 năm đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam đã chứng minh sự kiên định, nắm vững và vận dụng sáng tạo, đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển bức thiết của cách mạng Việt Nam và phù hợp với quy luật phát triển của thời đại của Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường phát triển của dân tộc Việt Nam, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Ý nghĩa lịch sử và giá trị lý luận, thực tiễn của tư tưởng đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia và trở thành một phần giá trị của văn hóa nhân loại. Việt Nam đang đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế trong bối cảnh thuận lợi và thách thức đan xen, nhất là khi tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang diễn biến khó lường cùng những khó khăn, phức tạp trong đời sống xã hội. Thực tế, hệ thống quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, con đường, phương pháp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ xã hội mới ở Việt Nam là cơ sở cho đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn 90 năm xây dựng và phát triển; đồng thời, những thành tựu đã đạt được về mọi mặt ở Việt Nam là không thể phủ nhận; không chỉ phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp đấu tranh giải phóng trong thời đại cách mạng vô sản mà còn phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi trường tồn cùng dân tộc và thời đại vì đã thấm sâu vào quần chúng nhân dân, được minh chứng qua thực tiễn cách mạng Việt Nam và ngày càng tỏa sáng, in sâu trong trái tim, khối óc của hàng triệu triệu con người. Vì thế, việc tiếp tục giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh; việc kiên định mục tiêu, con đường phát triển độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là yêu cầu tất yếu khách quan của Đảng, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam giành thắng lợi mà còn góp phần giữ vững bản chất của một Đảng chân chính, cách mạng.
Để kiên định và bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất trong bối cảnh chuẩn bị Đại hội Đảng bộ các cấp và trước thềm Đại hội XIII của Đảng, toàn Đảng cần tập trung thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 9/2/2018 của Ban Bí thư khóa XII về “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới gắn với “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, một cách thiết thực, hiệu quả. Trong đó, cấp ủy các cấp, người đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị phải chú trọng nắm chắc tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân để kịp thời nhận diện và kiên quyết phòng, chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, ngăn chặn những diễn biến xấu về tư tưởng, chính trị, phòng và chống những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong  Đảng, trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ hai, chú trọng xây dựng, đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy về Hồ Chí Minh học từ đại học đến sau đại học, để đội ngũ cán bộ đó có trình độ chuyên môn chuyên sâu, có năng lực nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn tốt, góp phần bổ sung và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Xây dựng các lực lượng chuyên trách, thường trực, tác chiến nhanh, chính xác, làm xoay chuyển tương quan so sánh lực lượng trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, lý luận để thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” gắn với việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị nói chung, nâng cao tính hấp dẫn trong dạy và học môn tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng trong hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc trong Đảng và trong xã hội.
Thứ ba, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan báo chí, truyền thông, kết hợp chặt chẽ với tuyên truyền miệng, các kênh thông tin khác, xây dựng chuyên trang, chuyên mục tuyên truyền sát hợp thực tế để chủ động đấu tranh, phòng, chống và bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh trên báo chí, xuất bản, internet và mạng xã hội gắn với nhân rộng các gương điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đa dạng hóa các phương pháp, hình thức đấu tranh, phê phán những quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch về cuộc đời, sự nghiệp Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng kết hợp với đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, gắn với công tác kiểm tra, đánh giá, tự phê bình và phê bình để không chỉ bảo vệ mà còn góp phần củng cố niềm tin vào tư tưởng Hồ Chí Minh - cội nguồn sức mạnh, tài sản tinh thần vô giá của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong hành trình hướng đến tương lai.
Thứ tư, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; trong đó, cụ thể từng nội dung của chuyên đề hằng năm trong sinh hoạt của chi bộ, đoàn thể, trong các cuộc họp của cơ quan, đơn vị, trong các phong trào thi đua gắn với việc chủ động phòng, chống, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; coi đó là nhu cầu tự thân, nền nếp của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị và cá nhân, là một giải pháp căn cốt để bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần nâng cao tính tự giác trong học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp tục nỗ lực học tập và nghiên cứu toàn diện, sâu sắc, có hệ thống di sản tư tưởng tư tưởng Hồ Chí Minh để vận dụng trong thực tiễn và chủ động tuyên truyền, bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho tư tưởng của Người lan tỏa, thấm sâu trong Đảng và trong xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
[1] Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.99
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr. 562
[3] V.I. Lênin: Toàn tập, Bản Tiếng Việt, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1975, t.6, tr.32
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập,  Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.2, tr. 289
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998, t 2, t.100
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1987, tr.125
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1991, tr.127
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự Thật, Hà Nội 1991, tr.21
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.83-84

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.88

NHẬN DIỆN THÔNG TIN SAI LỆCH, XUYÊN TẠC



Việc đề cập bước đầu tới nhận diện thông tin sai lệch, xuyên tạc sẽ góp phần tạo cơ sở quan trọng cho việc đề xuất các giải pháp phòng chống, đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong tình hình hiện nay, nhất là trước thềm Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng.
Trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam, sự xuất hiện của làn sóng thông tin sai lệch, xuyên tạc đang diễn ra tác động mạnh mẽ đến nhận thức và hành động của mọi đối tượng xã hội, ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Có một số dấu hiệu nhận biết thông tin sai lệch như sau:
Một là, thông tin phản ánh không chính xác hoặc phản ánh một mặt, một khía cạnh mang tính phiến diện, đơn chiều, lệch lạc về sự việc, hiện tượng hay quá trình xã hội
Sự sai lệch của thông tin xã hội từ quá trình phản ánh của chủ thể. Thông tin xã hội là sự phản ánh các quá trình xã hội, song không phải bao giờ và lúc nào cùng phản ánh đúng cái khách quan vốn có. Sự phản ánh các hiện tượng, quá trình xã hội thông qua lăng kính chủ quan, có ý thức của con người. Xã hội là tổng hòa các mối quan hệ đa dạng và phức tạp. Thành viên xã hội lại đa dạng về độ tuổi, giới tính, văn hóa, tôn giáo, giai cấp... Quá trình phản ánh của các chủ thể do vậy rất khác nhau. Trong đó, sự khác nhau về lợi ích kinh tế cơ bản đem đến những phản ánh không giống nhau cơ bản khi phản ánh xã hội.
Một mặt, thông tin sai lệch về các hiện tượng, quá trình xã hội có thể do năng lực phản ánh của chủ thể. Chủ thể phản ánh yếu về năng lực hoặc đơn giản hóa hoạt động phản ánh của mình chắc chắn sẽ đem lại thông tin sai lầm. Thông tin chỉ là thông tin hiện tượng, thông tin về vẻ bề ngoài của các quan hệ xã hội mà không “với tới” bản chất sâu xa, ẩn dấu trong các hiện tượng, quá trình hay quan hệ xã hội. Đây là một dạng thông tin sai xuất phát từ năng lực phản ánh của chủ thể.
Bên cạnh đó, mỗi chủ thể phản ánh do những nhu cầu, lợi ích mà mình theo đuổi, những giá trị mà mình hướng tới, có thể cố tình phản ánh những hiện tượng, quá trình hay quan hệ xã hội theo kiểu “tô hồng, bóp méo” sự kiện. Sự sai lệch trong phản ánh một cách có chủ đích cũng có thể xảy ra trong việc tạo ra thông tin và đưa thông tin vào hệ thống lưu chuyển xã hội.
Bản chất của thông tin xã hội là phản ánh xã hội, song sự phản ánh này không đơn giản mà là sự phản ánh trong tính đa dạng, đa chiều của nó. Chính từ tính chất phức tạp của quan hệ xã hội mà thông tin xã hội cũng rất phong phú và đa dạng. Trên cơ sở một định hướng chung, thông tin xã hội phải bao quát nhiều lĩnh vực khác nhau. Sự khái quát càng cao thì ý nghĩa xã hội của thông tin càng thể hiện rõ.
Do những nguyên nhân khác nhau, thông tin xã hội chỉ phản ánh một mặt, một mối liên hệ, một khía cạnh của hiện thực xã hội, tách rời nó với chính các yếu tố hợp thành sự việc, hiện tượng hay quá trình xã hội, tuyệt đối hóa cái được phản ánh khiến cho thông tin trở nên sai lệch. Loại thông tin này thường xuất hiện chủ yếu khi chủ thể phản ánh (người thông tin) hạn chế về năng lực tư duy lý luận. Khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa không cao, chỉ nhìn thấy hiện tượng mà không thấy bản chất, phản ánh được cái hiện thời mà không thấy tính quy luật của sự tồn tại sự việc, hiện tượng xã hội.
Sự sai lệch của thông tin xã hội từ quá trình truyền phát, trung chuyển. Thông tin xã hội là kết quả của sự phản ánh xã hội. Để kết quả phản ánh trở thành thông tin xã hội thì tri thức đó phải được đưa vào hệ thống lưu chuyển xã hội, tức là khi được truyền từ người này qua người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Thông tin thuộc về phạm trù tinh thần, ý thức, song không thể tách rời khỏi giá đỡ vật chất của nó. Do vậy, trong quá trình truyền tin, sự tham gia của các loại hình vật chất (như ngôn ngữ, chữ viết, băng đĩa, tín hiệu... phong phú) có thể làm cho thông tin giữ nguyên vẹn, cũng có thể đã thay đổi, méo mó đi sự phản ánh ban đầu. Đây cũng là lý do tồn tại thông tin sai lệch. Ở phương diện vật chất trong quá trình thông tin, chúng ta có điều kiện vô cùng thuận lợi của cuộc cách mạng công nghệ thông tin đem lại. Song sự hiện đại và phát triển của công nghệ thông tin không đồng nghĩa với sự đảm bảo tính trung thực hoàn toàn cho thông tin mà nó chuyển tải, nhất là khi phương tiện đó được điều khiển bởi con người với các quan hệ phức tạp. Để đến được với đối tượng tiếp nhận, thông tin xã hội không phải là sự phản ánh một lần, sự phản ánh trực tiếp đối với các sự việc, hiện tượng hay quá trình xã hội. Trong quá trình lưu chuyển, thông qua nhiều hệ thống chuyển tải khác nhau, sự phản ánh gián tiếp, phản ảnh qua các khâu trung gian là nguyên nhân dẫn đến sự sai lệch của thông tin xã hội. Quá trình trung chuyển, mức độ trung thực, khách quan của thông tin phụ thuộc vào mục đích, phương thức truyền tin của các cơ quan thông tin. Do vậy, thông tin sai lệch còn tồn tại bởi yếu tố con người trong công tác thông tin, năng lực, ý chí của cá nhân và tổ chức các cơ quan thông tin trong xã hội hiện nay.
Sự sai lệch của thông tin xã hội được xem xét từ đối tượng tiếp nhận. Thông tin xã hội đem lại những lợi ích tương ứng với nhu cầu của đối tượng tiếp nhận. Thông tin xã hội không chỉ đơn thuần là tri thức được ghi nhớ trong ý thức mà sự khác biệt làm nên bản chất của thông tin xã hội là khả năng làm thay đổi nhận thức, hoàn thiện xúc cảm, tri thức, chi phối hành động của con người. Thông qua hoạt động thực tiễn, thông tin xã hội là cơ sở của quá trình cải tạo xã hội. Tất nhiên, sự thay đổi ấy không phải bao giờ cũng bộc lộ trực tiếp, ngay lập tức và cụ thể. Cùng một thông tin, mỗi đối tượng tiếp nhận (đồng thời là chủ thể tiếp nhận) có cách xử lý, sử dụng thông tin khác nhau theo nhu cầu, mục đích và những quan điểm riêng biệt.
Trong xã hội, quá trình thông tin là thường xuyên, liên tục. Mối quan hệ giữa chủ thể - đối tượng của quá trình thông tin nêu trên thường xuyên được chuyển hóa. Nghĩa là vai trò vừa là chủ thể vừa là đối tượng là phổ biến khi bàn đến lĩnh vực hoạt động thông tin. Do đó, sự sai lệch so với phản ánh ban đầu cũng có thể xuất hiện dưới màu sắc chủ quan của đối tượng nhận tin nhưng lại là chủ thể xử lý và tiếp tục truyền tin trong xã hội.
Hai là, sự phản ánh không mang tính thời sự, sự phản ánh thiếu tính lịch sử, cụ thể, tính hệ thống.
Tính thời sự của thông tin xã hội có thể đưa đến cho con người những thông báo về những sự kiện mới nhất, cho phép nhận thức đúng đắn, kịp thời và giúp cho việc giải quyết các nhiệm vụ của hoạt động xã hội một cách nhanh chóng và hiệu quả. Tính thời sự của thông tin xã hội phải được xem xét ở hai góc độ: Tính thời sự ở hệ phát hay ở hệ thu. Trên thực tế, tính thời sự của hai hệ này không phải bao giờ cũng song trùng. Xét về mặt thời gian, chỉ những thông tin nào đem lại cho chủ thể tiếp nhận thông tin những nhận thức mới một cách nhanh nhất mới đảm bảo tính thời sự.
Thông tin xã hội tự nó không có giá trị. Giá trị của thông tin xã hội gắn với tính thời sự và được xác định bởi người tiếp nhận và sử dụng nó; thể hiện rõ giá trị khi nó đáp ứng nhu cầu, mục đích của chủ thể tiếp nhận. Cùng một thông tin có thể không giống nhau về giá trị khi xem xét nó trên giác độ sử dụng cho những mục đích khác nhau. Thông tin được coi là có giá trị khi có sự hiện diện của chủ thể sử dụng thông tin với những mục đích xác định mà chủ thể đặt ra cho mình. Mục đích, lợi ích, nhu cầu của chủ thể sử dụng thông tin chính là dấu ấn chủ quan của thông tin xã hội.
Giá trị của thông tin xã hội không mất đi trong quá trình chuyển giao thông tin. Nếu người này chuyển thông tin cho người kia thì người giao và người nhận thông tin vẫn còn giá trị của thông tin đó. Song giá trị của một thông tin xã hội không giống nhau trong từng thời điểm sử dụng đối với cùng một chủ thể. Nếu thông tin được sử dụng cho một mục đích nào đó và mục đích đó đạt được thì đối với chủ thể, thông tin đã mất đi giá trị trực tiếp, mặc dù bản thân giá trị với tư cách là chất lượng của thông tin này vẫn tồn tại. Thời hạn sử dụng của thông tin không vô tận. Thông tin có thể trở nên lỗi thời do sự xuất hiện của những thông tin mới. Như vậy, giá trị của thông tin xã hội thể hiện ra như là một đặc trưng nhiều mặt của nó. Thông tin có thể là có giá trị xét theo nội dung nó phản ánh, theo chủ thể sử dụng, theo mục đích đạt tới của chủ thể tiếp nhận thông tin.
Như vậy, xét ở góc độ chủ thể, thông tin sai lệch, xuyên tạc về xã hội được thể hiện như là quá trình phản ánh cái đã qua, cái lỗi thời của các sự việc, hiện tượng hay quá trình xã hội. Xã hội vận động không ngừng, những mối quan hệ, những quá trình xã hội vốn không bao giờ lặp lại hay tồn tại vĩnh viễn. Thông tin là sự phản ánh cái mới nhất của sự tồn tại. Sự xuất hiện của thông tin sai lệch do không phản ánh được cái mới, cái hiện thời về bản chất của một hiện tượng xã hội có nhiều nguyên nhân mà nguyên nhân chủ yếu lại nằm ở sự lạc hậu trong cập nhật cái mới nhất về đối tượng. Có nghĩa là sự luẩn quẩn: không có thông tin mới - không có phản ánh mới và ngược lại tồn tại không hiếm ở lĩnh vực truyền thông, kể cả lĩnh vực nghiên cứu ở nước ta. 
Những phản ánh cũ về một hiện tượng không chỉ do sự trì trệ, lười biếng của người làm tin, truyền tin mà còn do chủ ý của một bộ phận xã hội theo những lợi ích mà họ hướng tới. Đó là sự tuyệt đối hóa phản ánh hoặc tích cực hoặc tiêu cực về một giai đoạn, một mối quan hệ xã hội theo một định hướng tư tưởng nào đó.
Xét ở góc độ đối tượng tiếp nhận, họ nhận thông tin không phản ánh cái mới nhất của xã hội cũng do nhiều nguyên nhân. Kiến thức phông nền của người tiếp nhận thông tin quá cũ, lạc hậu không đủ để họ tiếp nhận thông tin mới. Tâm lý “hoài cổ”, định kiến, hoài nghi khi đánh giá, tiếp nhận và xử lý thông tin cũng làm cho đối tượng khó có được thông tin mới nhất về đời sống xã hội.
Thông tin xã hội là sự phản ánh xã hội, tuy nhiên, thông tin xã hội không phải là sự phản ánh chung chung, mà bao giờ cũng gắn với một điều kiện, địa điểm và thời gian cụ thể, với một thời kỳ lịch sử cụ thể của sự phát triểnxã hội. Nói khác đi, thông tin xã hội bao giờ cũng là thông tin khi nào, cho ai và như thế nào.
Các hiện tượng hay quá trình xã hội luôn tồn tại cụ thể trong bối cảnh không gian, thời gian, trong các điều kiện và môi trường cụ thể. Tính cụ thể thể hiện ở cả sự tác động, vận hành của bối cảnh khách quan xác định, ở cả những tác động chủ quan của con người, bao gồm hệ thống quan điểm, chính sách, sự chi phối của các nhóm người, quốc gia, dân tộc và nhân loại. Vi phạm nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong quá trình phản ánh là nguyên nhân dẫn đến thông tin sai lệch, xuyên tạc.
Thông tin sai lệch do thiếu tính lịch sử cụ thể hiện nay xuất hiện khá nhiều do cả trình độ của người phản ánh, người tiếp nhận thông tin và do chất lượng của chính quá trình truyền tin. Trong xã hội, việc sử dụng và tạo ra những thông tin sai lệch do vi phạm tính lịch sử cụ thể cũng không phải là hiện tượng hiếm gặp. Bên cạnh đó, sự cố tình tách những phản ánh mang tính lịch sử ra khỏi bối cảnh của nó cũng là cách thức chống phá khá phổ biến của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng lý luận. 
Ba là, thông tin xuyên tạc nhằm mục đích chống phá của các thế lực thù địch.
Thông tin xã hội bao giờ cũng mang tính giai cấp. Mỗi giai cấp có thái độ khác nhau, cách sử dụng thông tin khác nhau. Mỗi thông tin dù trực tiếp hay gián tiếp bao giờ cũng mang dấu ấn của một hệ tư tưởng nhất định. Không thể và không thể có thông tin xã hội nằm ngoài những lợi ích và mục tiêu của các giai cấp, các đảng phái sử dụng nó. Đây là đặc điểm chủ yếu làm nên bản chất của thông tin xã hội, phân biệt thông tin xã hội với các dạng thông tin khác.
Các nhà xã hội học tư sản ra sức chứng minh tính phi giai cấp, phi tính đảng của thông tin. Họ viện dẫn rằng các thông tin đều là sự phản ánh chung và được truyền tải thông qua các phương tiện, công nghệ thông tin thống nhất trong việc xử lý, phổ biến thông tin. Điều này làm nên sự giống nhau của mọi thông tin xã hội. Song dù phương diện kỹ thuật của công tác thông tin như nhau thì thông tin xã hội không nằm ngoài những lợi ích và mục tiêu của các giai cấp sử dụng nó.
Sự phát triển của đất nước ta đang diễn ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế vô cùng phức tạp. Các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội, bất mãn chính trị không ngừng các hoạt động chống phá trên các lĩnh vực với nhiều âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, nhằm chia rẽ nội bộ, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Nội dung sự chống phá không mới, song hình thức, thủ đoạn chống phá thường xuyên thay đổi, sức công phá của thông tin chống phá này tăng mạnh mẽ hơn. Cách thức thông tin của các thế lực thù địch phổ biến hiện nay là sử dụng thông tin bịa đặt, xuyên tạc, thông tin chỉ có một phần sự thật, với dụng ý xấu. Ngoài ra, còn kể tới hiện tượng thông tin dưới danh nghĩa tự do tư tưởng, dân chủ, phi chính trị... phản ánh cái nhìn xét lại, công kích những sự kiện lịch sử đã diễn ra nhằm làm cho mọi người hoang mang, lung lay tư tưởng.
Bên cạnh đó, cuộc chiến chống tham nhũng của nước ta càng mạnh mẽ thì đồng thời thông tin xuyên tạc, bịa đặt, cố tình làm sai lệch chủ trương, phương thức lãnh đạo của Đảng với mục đích giảm niềm tin trong nhân dân vào đội ngũ cán bộ, đảng viên, vào vai trò của Đảng càng nhiều hơn, xuất hiện dày đặc hơn, cường độ bịa đặt xuyên tạc mạnh mẽ hơn. Mặt khác, lợi dụng giá trị của lòng yêu nước trong nhân dân, các thế lực thù địch thường xuyên xuyên tạc những vấn đề về chủ quyền biển đảo nhằm làm hoang mang trong nhân dân.
Đối với quần chúng nhân dân, nhận diện thông tin này không dễ bởi sự bịa đặt được thực hiện trên cơ sở một phần sự thật, lắp ghép sự phản ánh một cách phi logic, phi lịch sử nhưng lại “đánh trúng” tâm lý tò mò, đánh vào sự hoang mang dao động của một bộ phận nhân dân, cán bộ, đảng viên. Nếu không kịp thời và mạnh mẽ xử lý, những loại thông tin độc, xấu trên sẽ công phá nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng, sự tồn vong của Đảng, sự ổn định và phát triển xã hội Việt Nam hiện nay./.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...