Thứ Hai, 12 tháng 12, 2022

VIỆT NAM LUÔN LUÔN NHẤT QUÁN TÔN TRỌNG QUYỀN CON

 Tại họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao chiều 22/9, trả lời câu hỏi phóng viên về phản ứng của Việt Nam trước việc một số tổ chức nhân quyền quốc tế có ý kiến trái chiều khi Việt Nam ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng nêu rõ: "Chúng tôi hoàn toàn bác bỏ những nội dung sai sự thật, không khách quan với định kiến xấu mà một số tổ chức nước ngoài đã đưa ra về tình hình nhân quyền của Việt Nam".

Bà Lê Thị Thu Hằng nhấn mạnh chính sách nhất quán của Việt Nam là bảo vệ và thúc đẩy các quyền cơ bản của con người. Điều này đã được quy định cụ thể trong Hiến pháp 2013 và nhiều văn bản pháp luật có liên quan. Những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong vấn đề đảm bảo quyền con người thời gian vừa qua đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.

Bà Lê Thị Thu Hằng cho biết thêm, tháng 3/2022, Việt Nam đã công bố báo cáo giữa kỳ tự nguyện thực hiện các khuyến nghị mà Việt Nam đã tiếp nhận theo cơ chế giám sát định kỳ phổ quát về quyền con người (gọi tắt là UPR chu kỳ 3). Điều này thể hiện trách nhiệm quốc gia thành viên minh bạch và sự nghiêm túc của Việt Nam đối với cơ chế UPR nói riêng và trong việc thực hiện các cam kết quốc tế về đảm bảo quyền con người nói chung.

Việt Nam luôn tích cực thể hiện tinh thần hợp tác với các thủ tục đặc biệt của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, đồng thời cũng thường xuyên duy trì các cơ chế đối thoại song phương với một số nước, sẵn sàng cung cấp trao đổi các vấn đề hai bên cùng quan tâm trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở và tôn trọng lẫn nhau. Quan tâm bảo vệ và thúc đẩy các quyền cơ bản của con người là mục tiêu mà Việt Nam luôn hướng tới. Điều đó đã được quy định cụ thể trong Hiến pháp 2013, các văn bản pháp luật liên quan và được tôn trọng, tổ chức triển khai trên thực tế, được khẳng định qua những thành tựu mà Việt Nam đạt được hằng năm. Thế nhưng một số tổ chức, cá nhân thù địch vẫn cố tình bóp méo, xuyên tạc, phủ nhận những thành tựu bảo đảm nhân quyền của Việt Nam.

Thế nhưng, một số tổ chức đội lốt “Mạng lưới nhân quyền”, “Theo dõi nhân quyền” vẫn cố tình đưa ra cái gọi là “báo cáo” về tình hình nhân quyền thế giới năm 2022, trong đó có nhiều nội dung không khách quan dựa trên những thông tin chưa được kiểm chứng, phản ánh không đúng thực tế về bảo đảm quyền con người tại Việt Nam.

Cần phải khẳng định mạnh mẽ rằng, tại Việt Nam, không ai bị bắt giữ, xét xử chỉ vì “bày tỏ chính kiến” hay “bảo vệ dân chủ”, “bảo vệ nhân quyền” theo đúng nghĩa. Nhà nước Việt Nam luôn nỗ lực để bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do dân chủ của người dân. Tuy nhiên, cũng như mọi quốc gia trên thế giới, Việt Nam kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để vi phạm pháp luật, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.

Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, Điều 117, Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cụ thể như sau: 1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm: a) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân; b) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; c) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm gây chiến tranh tâm lý. 2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm. 3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm".

Về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, Điều 331, Bộ luật Hình sự 2017 quy định cụ thể như sau: 1. Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. 2. Phạm tội gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Như vậy, các hành vi làm, tàng trữ, phát tán, tuyên truyền, xuyên tạc những nội dung lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chính sách pháp lý của Nhà nước hoặc phỉ báng chính quyền nhân dân, tuyên truyền bịa đặt gây hoang mang trong quần chúng nhân dân hoặc tạo ra, làm ra những tài liệu, văn hóa phẩm có nội dung chống phá Nhà nước; lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì đều có nguy cơ bị xử lý hình sự với các mức phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, phạt tù từ 05 năm đến 12 năm, trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng có thể bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.

Tương tự, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin là một quyền cơ bản của công dân Việt Nam. Quyền này đã được hiến định trong Hiến pháp năm 2013 “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Ngoài ra, quyền này còn được cụ thể trong nhiều đạo luật quan trọng như Luật Báo chí, Luật An ninh mạng...

Không chỉ được quy định trong Hiến pháp, pháp luật. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do thông tin ở Việt Nam được thể hiện rõ trong thực tiễn qua sự phát triển đa dạng về loại hình và phong phú, sinh động cả về nội dung, hình thức của báo chí Việt Nam. Đặc biệt, trong thời công nghệ 4.0 hiện nay hơn 70% dân số Việt Nam sử dụng mạng Internet và mạng xã hội. Qua các kênh thông tin, với tinh thần trách nhiệm và ý thức xã hội, công dân Việt Nam hoàn toàn có thể phản biện đường lối, chủ trương, chính sách; cung cấp thông tin, đóng góp ý kiến với Đảng, chính quyền; bày tỏ tâm tư, nguyện vọng... nhưng phải theo đúng quy định của pháp luật. Thực hiện chủ trương mở rộng dân chủ, các cấp ủy Đảng, chính quyền từ Trung ương tới cơ sở, ở Việt Nam luôn lắng nghe, tiếp thu và giải quyết kịp thời mọi ý kiến, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của công dân, nhằm phát huy trí tuệ, tâm huyết của toàn dân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Như vậy, có thể nói pháp luật Việt Nam quy định rất đầy đủ và rõ nét về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” và tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ… xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Ở đây hoàn toàn không có chuyện “mơ hồ” hay “mập mờ”… nào cả.

Hành vi vi phạm pháp luật của các đối tượng mà một số tổ chức, cá nhân dẫn ra rõ như ban ngày và ảnh hưởng rất nghiêm trọng đối với xã hội. Quá trình điều tra, xét xử và giam giữ đối với các loại tội phạm nêu trên được tiến hành theo đúng các quy định của pháp luật; quyền của người bị giam giữ được bảo đảm, không có ai bị đàn áp ở đây. Những bản án mà họ phải nhận là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại Việt Nam, không ai bị bắt giữ, xét xử vì “bày tỏ chính kiến” đúng pháp luật.

Chúng ta chẳng lạ gì chiêu trò lợi dụng các vụ việc để vu khống Nhà nước Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận, đàn áp, bắt bớ, giam giữ, xử tù những người “bày tỏ chính kiến”, mà các thế lực thù địch, phản động vẫn thường dùng. Có thể nói với sự rõ ràng, khách quan, minh bạch của pháp luật Việt Nam, các thế lực thù địch không thể trắng trợn dựng chuyện, đổi trắng thay đen, bóp méo, xuyên tạc hòng thay đổi bản chất của các vụ án được.

Bằng những hành động mạnh mẽ, thiết thực, nhất định chúng ta sẽ đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của một số tổ chức, cá nhân thù địch. Thanh danh của Đảng, uy tín của Nhà nước, bản chất ưu việt của chế độ XHCN là không thể xúc phạm, không thể bôi nhọ, đó là điều khẳng định.         

ĐẠP TAN MƯU ĐỒ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA

 Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng giải quyết tốt vấn đề dân tộc và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trên tất cả các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh.

Tuy nhiên, trong thực tiễn việc giải quyết vấn đề dân tộc ở nhiều nơi vẫn tồn tại một số hạn chế, bất cập. Lợi dụng vấn đề đó, trong nhiều năm qua các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chỉ đạo, tài trợ, nuôi dưỡng, cử cố và thành lập những tổ chức, hội, nhóm trong đó có nhiều tổ chức chính trị phản động đội lốt các tổ chức xã hội, văn hoá, tôn giáo... của người Việt Nam ở nước ngoài, trong đó có không ít thuộc một số người thuộc dân tộc thiểu số, nhằm tập hợp những đối tượng tham gia chế độ nguỵ quân, nguỵ quyền cũ, trí thức và người có tư tưởng cực đoan, bất mãn để làm công cụ thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, chống phá Đảng và Nhà nước ta.

Thực tiễn cho thấy, nhiều chính sách lớn về phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi đã được ban hành thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thông qua các văn bản chỉ đạo như Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới; các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI, XII, XIII luôn xác định công tác dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách, là nhiệm vụ của Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị. Đặc biệt, Quốc hội khóa XIV đã phê duyệt Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030; Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1014/QĐ-TTg ngày 14/7/2020 về thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình MTQG phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030.

Những kết quả được nêu trên đã chứng minh công tác dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị. Huy động mọi nguồn lực đầu tư để phát triển KT-XH vùng DTTS và miền núi, vùng ĐBKK, đảm bảo phát triển bền vững gắn liền với an sinh xã hội, để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào DTTS. Thu hẹp dần khoảng cách về mức sống so với vùng phát triển, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; đẩy lùi các tệ nạn xã hội, nâng cao mặt bằng dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, nhất là cán bộ DTTS đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.

Để phòng, chống hiệu qủa việc lợi dụng vấn đề dân tộc chống phá nước ta của các thế lực thù địch, trước hết chúng ta cần nhìn nhận và đặt vấn đề này trong bối cảnh mới; Trong bối cảnh như vậy, công tác nghiên cứu và công tác dân tộc đặt ra yêu cầu cần tiếp tục nghiên cứu cơ bản, tổng kết lý luận và thực tiễn nhằm xây dựng hệ thống cơ sở lý luận vững chắc, giải pháp khả thi để góp phần thực hiện thành công các chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời chủ động phòng, chống hiệu quả hơn những nội dung và luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tộc người để chống phá Đảng, Nhà nước ta hiện nay.

VIỆT NAM LUÔN NHẤT QUÁN QUAN ĐIỂM, ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI, HỘI NHẬP QUỐC TẾ

 Trong thời gian qua, các thế lực thù địch đã lợi dụng các phương tiện truyền thông, nhất là mạng xã hội để xuyên tạc, phủ nhận đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta; tập trung chủ yếu vào những vấn đề sau: chúng xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước Việt Nam, cho rằng đường lối, chính sách đó đã “lạc hậu, lỗi thời”, “không còn phù hợp”, nhất là trong tình hình hiện nay;  chúng bóp méo, xuyên tạc rằng chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, cân bằng quan hệ với các nước lớn của Việt Nam là “đường lối trung dung”, là “đi dây” trong quan hệ với các nước lớn, như thế là “tự cô lập” mình, “tước đi cơ hội hợp tác với các nước lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”…

Thực tiên cho thấy,  hơn 36 năm qua kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Việt Nam luôn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Chỉ có nhất quán và thực hiện tốt đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, không phụ thuộc thì Việt Nam mới có thể tận dụng tốt nhất các cơ hội, điều kiện thuận lợi phục vụ cho sự phát triển đất nước.

Từ rất sớm, tư tưởng độc lập, tự chủ đã trở thành “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt, là nguyên tắc cơ bản định hướng các hoạt động đối ngoại từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến nay. Độc lập, tự chủ vừa là đường lối, vừa là nguyên tắc bất biến để chúng ta bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trước mọi tác động và những biến động của thời cuộc, khẳng định tính đúng đắn của đường lối đối ngoại Việt Nam. Độc lập có nghĩa là chúng ta tự “điều khiển mọi công việc” của mình, “không có sự can thiệp ở ngoài vào”; không để bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước ta. Độc lập, tự chủ phải dựa trên cơ sở nội lực, thực lực của đất nước, đồng thời cũng dựa vào hợp tác và hội nhập quốc tế. Đây là nguyên tắc cốt lõi của đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Việt Nam trong suốt thời gian qua.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã chỉ rõ đường lối đối ngoại của Việt Nam là: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Kế thừa và phát triển quan điểm chỉ đạo đó, tại các kỳ Đại hội, Đảng ta vẫn tiếp tục kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ.

Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hiệp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Đồng thời, nhấn mạnh bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và sự quản lý tập trung của Nhà nước với các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; đẩy mạnh đối ngoại song phương với nâng tầm đối ngoại đa phương.

Vì vậy, những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam là đi ngược lại lợi ích chung của đất nước và Nhân dân; là sự phủ nhận trắng trợn những thành tựu của Việt Nam trong việc thực hiện chính sách đối ngoại. Những thành tựu không thể phủ nhận của chính sách và công tác đối ngoại của nước ta trong thời kỳ đổi mới chính là minh chứng để khẳng định đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta; vừa là luận cứ xác đáng để đấu tranh bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Tỉnh táo nhận diện những luận điệu đó để có cách thức đấu tranh hợp lý chính là cách để mỗi chúng ta tiếp tục bảo vệ hiệu quả nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.

ĐẢNG VÀ BÁC HỒ, NHÀ NƯỚC TA LUÔN QUAN TÂM ĐẾN QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG CỦA NHÂN DÂN

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Sự tồn tại và hoạt động của các tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh của đất nước. Nhận thức rõ điều đó, kế thừa những giá trị tinh hoa của truyền thống văn hóa dân tộc và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sớm hình thành nên tư tưởng tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Năm 1927, trong tác phẩm Đường Cách mệnh, ở bài viết “Cách tổ chức Công hội”, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Ai là thợ thuyền thì được vào hội, dù tin Phật, tin đạo, tin cộng sản, tin vô chính phủ, tin gì cũng mặc, miễn là theo đúng quy tắc hội là được. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Người luôn khẳng định: Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người, là quyền lợi của nhân dân; mọi hạn chế, vi phạm quyền ấy là đi ngược lại với xu thế tiến bộ của xã hội và Chính phủ phải đảm bảo thực thi quyền đó. Sau này, trên cương vị Chủ tịch Đảng, Chủ tịch Nước, trong các bài nói, bài viết, các văn bản, sắc lệnh… quan trọng, Hồ Chí Minh luôn thể hiện rõ tư tưởng nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Sự tôn trọng ấy không chỉ thể hiện trên văn bản, lời nói mà cả trên hành động thực tiễn.

Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí minh nêu 6 nhiệm vụ cấp bách; trong đó, Người đề nghị Chính phủ tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết. Trong cuộc tổng tuyển cử bầu ra các Đại biểu Quốc hội khóa I, Người tuyên bố: hễ ai là người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ ai là công dân thì đều đi bầu cử, không chia rẽ gái, trai, giàu, nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam đều có hai quyền trên.

Để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân được thực thi, Hồ Chí Minh cho rằng, về nguyên tắc: hoạt động của các tổ chức tôn giáo phải tuân theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Với tinh thần đó, Người chỉ đạo Chính phủ xây dựng các chủ trương, giải pháp tổ chức thực hiện có hiệu quả các quyền đó trong đời sống hiện thực của đất nước; đồng thời, Người đã trực tiếp ký, ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định cụ thể về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người dân. Hiến pháp đầu tiên (thông qua ngày 2-3-1946) của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ghi rõ: mọi công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng; Sắc lệnh số 234/SL ngày 14-6-1955 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, Điều 1 đã ghi: Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng, quyền theo hoặc không theo bất cứ tôn giáo nào, quyền “tự do giảng đạo tại cơ quan Công giáo”. Điều 5 của Sắc lệnh này còn thừa nhận các tổ chức tôn giáo có quyền mở trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo. Trên cơ sở nguyên tắc đã nêu, Người xử lý một cách hết sức mềm dẻo và thành công các vấn đề nảy sinh trong quan hệ giữa các tôn giáo, giữa lương - giáo, giữa tôn giáo với chính quyền.Tháng 5/2022 vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra “Báo cáo tình hình nhân quyền thế giới”, trong đó có những thông tin sai lệch về vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam với các góc nhìn phiến diện, dẫn chứng thiếu khách quan. Với 52 trang, bên cạnh sự ghi nhận những mặt tích cực của Việt Nam về vấn đề dân chủ, nhân quyền trong năm qua, báo cáo cho rằng: “Việt Nam đã bắt giữ, tra tấn, tước đoạt mạng sống của người dân một cách tùy tiện”; “can thiệp vào đời sống riêng tư của người dân”; “hạn chế quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet”... Trong đó, báo cáo nói đến tình hình tự do tôn giáo, tín ngưỡng của người dân, đồng thời đưa ra các chỉ trích chính quyền Việt Nam phân biệt đối xử người dân theo đạo và không theo đạo.

Thực tiễn cho thấy, Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, đa tôn giáo. Theo thống kê chưa đầy đủ cho thấy, Việt Nam có khoảng 95% dân số có đời sống tín ngưỡng và tôn giáo (trong hàng nghìn tín ngưỡng thì tín ngưỡng phổ biến là thờ cúng ông bà tổ tiên và tín ngưỡng thờ Mẫu). Tính đến nay, cả nước có khoảng 45.000 cơ sở tín ngưỡng, trong đó có hơn 2.900 di tích gắn với cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, một số di tích được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Hàng năm, Việt Nam có gần 13.000 lễ hội, gồm 5 loại: lễ hội dân gian, lễ hội lịch sử cách mạng, lễ hội tôn giáo, lễ hội du nhập từ nước ngoài, lễ hội văn hóa - thể thao và ngành nghề.

Số lượng tín đồ, chức sắc, cơ sở thờ tự, trường đào tạo, số lượng kinh sách được xuất bản của các tôn giáo tăng lên nhanh chóng trong thời gian qua, những hoạt động quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo ngày càng được mở rộng và thực tế hoạt động sôi động của các tổ chức tôn giáo hiện nay là những minh chứng rõ nhất cho những thành tựu của việc tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, ở Việt Nam xuất hiện không ít hoạt động tôn giáo trái pháp luật của một số tổ chức Tin Lành nước ngoài chưa được cấp phép, điển hình là các đạo lạ mang danh nghĩa Tin Lành truyền vào Việt Nam như Tân Thiên địa, Hội thánh của Đức Chúa Trời mẹ... Hoạt động của phần lớn các tổ chức này trái với văn hóa truyền thống của dân tộc, nhuốm màu mê tín dị đoan, có dấu hiệu trục lợi, nhiều tổ chức vi phạm pháp luật. Đối với các hoạt động vi phạm pháp luật của các tổ chức này, lực lượng chức năng Việt Nam đã nhắc nhở, chấn chỉnh và xử lý dựa trên quy định pháp luật.

Từ những minh chứng thực tiễn sinh động tren có thể khẳng định, Đảng, Bác Hồ và Nha nước ta luôn tôn trọng và tạo điều kiện cho tôn giáo phát triển, ở Việt Nam hoàn toàn không có cái gọi là đàn áp tôn giáo. Việc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và một số quốc gia phương Tây thường xuyên tổ chức các cuộc điều trần về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia “không có tự do tôn giáo” cũng chỉ nhằm mục đích tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.

Vì vậy, những luận điệu cho rằng những chính sách tôn giáo của Việt Nam không phù hợp với luật pháp quốc tế là vô căn cứ. Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của người dân; nỗ lực bảo đảm cho các tôn giáo được hoạt động bình thường trong khuôn khổ pháp luật.

MANG DANH TỰ DO TÔN GIÁO, USCIRF LẠI HÀNH ĐỘNG LẠC LỐI

 Ủy ban Tự do Tôn giáo quốc tế của Hoa Kỳ (USCIRF) vừa đưa các bị cáo Lê Tùng Vân, Lê Thanh Hoàn Nguyên, Lê Thanh Nhất Nguyên, Lê Thanh Nhị Nguyên, Lê Thanh Trùng Dương, Cao Thị Trúc vào danh sách “Nạn nhân tự do tôn giáo và niềm tin” toàn cầu. Hành động này đang đi ngược với giá trị chân chính của tôn giáo.

Lâu nay, dư luận bức xúc trước những lùm xùm tại Tịnh thất Bồng Lai (xã Hòa Khánh Tây, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An) bởi nơi đây có nhiều vi phạm, đặc biệt là hành vi phạm pháp của ông Lê Tùng Vân và các đồng phạm. Theo kết luận của cơ quan chức năng, từ năm 2016, Lê Tùng Vân và một số người khác đến ở tại số 191A, ấp Lập Thành, xã Hòa Khánh Tây, huyện Đức Hòa, Long An do bà Cao Thị Cúc làm chủ hộ. Lê Tùng Vân biến nơi đây thành cơ sở tu tại gia theo Phật giáo, lấy tên “Tịnh thất Bồng Lai” nhưng không được ngành chức năng và Giáo hội Phật giáo tỉnh Long An công nhận. Lê Tùng Vân đổi tên cơ sở này thành “Thiền am bên bờ vũ trụ” để tiếp tục hoạt động.

Từ năm 2019 - 2021, Lê Tùng Vân đã cầm đầu, chỉ đạo Lê Thanh Hoàn Nguyên (32 tuổi), Lê Thanh Nhất Nguyên (31 tuổi), Lê Thanh Trùng Dương (27 tuổi), Lê Thanh Nhị Nguyên (24 tuổi) và Cao Thị Cúc (62 tuổi) sử dụng máy tính, điện thoại di động để đăng lên Facebook và Youtube thông tin sai sự thật, xuyên tạc nhằm tuyên truyền, kích động, xúc phạm uy tín của Công an huyện Đức Hòa (Long An), xúc phạm Phật giáo, xúc phạm danh dự và nhân phẩm ông Trần Ngọc Thảo (pháp danh Thích Nhật Từ), gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội ở địa phương.

Tổng cộng, có 5 video và 1 bài viết trên mạng xã hội của nhóm người này được phân tích, giám định và xác định là hành vi có tổ chức. Ngoài ra, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Long An đang điều tra về hành vi lừa đảo xảy ra tại “Tịnh thất Bồng Lai”. Cụ thể, Công an tỉnh Long An nhận được nhiều đơn tố cáo Lê Tùng Vân và những cá nhân sinh sống ở “Tịnh thất Bồng Lai” có hành vi giả sư, giả trẻ mồ côi để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các nhà hảo tâm.

Vụ việc đã gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Liên quan đến vụ án này, ngày 21/7/2022, sau 2 ngày xét xử, TAND huyện Đức Hòa tuyên phạt Lê Tùng Vân 5 năm tù về tội“Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân” theo khoản 2, Điều 331, Bộ luật Hình sự. Với vai trò đồng phạm, bị cáo Lê Thanh Nhất Nguyên (30 tuổi), Lê Thanh Hoàn Nguyên (31 tuổi) và Lê Thanh Trùng Dương (27 tuổi) bị phạt mỗi người 4 năm tù. Bị cáo Lê Thanh Nhị Nguyên lĩnh 3 năm 6 tháng tù, bị cáo Cao Thị Cúc 3 năm tù.

Ngày 3/11/2022, sau 2 ngày xét xử phúc thẩm, HĐXX TAND tỉnh Long An đã bác kháng cáo, đồng thời tuyên y án bị cáo Lê Tùng Vân 5 năm tù. Các bị cáo cũng giữ mức án như sơ thẩm. Cũng theo HĐXX, nhận định của tòa sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo, tuyên đúng người, đúng tội, không oan sai. Các bị cáo đã lợi dụng quyền tự do dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước nên không có cơ sở giảm nhẹ hình phạt.

Tuy nhiên, ngay sau khi phiên tòa phúc thẩm xét xử, USCIRF đã đưa Lê Tùng Vân, Lê Thanh Hoàn Nguyên, Lê Thanh Nhất Nguyên, Lê Thanh Nhị Nguyên, Lê Thanh Trùng Dương, Cao Thị Trúc vào danh sách “Nạn nhân tự do tôn giáo và niềm tin” toàn cầu. Hành động này đang đi ngược với giá trị chân chính của tôn giáo. Một số cá nhân chống đối vin lý do này cũng hùa theo, có những bình luận sai trái, đả phá chính quyền.

Lê Tùng Vân là đối tượng chống đối, không có đóng góp gì cho hoạt động tôn giáo ở Việt Nam. Tự bào chữa cho mình và trả lời trước phiên tòa, bị cáo Lê Tùng Vân cho biết “Tôi không theo tôn giáo nào, chưa có vợ con và mong được lấy vợ”! Trong khi đó, các hành vi vi phạm pháp luật của Lê Tùng Vân đã được Công an tỉnh Long An thu thập đầy đủ chứng cứ và toà sơ thẩm, phúc thẩm đã xem xét, xử lý theo đúng quy định của pháp luật, được dư luận đồng tình. Việc USCIRF lấy danh nghĩa tôn giáo để lên tiếng bênh vực cho các đối tượng vi phạm pháp luật, câu hỏi đặt ra là tổ chức này có đại diện cho những người theo tôn giáo chân chính hay lợi dụng tôn giáo để can thiệp vào nội bộ nước khác? USCIRF đã cố tình làm ngơ trước các chứng cứ mà các cơ quan chức năng Việt Nam thu thập, chứng minh hành vi sai phạm của những người trong cái gọi là “tịnh thất” này. Kết quả điều tra cho thấy, “Tịnh thất Bồng Lai” chỉ là mạo xưng, những người ở đây không phải là tu sĩ Phật giáo, không do Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Long An quản lý.

Các đối tượng lợi dụng danh nghĩa tu sĩ Phật giáo, hình thức cơ sở của giáo hội, lợi dụng hình thức nuôi những người cơ nhỡ làm từ thiện để trục lợi cho mình. Đó là vi phạm về pháp luật, ảnh hưởng đến uy tín của Tổ chức Phật giáo thế giới mà trực tiếp là tổ chức Phật giáo ở Việt Nam. Liên quan đến vụ việc ở “Tịnh thất Bồng Lai”, hiện nay, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Long An đã tiếp tục phục hồi tin báo tố giác tội phạm và khởi tố thêm tội danh “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Riêng tin báo về hành vi loạn luân, Cơ quan An ninh điều tra đang chờ văn bản trả lời của cơ quan chuyên môn để làm căn cứ xem xét, giải quyết. 

Cần nói thêm rằng, từ năm 2012 đến nay, USCIRF liên tục đề nghị đưa Việt Nam vào danh sách “Các nước cần quan tâm đặc biệt - CPC” bất chấp những thành tựu về đảm bảo các các quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. USCIRF đã cố tình áp đặt những định kiến chủ quan của họ để đưa ra những nhận xét sai lệch, thiếu khách quan về tình hình tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Với hành động sai lệch như vậy, mục đích của USCIRF đã hậu thuẫn, tiếp sức cho những công dân Việt Nam vi phạm pháp luật núp dưới vỏ bọc “đấu tranh cho tự do tôn giáo”, “dân chủ, nhân quyền” để xâm phạm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo cớ cho bên ngoài can thiệp nội bộ.

Thực tiễn cho thấy, Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc trong việc đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, chưa bao giờ các tôn giáo có điều kiện phát triển như hiện nay. Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật, đồng thời nghiêm cấm hoạt động lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và của công dân. Thời gian qua, các cơ quan chức năng ở một số địa phương như Nghệ An, Hà Tĩnh, Đồng Nai, Long An… đã bắt giữ, xử lý một số trường hợp là chức sắc, tín đồ tôn giáo và cá nhân khác vì đã có hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống người thi hành công vụ, cản trở hoạt động của các cơ quan Nhà nước, của người dân, truyền bá mê tín dị đoan, phát triển tà đạo hoặc các tôn giáo chưa được Nhà nước công nhận, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, trật tự. Đó là việc bắt, xử lý các đối tượng về hành vi phạm tội theo quy định của Bộ luật Hình sự chứ không hề có chuyện bắt vì hoạt động tôn giáo, không có chuyện chính quyền “đàn áp, bắt bớ” trái pháp luật các tín đồ, chức sắc tôn giáo như USCIRF đã nêu trong báo cáo.

Một tổ chức quốc tế về tôn giáo lẽ ra phải đại diện cho danh dự, giá trị chân chính của chính đạo chứ tại sao lại cổ vũ, bênh vực cho những kẻ bệnh hoạn, đi ngược với lương tri nhân loại, chà đạp lên giá trị đạo đức? Điều đó cho thấy, tổ chức này không đại diện cho những người theo tôn giáo chân chính, không vì sự phát triển xã hội và hòa bình thế giới mà lại lấy danh nghĩa tôn giáo để thực hiện động cơ, ý đồ riêng. Thiết nghĩ, USCIRF với cái tên mang tính nhân quyền “Uỷ ban Tự do Tôn giáo quốc tế của Hoa Kỳ” thì cần phát ngôn và hành động cho đúng với danh xưng đó, cần có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan, đúng sự thật về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, tránh đưa ra những đánh giá sai lệch, xuyên tạc.

ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO GÓP PHẦN TẠO NÊN SỨC MẠNH DÂN TỘC

 Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm vấn đề đoàn kết tôn giáo, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết tôn giáo gồm đoàn kết giữa đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo với đồng bào không có tín ngưỡng tôn giáo; đoàn kết giữa đồng bào theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; và đoàn kết giữa đồng bào trong cùng tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệpcách mạng.

Trong lịch sử trường tồn của dân tộc Việt Nam thành phần dân tộc không thể thiếu đó là tôn giáo, với sự tồn tại của hầu hết các tôn giáo lớn trên thế giới; những tôn giáo này cùng tôn giáo nội sinh đồng hành với những thăng trầm của lịch sử dân tộc. Những chuẩn mực đạo đức tích cực, nhân văn của tôn giáo đã hòa nhập vào đời sống xã hội, góp phần tạo nên những chuẩn mực đạo đức, văn hóa. Những giá trị văn hóa tốt đẹp, tiến bộ của tôn giáo đã góp phần tạo nên sự phong phú, đặc sắc của nền văn hóa dân tộc Việt Nam.

Với chính sách tôn giáo đúng đắn, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền theo hoặc không theo tôn giáo của mọi người, các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật, Việt Nam đã và đang đạt được nhiều thành tựu trong việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; số lượng chức sắc, chức việc, cơ sở thờ tự ngày càng gia tăng; quy mô hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo lớn; chính quyền các cấp đảm bảo an ninh trật tự, phòng chống cháy nổ, vệ sinh an toàn thực phẩm đối với các hoạt động tôn giáo có đông người dân và du khách nước ngoài tham dự.

Quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo, trong suốt quá trình phát triển của cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Trong công tác tôn giáo thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định nhiệm vụ: Tăng cường đoàn kết lương giáo, đoàn kết toàn dân; Ra sức chăm lo đời sống vật chất, văn hóa, nâng cao trình độ mọi mặt của đồng bào có đạo; Thực hiện tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng trên cơ sở pháp luật. Đảng ta nêu rõ: Đồng bào có đạo đa số là nhân dân lao động có lòng yêu nước, đã góp phần cùng toàn dân phấn đấu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều chức sắc tiến bộ trong các tôn giáo đã làm tốt việc đạo, việc đời, hướng dẫn tín đồ chấp hành đúng các chính sách của Nhà nước.

Tại Nghị quyết 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Đảng ta tiếp tục chỉ rõ: Đồng bào các tôn giáo đã có những đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết đặc biệt nhấn mạnh yếu tố đoàn kết: Đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo.Phát biểu tại Hội nghị Trung ương 7 khóa IX, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh nhấn mạnh: Vấn đề đại đoàn kết dân tộc, công tác dân tộc và tôn giáo là những vấn đề chính   trị lớn, có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của nước ta. Đoàn kết các dân tộc và các tôn giáo là bộ phận rất quan trọng.

Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta cũng khẳng định vai trò quan trọng của tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, vì vậy cần được vận dụng vào để chứng minh cho luận điểm này. Khẳng định của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của tôn giáo trong Văn kiện Đại hội XIII có những điểm mới trong các văn kiện trước.

Trong các văn kiện trước, Đảng ta chỉ nói là phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo thì trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”7. Nguồn lực ở đây bao gồm nguồn lực vật chất và nguồn lực tinh thần. Nguồn lực tinh thần của các tôn giáo chính là các giá trị đạo đức, văn hóa của các tôn giáo và nguồn lực vật chất của tôn giáo chính là nguồn lực vật chất của các tín đồ, chức sắc tôn giáo được thể hiện trong hoạt động của họ. Nguồn lực vật chất của các tôn giáo thể hiện ở việc các tín đồ và chức sắc tôn giáo thực hiện tốt các đường lối, chính sách, pháp luật, các phong trào hoạt động của Đảng và Nhà nước, góp phần thúc đẩy đất nước phát triển. Đường lối, chính sách, pháp luật, các phong trào hoạt động mà Đảng và Nhà nước ta đưa ra là để thực hiện các mục tiêu của cách mạng, góp phần phát triển đất nước. Để thực hiện được các chính sách, phong trào hoạt động đó phải có sự tích cực, tham gia của tất cả mọi người dân. Các tín đồ và chức sắc tôn giáo là một lực lượng đông đảo trong xã hội và khi các tín đồ và chức sắc tôn giáo thực hiện nghiêm đường lối, chính sách, các phong trào hoạt động mà Đảng và Nhà nước ta phát động chính là đang đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Các tôn giáo đã huy động một nguồn lực rất lớn cả tài chính, nhân lực từ các tín đồ, chức sắc và xã hội vào giải quyết những vấn đề xã hội của đất nước.

ĐỘNG CƠ, MỤC ĐÍCH CỦA CÁI GỌI LÀ “CÔNG ĐOÀN ĐỘC LẬP” Ở VIỆT NAM

 Với việc thành lập không chính danh, không thực hiện theo quy định pháp luật, cái gọi là “Công đoàn độc lập Việt Nam” là một tổ chức bất hợp pháp. Thực chất, đó là cái cớ mà các thế lực thù địch, các đối tượng chống đối muốn lập ra nhằm chống phá Đảng, Nhà nước.

Để đáp ứng đòi hỏi của các hiệp định mậu dịch tự do, trong đó có Hiệp định tự do thương mại Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Việt Nam đã sửa đổi Bộ luật Lao động, có hiệu lực từ ngày 1/1/2021. Theo quy định tại Điều 170, Bộ luật Lao động, người lao động có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn theo quy định của Luật Công đoàn. Đây là một quyền không mới do đã được pháp luật về lao động của Việt Nam ghi nhận cho người lao động từ lâu. Bên cạnh đó, khoản 2 điều này bổ sung quy định cho phép người lao động trong doanh nghiệp có quyền thành lập, gia nhập và tham gia hoạt động của tổ chức, người lao động tại doanh nghiệp. Quy định về gia nhập, tham gia tổ chức này là rất mới, độc lập với tổ chức công đoàn cơ sở truyền thống.

Bộ luật Lao động cũng quy định, cả công đoàn và các tổ chức đại diện người lao động khác tại doanh nghiệp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong việc đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong quan hệ lao động.

Lợi dụng việc này một số đối tượng thù địch trong và ngoài nước kêu gọi thành lập cái gọi là “Công đoàn độc lập Việt Nam”, có thể khẳng định đây là một tổ chức bất hợp pháp. Thực chất, đó là cái cớ mà các thế lực thù địch, các đối tượng chống đối muốn lập ra nhằm chống phá Đảng, Nhà nước.

Pháp luật Việt Nam luôn tôn trọng quyền lập hội, nếu các hội ấy thực sự vì quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và tuân thủ quy định pháp luật. Điều 25, Hiến pháp quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Như vậy, Nhà nước ta ghi nhận quyền tự do lập hội của công dân nhưng việc thực hiện quyền này phải tuân thủ các quy định luật pháp.

Hiện quy định về lập hội được thể hiện trong nhiều văn bản pháp luật, như: Sắc lệnh số 102/SL/L004 ngày 20/5/1957; Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005; Luật Tổ chức Chính phủ; Nghị định số 45/2010/NĐ-CP; Nghị định số 33/2012/NĐ-CP của Chính phủ. Khoản 1, Điều 2, Nghị định số 45/2010/NĐ-CP quy định rõ: “Hội được quy định trong Nghị định này được hiểu là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; hỗ trợ nhau hoat động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội  của đất nước, được tổ chức và hoạt động theo Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan”.

Cũng theo quy định của Nghị định thì các hội lập ở phạm vi một tỉnh, thành phố phải được Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố đó phê chuẩn; nếu hội hoạt động trên nhiều tỉnh, thành phố khác nhau thì phải do Bộ trưởng Bộ Nội vụ phê chuẩn.

Trên thực tế, một số đối tượng tổ chức khởi xướng và tự xưng “Công đoàn độc lập Việt Nam” lại không đăng ký, không tiến hành các thủ tục xin phép thành lập và cũng không có kế hoạch, xu hướng xin phép thành lập, điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật, hoạt động trái với quy định pháp luật.

Về động cơ, mục đích, những người khởi xướng cho hội nhóm này đã tuyên bố trên các diễn đàn, mạng xã hội, cho thấy động cơ, ý đồ tiêu cực và họ biết những tổ chức, hội nhóm như vậy sẽ bị chính người lao động lên án nên không dám công khai, minh bạch, không tuân thủ các quy định luật pháp mà chọn theo hình thức âm thầm, tự phát.

Mặt khác, trong vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người lao động, lâu nay chúng ta có hệ thống Công đoàn các cấp, mà cơ quan lãnh đạo cao nhất là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức và những người lao động lập ra nhằm mục đích tập hợp, đoàn kết lực lượng, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt; đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động.

Công đoàn Việt Nam là thành viên của hệ thống chính trị và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là trung tâm tập hợp, đoàn kết, giáo dục, rèn luyện, xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân, lao động.

Trong đại dịch COVID-19, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã có nhiều hoạt động ở các mức độ khác nhau đồng hành, giúp đỡ người lao động gặp khó khăn do ảnh hưởng phức tạp của dịch bệnh. Từ đó, đời sống và kinh tế của người lao động phần nào vẫn được cải thiện.

Thực tế cho thấy, bản thân các hội, nhóm nghề nghiệp thành lập hợp pháp ở nước ta rất nhiều, những hội, nhóm này ở các mức độ khác nhau đã đóng góp nhất định cho sự phát triển xã hội. Bản chất vấn đề nằm ở chỗ là động cơ, mục đích và cách thức hoạt động, những người trong các hội, nhóm đó có năng lực để biểu đạt, thực hiện trên tinh thần xây dựng, vì sự tiến bộ và đời sống cán bộ, công nhân viên hay không.

Ngược lại, lấy danh nghĩa thành lập tổ chức, hội nhóm với cái mác “độc lập” để thực hiệm âm mưu, ý đồ chống phá đất nước, gây hại cho nhân dân thì đó là hành vi vừa vi phạm pháp luật, vừa trái với đạo lý người Việt, không thể nhân danh các tổ chức xã hội dân sự để chống lại quê hương, đất nước mình.

Với việc thành lập không chính danh, không thực hiện theo quy định pháp luật, cái gọi là “Công đoàn độc lập Việt Nam” là một tổ chức bất hợp pháp. Thực chất, đó là cái cớ mà các thế lực thù địch, các đối tượng chống đối muốn lập ra nhằm chống phá Đảng, Nhà nước.

Rõ ràng, những người khởi xướng trào lưu thành lập cái gọi là “Công đoàn độc lập Việt Nam” theo xu hướng tự do, thoát ly đều nhận thức đây là tổ chức bất hợp pháp, không được phép tồn tại nhưng họ vẫn cố tình kêu gọi, vận động người dân tham gia với dụng ý xấu. Đó là hành vi vi phạm pháp luật.

Góp phần cụ thể hóa nội hàm quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Ấn Độ

Sáng 12/12, tại Hà Nội, Đại tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an  đã có buổi tiếp ngài Sandeep Arya, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa Ấn Độ tại Việt Nam, đến chào nhân dịp bắt đầu nhiệm kỳ công tác tại Việt Nam.

Bộ trưởng Tô Lâm nêu rõ, trong thời gian qua, quan hệ Việt Nam - Ấn Độ tiếp tục được tăng cường thông qua triển khai hiệu quả Chương trình hành động thúc đẩy quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giai đoạn 2021-2023. Việt Nam tiếp tục ủng hộ chính sách “Hành động phía Đông” của Ấn Độ và đánh giá cao việc Ấn Độ ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực.

Việt Nam và Ấn Độ chia sẻ nhiều quan điểm chung về các vấn đề khu vực và quốc tế; khẳng định tầm quan trọng của việc xây dựng khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương hòa bình, thịnh vượng trên cơ sở tôn trọng chủ quyền và luật pháp quốc tế, tự do hàng hải - hàng không ở Biển Đông. Hai bên cũng tiếp tục phối hợp chặt chẽ, ủng hộ nhau tại các diễn đàn đa phương, nhất là trong khuôn khổ Liên hợp quốc (LHQ).

Năm 2022, Bộ Công an và các cơ quan đối tác Ấn Độ đã tổ chức nhiều hoạt động cụ thể, thiết thực tại mỗi nước nhằm kỷ niệm 50 thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Ấn Độ (7/1/1972 – 7/1/2022), trong đó tổ chức thành công Đối thoại An ninh cấp Thứ trưởng lần thứ hai giữa Bộ Công an Việt Nam và Văn phòng Hội đồng An ninh quốc gia Ấn Độ sau 2 năm gián đoạn do đại dịch COVID-19.

Nhấn mạnh Ấn Độ là đối tác tin cậy chính trị cao, quan hệ hợp tác song phương được triển khai trên tất cả các lĩnh vực, Bộ trưởng Tô Lâm khẳng định, Bộ Công an Việt Nam sẵn sàng hợp tác, chia sẻ thông tin về tình hình quốc tế và khu vực mà hai bên cùng quan tâm; chia sẻ kinh nghiệm đấu tranh với các hoạt động của cơ quan đặc biệt nước ngoài; chống khủng bố; phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm kinh tế.

Bộ trưởng Tô Lâm khẳng định, Việt Nam ủng hộ và sẵn sàng làm cầu nối hỗ trợ Ấn Độ gia tăng gắn kết lợi ích về chính trị, kinh tế và an ninh với khu vực Đông Nam Á, góp phần thúc đẩy hòa bình, ổn định, an ninh và thịnh vượng ở khu vực.

Trong thời gian tiếp theo, Bộ trưởng Tô Lâm đề nghị hai bên tăng cường phối hợp, tham vấn giữa Việt Nam và Ấn Độ tại các cơ chế, diễn đàn đa phương như LHQ, ASEAN, Mekong - sông Hằng. Tăng cường các hoạt động trao đổi đoàn cấp cao và cấp chuyên viên.

Phối hợp xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động hợp tác trên các lĩnh vực phòng, chống tội phạm, tư pháp hình sự giữa hai nước; rà soát, đánh giá lại những văn bản hợp tác đã hết hiệu lực hoặc triển khai không hiệu quả để sửa đổi, ký mới, phục vụ các hoạt động hợp tác.

Phối hợp tổ chức các hội thảo, hội nghị trao đổi kinh nghiệm công tác phòng, chống khủng bố, ủng hộ lẫn nhau trên các diễn đàn quốc tế và khu vực; đẩy mạnh hợp tác đào tạo về nghiệp vụ an ninh, ngoại ngữ, tin học, cũng như hợp tác trên lĩnh vực kỹ thuật nghiệp vụ phục vụ công tác an ninh.

Bộ trưởng Tô Lâm đề nghị ngài Đại sứ hỗ trợ kết nối, phối hợp thúc đẩy hơn nữa các hoạt động hợp tác nói chung, trong lĩnh vực an ninh nói riêng, góp phần cụ thể hóa nội hàm quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện, vì lợi ích của mỗi nước. Bộ trưởng Tô Lâm chúc Đại sứ Sandeep Arya hoàn thành xuất sắc nhiệm kỳ công tác tại Việt Nam; đồng thời khẳng định, Bộ Công an Việt Nam sẽ hỗ trợ tích cực để ngài Đại sứ hoàn thành nhiệm vụ.

Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng Tô Lâm đã dành thời gian tiếp, Đại sứ Sandeep Arya khẳng định, trên cương vị của mình sẽ có những đóng góp hiệu quả để thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Ấn Độ nói chung, mối quan hệ hợp tác giữa các cơ quan thực thi pháp luật Ấn Độ với Bộ Công an Việt Nam nói riêng.

Nguồn: Báo CAND

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...