Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2019

NGĂN CHẶN SỰ XUỐNG CẤP ĐẠO ĐỨC TRONG XÃ HỘI: TIẾP CẬN TỪ VĂN HÓA
Đạo đức xã hội xuống cấp là vấn đề đáng lo ngại ở nước ta hiện nay. Chúng ta đều nhận thức được tác hại khôn lường của nó đối với sự phát triển của dân tộc. Đặt câu hỏi sự xuống cấp đó từ đâu mà ra thì hẳn là có rất nhiều câu trả lời và câu trả lời nào cũng có những lý do và giải pháp cơ bản. Tuy nhiên giải pháp nào cũng khó mà thực hiện một cách thấu đáo, bền vững. Từ cách tiếp cận của văn hóa cũng như vậy.
NGUYÊN NHÂN CỦA SỰ XUỐNG CẤP ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI
Xét ở một khía cạnh nào đó, văn hóa là sản phẩm của một xã hội. Tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đều phản ánh vào văn hóa. Sự xuống cấp đạo đức cũng nằm trong một bối cảnh chung như thế. Xét theo chiều lịch đại, chúng ta thấy sự thay đổi nhanh chóng của xã hội Việt Nam. Nhiều thành tựu chính trị, kinh tế, xã hội và cả văn hóa đã được người dân chứng kiến, đặc biệt từ khi Đảng ta tiến hành công cuộc Đổi mới. Tuy nhiên, không có bất cứ thứ gì không có mặt trái của nó. Sự mở cửa về kinh tế, xã hội, quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của truyền thông, bên cạnh những tác động tích cực, cũng để lại rất nhiều hệ quả. Ở góc độ văn hóa, sự thay đổi xã hội khiến cho lôgic vận hành của văn hóa thay đổi, bao gồm những vấn đề của định hướng giá trị, thói quen và phong tục, tập quán của một xã hội đang trên đà chuyển đổi. Với định hướng giá trị, thì đó là những giá trị cũ, có những thứ không còn thích hợp thì chưa mất hẳn, còn những giá trị mới, phù hợp hơn thì chưa thực sự định hình. Có những tấm gương đạo đức trước kia có tác dụng rất lớn, giờ không còn đóng đúng vị trí của nó nữa!
Xã hội rơi vào tình trạng khủng hoảng giá trị. Từ khủng hoảng giá trị dẫn đến mất niềm tin và định hướng trong xã hội, đó là lý do quan trọng của tình trạng xuống cấp đạo đức vì xung đột và khủng hoảng giá trị và niềm tin. Kể cả những nghề được xã hội coi trọng, xem là cao quý như nghề giáo và nghề y đang chứng kiến nhiều hiện tượng xuống cấp đạo đức cũng chính vì những lý do này.
Sự thay đổi thói quen, phong tục, tập quán cũng trong vòng quay như vậy. Những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc giờ đây bị thách thức bởi những thói quen mới được ra đời từ cuộc sống giàu sang và tiện nghi hơn, bị quyến rũ bởi những thông tin về cuộc sống xa lạ ở các xã hội xa lạ. Điều này dường như còn được làm đậm hơn bởi những “người của công chúng” khi đưa ra những ca khúc phản cảm với những ca từ nhảm nhí, lối sống tạo scandal để nổi tiếng bằng mọi giá, bất chấp những giá trị đạo đức của dân tộc. Tất cả khiến cho nhiều chủ nhân tương lai của xã hội (thế hệ trẻ) lạc lối trong cách xác định lý tưởng sống cũng như phong cách sống. Những lối sống mới xa lạ, đua đòi, những phong cách thời trang, nghệ thuật không phù hợp với chuẩn mực đạo đức dân tộc đã khiến cho xã hội trở nên hỗn loạn hơn, và đó cũng là nguyên nhân của sự xuống cấp đạo đức trong xã hội xét từ cách nhìn văn hóa.
Các phương tiện truyền thông đang khiến cho những giá trị phản văn hóa được dung dưỡng, lan truyền bằng những thông tin thiếu định hướng. Việc xuất hiện của các phương tiện truyền thông mới với internet và điện thoại di động thông minh, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, cũng tác động tiêu cực đến sự phát triển nhân cách, đặc biệt trong tầng lớp thanh, thiếu niên. Thế giới ảo nhưng tác động thực là những thứ mà xã hội chúng ta chưa từng chứng kiến và chưa có giải pháp hữu hiệu để đối phó. Trào lưu cá nhân hóa khác rất nhiều so với lối sống vì cộng đồng từng phổ biến trong xã hội truyền thống. Các cá nhân tưởng tượng mình vô danh trên thế giới ảo, có thể thể hiện ý kiến (kể cả bức xúc) của mình theo cả những cách tiêu cực nhất. Và khi chính sự tự kiểm soát bản thân không thể thực hiện được trên môi trường mạng, cái xấu sẽ lan tràn ra toàn xã hội. Đó là những điều chúng ta thực sự lo ngại.
GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG XUỐNG CẤP ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI
Chắc sẽ còn nhiều hơn nữa những lý do giải thích cho sự xuống cấp đạo đức, nhưng câu trả lời cho giải pháp nào để giúp giảm bớt và tiến tới loại trừ hẳn hiện tượng tiêu cực này có lẽ sẽ quan trọng hơn việc mải miết đi tìm nguồn gốc mà không đưa ra những cách làm hữu hiệu để loại bỏ nó. Dưới đây là một vài gợi ý nhỏ cho một vấn đề lớn được tiếp cận từ góc độ văn hóa:
Thứ nhất, cần quan tâm hơn đến vai trò của nghệ thuật trong việc xây dựng hình tượng con người mới, xác định những giá trị xã hội mới được xã hội tôn vinh.
Trước kia, cha ông chúng ta chỉ sử dụng các loại hình nghệ thuật như tuồng, chèo, cải lương, sử dụng tục ngữ, dân ca để chuyển tải các thông điệp nhân văn, mà giáo huấn được cả xã hội đi theo tiếng gọi của lương tri, đạo đức. Bối cảnh xã hội hiện nay không cho phép chỉ sử dụng những biện pháp cũ, nhưng nếu chúng ta cho nghệ thuật, hình thành những tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao, thu hút sự quan tâm của nhiều người dân trong xã hội, thì sức lan tỏa của các thông điệp từ nghệ thuật có tác dụng cao hơn nhiều lời hiệu triệu. Chứng kiến cả chục ngàn người đứng lên hát vang quốc ca trong một trận đấu bóng đá và cả nước hân hoan, vẫy cờ, ào xuống phố một cách trật tự, văn minh cùng với niềm vui chiến thắng của dân tộc, cũng là lúc chúng ta hiểu thêm những giá trị tốt đẹp mà văn hóa đem lại cho cả xã hội. Từ những niềm vui tinh thần do văn hóa mang lại đó, bầu không khí xã hội sẽ trở nên tốt đẹp hơn, thuận tiện hơn để cả dân tộc có thể tạm quên đi những khó khăn, tiếp bước trên hành trình vinh quang của mình.
Thứ hai, xây dựng và củng cố hệ thống các quy tắc đạo đức trong tất cả các ngành nghề, lĩnh vực của đời sống xã hội. Khi viết cuốn sách “Nền đạo đức Tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản”, Max Weber đã nhấn mạnh đến khía cạnh dẫn dắt sự phát triển của xã hội từ các giá trị đạo đức. Theo đó, chính các giá trị đạo đức đã có tác dụng vừa ổn định xã hội, vừa tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Muốn làm được như vậy, xã hội cần hình thành hệ thống các quy tắc đạo đức ở tất cả các lĩnh vực khác nhau. Nghề giáo, nghề y hay bất kỳ một ngành nghề nào cũng có một bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Bộ quy tắc đạo đức ấy sẽ giúp đạo đức xã hội được ổn định trong từng nhóm nhỏ, rồi từ đó lan ra toàn xã hội (việc Hội Nhà báo Việt Nam vừa cho ra đời Quy tắc sử dụng mạng xã hội của người làm báo Việt Nam là một ví dụ cho thấy, chúng ta cần có thêm các bộ quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức cho các lĩnh vực khác nhau để bảo đảm sự ổn định, rõ ràng trong hành vi ứng xử của từng nhóm xã hội trong những lĩnh vực hoạt động cụ thể).
Thứ ba, phát huy vai trò của các phương tiện truyền thông trong việc truyền đi thông điệp tích cực về những lối sống đẹp, những tấm lòng nhân ái trong xã hội, và hình thành một dư luận xã hội ủng hộ các giá trị chân - thiện - mỹ. Về bản chất, xã hội là tốt và con người là hướng thiện. Vì thế, để cái tốt và lòng hướng thiện lan tỏa trong xã hội sẽ khiến cho cuộc sống đẹp hơn. Chính cái thiện, cái đẹp của văn hóa trong xã hội sẽ góp phần đẩy lùi tệ nạn và cái xấu, đạo đức tốt đẹp trong xã hội sẽ dần trở lại. Từ đó, văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần, là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, là hệ điều tiết cho sự phát triển xã hội./.
PGS. TS. BÙI HOÀI SƠN
Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam

http://www.tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/ngan-chan-su-xuong-cap-dao-duc-trong-xa-hoi-tiep-can-tu-van-hoa-119445
HRW - NHÂN QUYỀN VÀ MỤC ĐÍCH KIẾN TẠO DƯ LUẬN
Những năm qua, trong số các tổ chức tự nhận hoạt động vì nhân quyền trên phạm vi quốc tế, Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW) nổi lên như một địa chỉ thường xuyên cho ra đời nhiều luận điệu bịa đặt, vu khống về nhân quyền, và đối với Việt Nam, các thế lực thù địch luôn triệt để tận dụng loại luận điệu này phục vụ âm mưu chống phá. 
Điều đáng lưu tâm là, báo chí và dư luận trên thế giới đã vạch rõ HRW chỉ sử dụng nhân quyền như công cụ để tiến công các quốc gia lựa chọn đường hướng phát triển riêng, không phụ thuộc vào sự chi phối của phương Tây ...
Từ đầu năm 2019 đến nay, các luận điệu vu cáo, vu khống Việt Nam của HRW đã gia tăng theo xu hướng ngày càng tùy tiện, không chỉ thể hiện qua phát ngôn của một số đại diện tổ chức này (như các ông P.Rô-béc-sơn, Phó Giám đốc phụ trách châu Á của HRW; K.Doi - Giám đốc của HRW tại Nhật Bản...) mà còn thể hiện qua các báo cáo, thông báo. Có thể dẫn lại một số thí dụ như: trong cái gọi là “Báo cáo nhân quyền toàn cầu năm 2019” (Báo cáo năm 2019) công bố ngày 17-1-2019, dựa trên thứ tin tức bịa đặt và từ góc nhìn thiếu thiện chí, HRW đưa ra một số đánh giá mà thực chất là đổi trắng thay đen về tình hình nhân quyền tại Việt Nam, nhằm mục đích vu cáo, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam. Ngày 1-2-2019, HRW lại tiếp tục ra thông cáo chỉ trích Việt Nam “đệ trình một hình ảnh rất sai thực tế về hồ sơ nhân quyền tại Hội đồng nhân quyền LHQ ngày 22-1-2019”... Rất nhanh chóng, các tổ chức, cơ quan truyền thông thù địch, thiếu thiện chí đã lớn tiếng triệt để khai thác, lợi dụng luận điệu của HRW nhằm vu cáo Việt Nam.
Kể từ khi thành lập (năm 1978) và trong quá trình hoạt động đến nay, HRW thường xuyên bị dư luận trên thế giới chỉ trích mạnh mẽ. Nổi lên trong đó là các khẳng định: HRW không nghiên cứu thông tin cụ thể cho nên đánh giá không chính xác, sai sự thật, thiên vị; lợi dụng vấn đề ý thức hệ; chỉ khai thác thông tin một chiều nhằm chống lại một số nước; có nguồn vốn hoạt động mờ ám... Mới đây nhất, ngày 18-1-2019, ngay sau khi HRW công bố Báo cáo năm 2019, trang NachDenkSeiten ở CHLB Đức đã lập tức đăng bài có nhan đề “HRW: nhân quyền và kiến tạo dư luận” (Human Rights Watch: Menschenrechte und Meinungsmache) của nhà báo T.Riegel (T.Ri-gờ), trong đó vạch rõ thực chất các hoạt động, mục đích mà HRW luôn hướng tới. Nhằm cung cấp thêm thông tin cũng như để bạn đọc và những ai còn mơ hồ hiểu rõ hơn vấn đề, xin được lược trích một số đoạn chính của bài báo.
Mở đầu bài báo, T.Riegel viết: “Vừa qua, HRW đã công bố Báo cáo năm 2019, trong đó tiếp tục sử dụng quyền con người và tiêu chuẩn kép để kiến tạo dư luận chống lại các đối thủ của phương Tây. Lời mở đầu của văn bản này rất trùng khớp với lời lẽ chủ yếu của các nhóm truyền thông lớn ở phương Tây thường rêu rao rằng “chúng ta là những người tốt, chúng ta phải bảo vệ hệ thống kinh tế tự do thành công chống lại những kẻ dân túy”. Tuy có phê bình các nước phương Tây, song Báo cáo năm 2019 lại tỏ ra do dự hơn nhiều so với việc chỉ trích. Đặc biệt trong văn bản này, HRW tỏ ra rất thông thạo khi sử dụng nguyên tắc: nếu đánh đồng các tội phạm có mức độ nặng nhẹ khác nhau, thì việc làm này sẽ có lợi cho phía phạm tội nặng hơn. Thêm vào đó, như với nước Đức, nếu HRW chỉ tập trung bàn luận các vấn đề chính trị đối nội, thì một số quốc gia khác HRW lại đả kích về chính sách đối ngoại. Điều đó cũng có lợi cho khối kinh tế tự do. Bởi đó là một điểm chính của chính sách phương Tây: nhiều tội ác trong các tội ác thật sự nghiêm trọng do các cuộc chiến tranh địa chính trị và các hiệp định thương mại bị cưỡng bức ký kết, được thực hiện ở nước ngoài. Vậy điều gì đã xảy ra ở các quốc gia đó, vũ khí phương Tây, chiến lược địa chính trị phương Tây và những hiệp định thương mại mang tính áp đặt của phương Tây đã tác động như thế nào? Những khía cạnh này đã không được HRW trình bày một cách thỏa đáng”.
Và nhà báo T.Riegel viết tiếp: HRW là một phần của chiến lược truyền thông phương Tây và để tự đánh bóng, HRW cần có các tiếng nói từ bên ngoài, có vẻ độc lập, và các tổ chức như RSF (Phóng viên không biên giới), AI (Ân xá quốc tế), SOHR (Giám sát nhân quyền Syria)... thực hiện vai trò này. Mà AI là một thí dụ rất cụ thể, như năm 2012, tổ chức này đã “tuyên truyền nhân quyền” một cách hiếu chiến qua việc cho in và phổ biến bức tranh cổ động để khuếch trương cho NATO... Về vấn đề di cư, HRW cũng chỉ đeo bám theo truyền thông chính thống phương Tây, và đẩy mức độ phức tạp lên cao trong phần đầu của chương trình nghị sự. Dù lời lẽ của HRW về Syria (Xy-ri) rất đáng nghi, nhưng dựa theo “tin giả” (fake news) mà chiến dịch tuyên truyền hiếu chiến của HRW chống Syria và Nga đã hình thành. Như trong báo cáo năm 2017, HRW muốn chứng minh việc sử dụng vũ khí hóa học tại thành phố Chan Sheikhun (San Sê-khun) của Syria. Tuy nhiên, báo cáo lại dựa trên một nền tảng đáng ngờ, như đài RT (Đài truyền hình Nga) chỉ rõ: “Trước hết, HRW đã không thực hiện một cuộc điều tra tại chỗ. Trong phân tích của mình, HRW chỉ dựa vào các tài liệu ảnh do tổ chức Mũ bảo hiểm trắng có liên kết với al-Qaeda (Al Kê-đa) và được phương Tây tài trợ cung cấp. Những nhân chứng quan trọng nhất được nhắc đến trong báo cáo đều thuộc về tổ chức hỗ trợ rất đáng ngờ”. Trong báo cáo đề ngày 24-2-2015, HRW tuyên bố rằng chính phủ Assad (A-sát) sử dụng cái gọi là bom chùm chống lại dân thường. Để dẫn chứng, HRW công bố các bức ảnh về một khu vực bị phá hủy là ở thành phố Daraa (Đa-ra) của Syria, tuy nhiên sau đó bị phát hiện là hình ảnh ở thành phố Kobane (Kô-ban). Ngay từ năm 2013, HRW cố gắng hỗ trợ chiến lược của phương Tây chống lại Syria, như chỉ trích các nghị quyết của Liên hợp quốc, và kêu gọi “công lý cho các nạn nhân khí độc”...
Liên quan thái độ, luận điểm của HRW với nước Nga, nhà báo T.Riegel nhận xét: Trong phần nhan đề: “Nước Nga: một năm ảm đạm cho nhân quyền”, HRW viết rằng: “Chính phủ Nga đã không ngừng giảm bớt không gian cho các bất đồng ôn hòa, đối kháng chính trị, sáng kiến của công dân ở Nga năm 2018”, nhiều “người bảo vệ nhân quyền, nhà hoạt động dân quyền, luật sư, nhà hoạt động đối lập, công dân bình thường phải trả giá” vì họ không “tuân thủ chương trình nghị sự chính trị của chính phủ”. Báo cáo năm 2019 cũng đã bê bối hóa chính sách đối ngoại của nước Nga, nhưng với Đức, như đã nói, lại được kiêng dè. Việc “kể tội” với mức độ khác nhau thể hiện rõ ở độ dài của báo cáo: phần viết về Đức chỉ có gần 4.000 chữ, so với gần 20.000 chữ viết về Nga. Và có thể thấy rõ quan điểm của HRW về Syria và Nga (sau đó đều được chuyển tải lại bởi các địa chỉ truyền thông lớn của phương Tây) như: “Bên cạnh chính phủ Syria, Nga tiếp tục đóng vai trò quân sự quan trọng trong các cuộc tiến công vào các khu vực chống chính phủ, ở đó trường học, bệnh viện và cơ sở hạ tầng dân sự bị tiến công bừa bãi. Trong các hoạt động quân sự nhằm chiếm lại Đông Ghouta (Gu-ta) vào tháng 2, lực lượng của quân đội Syria - Nga đã sử dụng các loại bom chùm bị quốc tế cấm và bom cháy bị hạn chế sử dụng trong các khu vực dân cư bởi luật pháp quốc tế”, “Nhờ có sự thờ ơ của những kẻ chuyên quyền trong việc bảo vệ nhân quyền, những kẻ bạo chúa có thể dễ dàng thoát khỏi sau hàng loạt hành động man rợ. Điều này đúng với cuộc chiến của Syria chống lại người dân ở các khu vực đối lập”. Một số đoạn trong Báo cáo năm 2019 của HRW cũng theo phong cách độc đoán, không khó để nhận ra nguồn gốc trực tiếp từ chính quyền ở một số quốc gia đang triển khai chiến dịch chống Nga và chắc chắn sẽ được lan truyền để chống lại Nga, như: “Nga tiếp tục sử dụng quyền phủ quyết của mình trong Hội đồng Bảo an LHQ để ngăn chặn trách nhiệm của Syria đối với các tội ác. Sau vụ tiến công hóa học vào Douma (Đu-ma) khiến hàng chục người thiệt mạng hồi tháng 4, Nga bỏ phiếu chống lại nghị quyết của LHQ muốn mở cuộc điều tra mới về việc sử dụng vũ khí hóa học ở Syria. Vào tháng 2, Nga chặn một nghị quyết của Liên hợp quốc muốn thiết lập lệnh ngừng bắn và cung cấp nhân đạo ở phía đông Ghouta... Nga đã phủ quyết 12 lần để bảo vệ Syria khỏi sự lên án và áp lực quốc tế, trong đó sáu lần liên quan lĩnh vực vũ khí hóa học”!...
Kết luận về HRW, và cũng để kết thúc bài báo, tác giả T.Riegel cho rằng: “Cho dù tiếng vang trong hệ thống truyền thông từ báo cáo của HRW chỉ có giới hạn, nhưng về lâu dài, nó sẽ được sử dụng nhằm phục vụ mưu đồ chính trị, qua việc trích dẫn để sử dụng làm “bằng chứng” chống lại đối thủ khi cần thiết, tương tự như bảng “xếp hạng tự do báo chí” hết sức mơ hồ RSF vẫn đưa ra. Như vậy khi cần, nhiều địa chỉ truyền thông sẽ sao chép nguyên văn từ báo cáo của HRW mà không hề kiểm tra lại, và do đó, HRW đã đóng vai trò tương tự như một cơ quan thông tấn tin tức”. Đáng chú ý là bài báo “HRW: nhân quyền và kiến tạo dư luận” được đăng trên trang NachDenkSeiten với chủ biên, tác giả, đồng biên tập là ông A.Müller (A.Muy-lơ) - nhà kinh tế học, nhà báo, cựu chính trị gia, vốn trước đây là đảng viên SPD (Đảng Dân chủ xã hội Đức), dân biểu Quốc hội Đức từ năm 1987 đến năm 1994, từng là Giám đốc Kế hoạch trong Văn phòng Thủ tướng Liên bang dưới thời các Thủ tướng W.Brandt (W.Bơ-ran) và H.Schmidt (H.Sơ-mít). Với các cương vị đã trải qua như vậy, hẳn ông A.Müller đã hiểu rõ và nhận diện được mục đích, bản chất hoạt động của HRW. Và qua đó có thể thấy HRW ra đời không vì nhân quyền, mà chỉ là công cụ của các thế lực đen tối.
Theo Nhân dân


NÊU CAO CẢNH GIÁC, NGĂN CHẶN KỊP THỜI VIỆC BỊA ĐẶT, VU CÁO CÁC LÃNH TỤ TIỀN BỐI VÀ LÃNH ĐẠO ĐẢNG, NHÀ NƯỚC
Một trong 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) chỉ ra là: Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
Như vậy, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước là một trong các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đồng thời, đó cũng là một nội dung trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Do đó, kịp thời ngăn chặn biểu hiện này không chỉ là nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng Đảng mà còn là biện pháp để đập tan những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Trong các lãnh tụ tiền bối, người bị các thế lực thù địch xuyên tạc, bịa đặt nhiều nhất là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng bịa đặt, Hồ Chí Minh thực chất chỉ là người “dân tộc chủ nghĩa”(!). Chúng xuyên tạc tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, không có gì quý hơn độc lập tự do của Hồ Chí Minh là “phi nhân tính”(!). 
Chúng suy luận: “Nhân dân Việt Nam đi theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh là sai lầm, là đi vào ngõ cụt”(!). Chúng còn dựng những câu chuyện hoang đường về thân thế, đời tư của Người cùng với việc vẽ lên “chân dung” người cộng sản không có tình cảm, tình nghĩa cha con, vợ chồng, anh em; công khai mục tiêu phá bỏ thần tượng Hồ Chí Minh.
Để tăng cường xuyên tạc, vu cáo, các thế lực thù địch đã tổ chức một số cuộc hội thảo, tọa đàm, diễn đàn quốc tế ở các nước có đông bà con Việt kiều sinh sống và làm việc như: Australia, Mỹ, Canada... rồi gửi thư ngỏ, tài liệu truyền bá tư tưởng phản động, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh tới lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam và các cơ quan chức năng trong nước, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài. Qua đó, chúng ra sức rêu rao rằng tư tưởng Hồ Chí Minh đã lỗi thời, lạc hậu, đề nghị Đảng, Nhà nước Việt Nam cần thay đổi bằng hệ tư tưởng mới.
Sự chống phá của các thế lực thù địch quyết liệt là vậy, nhưng thực tế đã cho thấy, thân thế, sự nghiệp và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi là một di sản quý báu của Đảng và dân tộc Việt Nam. Cho đến nay, nhiều công trình khoa học, chương trình nghiên cứu, bài nói, bài viết của các học giả, nhân sĩ, trí thức, nhà chính trị… trong và ngoài nước đã công bố là minh chứng rõ nét. 
Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh được toàn thể nhân dân Việt Nam qua nhiều thế hệ và nhiều tổ chức, cá nhân có lương tri trên thế giới ngưỡng mộ, tôn vinh. Trong đó, Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), năm 1987, đã ra Nghị quyết về Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; trong đó, đánh giá Người là “Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”. 
Với ý nghĩa đó, mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng của Người đã trở thành giá trị văn hóa có sức thẩm thấu và lan tỏa mạnh mẽ; là tài sản tinh thần vô cùng quý báu của dân tộc Việt Nam trên con đường hội nhập và phát triển; cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh, các vị lãnh tụ tiền bối khác cũng bị bôi nhọ, xuyên tạc, bịa đặt, vu cáo. Điển hình như, ngày 27-9-2018, Tòa án nhân dân quận Thốt Nốt (thành phố Cần Thơ) đã xét xử sơ thẩm bị cáo Bùi Mạnh Đồng (“tự” Beo, 40 tuổi, ngụ quận Thốt Nốt) về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. 
Theo đó, từ năm 2017 đến tháng 7-2018, Bùi Mạnh Đồng đã lấy hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Tôn Đức Thắng từ trên mạng internet, sau đó chèn chữ vào hình ảnh, tạo nên nội dung xuyên tạc, vu khống, nhằm bôi nhọ lãnh tụ. Qua đó, đã tiếp tay cho các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước chống phá chế độ; gây khó khăn cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. 
Không chỉ lãnh tụ tiền bối, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước cũng luôn bị bịa đặt, vu cáo. Thủ đoạn của chúng là tạo hàng loạt bài viết, video, hình ảnh xuyên tạc để đăng tải trên tất cả các mạng xã hội. Điển hình như Nguyễn Chí Khương (23 tuổi, trú tại Bến Tre) quay và đăng tải lên Facebook đoạn clip bịa đặt “Đoàn xe Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân về thăm Bến Tre”. 
Clip cho thấy sự xuyên tạc trắng trợn khi ngày hôm đó (27-10-2016), Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đang điều hành phiên họp Quốc hội tại Hà Nội. Thực chất, đoạn clip mà Khương quay và tải lên mạng xã hội là đoàn xe của các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long và đơn vị chức năng của tỉnh Bến Tre tham gia diễn tập khu vực phòng thủ tỉnh năm 2016.
Nhìn chung, hành động bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch tuy không mới nhưng hết sức thâm độc, qua đó gieo rắc hoang mang, sự nghi ngờ, phân tâm, mất niềm tin trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, tác động thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta. 
Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, hành vi tung tin bịa đặt, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã được một số nước xếp ngang với những nguy cơ đe dọa an ninh lớn nhất. Chính phủ Anh xếp loại tội phạm này ngang hàng với tấn công khủng bố, tấn công bằng vũ khí hóa học. 
Trên tinh thần đó, đối với các cơ quan pháp luật Việt Nam, dù đề cao tính giáo dục thuyết phục nhưng phải chủ động trong đấu tranh, phòng ngừa và đẩy lùi các hoạt động bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước; phải kết hợp chặt chẽ nhiều biện pháp trong đó có cả biện pháp xử lý hành chính, xử lý hình sự. 
Đặc biệt, với những kẻ cố tình xuyên tạc, bịa đặt, vu cáo vì động cơ chính trị, ảnh hưởng tới an ninh, trật tự an toàn xã hội cần được xử lý một cách kiên quyết, nghiêm minh. Luật An ninh mạng có hiệu lực từ ngày 1-1-2019 là cơ sở pháp lý và là biện pháp răn đe đủ mạnh để xử lý các đối tượng tung tin, bịa đặt, vu khống, xuyên tạc, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước trên mạng xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng.
Đối với đảng viên, bên cạnh việc đề cao cảnh giác, sẵn sàng phản bác luận điệu xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù địch, cần thực hiện nghiêm Quy định số 102-QĐ/TƯ ngày 15-11-2017 của Ban Chấp hành Trung ương quy định xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, trong đó áp dụng hình thức cao nhất là khai trừ khỏi Đảng đối với nhiều vi phạm, trong đó có trường hợp bôi nhọ lãnh tụ, lãnh đạo Đảng, Nhà nước…
Cuối cùng, để kịp thời ngăn chặn tình trạng bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước cần phải chủ động trong cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng văn hóa nhằm phản bác các luận điệu xuyên tạc, chống phá, bịa đặt, vu cáo của các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội chính trị. 
Tuy nhiên, phải có phương pháp đấu tranh khoa học; trong phê phán phải lập luận chặt chẽ; phải thể hiện tính chiến đấu, tính sắc bén và tính thuyết phục cao. Bên cạnh đó cần phải kịp thời chấn chỉnh những tư tưởng, quan điểm không đúng, lệch lạc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về biểu hiện bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước. 
Làm được như vậy sẽ góp phần thực hiện thành công Nghị quyết hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.
Thiếu tá, TS. Lê Văn Cử/HàNộiMới


BỒI DƯỠNG THẾ HỆ TRẺ LÀ VIỆC QUAN TRỌNG
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”(1). Đó không chỉ là sự quan tâm chăm lo cho sự nghiệp cách mạng, vun trồng cái gốc để sự nghiệp của cha anh luôn được phát triển mà còn là tầm nhìn sâu sắc của Hồ Chí Minh đối với hiện tại và tương lai bền vững của nước nhà.
THẾ HỆ TRẺ LÀ LỰC LƯỢNG XUNG KÍCH, TƯƠNG LAI CỦA NƯỚC NHÀ
Nhận thức sâu sắc rằng, “Một năm khởi đầu từ mùa Xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa Xuân của xã hội”(2), từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao vai trò của thế hệ trẻ - những người mang trong mình bầu nhiệt huyết, sức sống tràn trề, năng lực sáng tạo, v.v.. đối với sự trường tồn của đất nước. Vì vậy, xuyên suốt, nhất quán trong tư tưởng và hành động, Hồ Chí Minh không chỉ cuốn hút họ bằng chính những năm tháng tuổi trẻ đầy nhiệt huyết cách mạng của mình mà còn kêu gọi, đánh thức, giác ngộ và cổ vũ họ tham gia cách mạng; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, sẵn sàng giao nhiệm vụ và tạo điều kiện để họ được học tập, lao động, cống hiến…
Hướng vào tuổi trẻ, đưa họ đến với cách mạng, Hồ Chí Minh đã tiến hành tổ chức, giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ để họ phát huy vai trò của mình, góp sức vào thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng; đó là thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên (6-1925) mà nòng cốt là Cộng sản đoàn; ra báo Thanh niên; mở lớp huấn luyện chính trị, đào tạo nhiều thanh niên Việt Nam yêu nước trở thành những cán bộ cốt cán của Đảng và của phong trào cách mạng cả nước. Người cũng gửi thư cho Ủy ban Trung ương thiếu nhi Liên Xô và đại diện đoàn Thanh niên cộng sản Pháp tại Quốc tế Thanh niên cộng sản (7-1926) đề nghị giúp đỡ, để gửi một số thiếu niên Việt Nam do Người nuôi ở Quảng Châu sang Liên Xô học tập, “để trở thành những chiến sĩ Lêninnít tí hon chân chính”, làm hạt nhân cho Đoàn Thanh niên cộng sản sau này. Đặc biệt, sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, vấn đề thanh niên, bồi dưỡng lực lượng thanh niên đã được đặc biệt quan tâm khi thông qua Án nghị quyết của Đảng Cộng sản Đông Dương (1931) về việc tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản theo đề nghị của Hồ Chí Minh...
Tiếp đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lòng yêu nước, tinh thần cách mạng, sự nhiệt tình, gan dạ và những tấm gương hy sinh dũng cảm của tuổi trẻ nước nhà (thông qua Đoàn Thanh niên cứu quốc, Đội Thiếu nhi cứu quốc, Đội Nhi đồng cứu quốc) đã góp phần không nhỏ vào thành công của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Một trang sử mới, một kỷ nguyên mới đã mở ra khi nước nhà giành được độc lập và cùng với đó là một tiền đồ rực rỡ gắn liền với những nhiệm vụ nặng nề của thế hệ trẻ. Khi ấy, tràn đầy niềm tin tưởng, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã không chỉ khích lệ học sinh cả nước nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập: “Nước nhà mong chờ ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”(3) mà còn khẳng định thế hệ trẻ, trước hết là thanh niên chính là đội dự bị, lực lượng kế cận hùng hậu của cách mạng, những người chủ tương lai của nước nhà.
Theo Người, vận mệnh của quốc gia, dân tộc thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên - những người có trách nhiệm thực hiện sứ mệnh lịch sử vẻ vang mà các thế hệ cha anh đã chuyển giao vào tay mình. Do đó, nhất định thanh niên phải trở thành một lực lượng to lớn, vững chắc; phải là những người không chỉ gánh vác mà phải còn vượt lên những gì thế hệ trước mong muốn nhưng chưa thực hiện được do những hạn chế, những điều kiện lịch sử quy định…
Để hoàn thành sứ mệnh đó, muốn trở thành những con người đủ đức, đủ tài, có thể gánh vác được những trọng trách mà cách mạng giao phó và làm chủ tương lai một cách xứng đáng, mỗi người ngay từ khi còn trẻ đã luôn phải tự giác rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải tích cực làm việc để chuẩn bị cho tương lai. Đó là, phải ra sức học tập trong nhà trường, ở gia đình và ngoài xã hội; học tập qua sách vở và trau dồi tri thức từ chính thực tiễn cuộc sống và khắc phục những nhược điểm: nóng vội, thiếu thực tế, hình thức, chủ quan…; phải cố gắng học tập chính trị, văn hóa, nghề nghiệp theo phương châm học “để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh, tức là để làm trọn nhiệm vụ người chủ của nước nhà”(5). Đặc biệt, đoàn viên, thanh niên, học sinh, sinh viên phải xung phong trong mọi công tác, đi trước, làm trước, phải có tinh thần sẵn sàng dấn thân “đâu Đảng cần thì thanh niên có, việc gì khó thì thanh niên làm”; “phải rèn luyện thân thể cho khỏe mạnh, khỏe mạnh thì mới đủ sức để tham gia một cách dẻo dai, bền bỉ những công việc ích nước lợi dân”, phải đoàn kết chặt chẽ, kiên trì phấn đấu, vượt mọi khó khăn, thi đua học tập và lao động sản xuất…, để góp sức vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc như chỉ dẫn của Người tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đoàn (1956).
Thấm nhuần và thực hiện những chỉ dẫn của Người, lớp lớp thế hệ trẻ Việt Nam đã nỗ lực học tập, lao động, phấn đấu xứng đáng với niềm tin yêu, sự khen ngợi và kỳ vọng của cha anh. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng, thế hệ trẻ Việt Nam thực sự là lực lượng xung kích trong sự nghiệp cách mạng; là rường cột, đội hậu bị xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Thế hệ trẻ Việt Nam - thế hệ nọ nối tiếp thế hệ kia, tre già măng mọc trưởng thành từ những Đội Cứu quốc, Tổng hội sinh viên, Hội truyền bá quốc ngữ, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Đoàn quân Nam tiến đến phong trào “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Năm xung phong”,v.v.. đã góp sức mình vào chiến thắng chung của dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm để bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc, thống nhất Tổ quốc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
TIẾP TỤC BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ KẾ CẬN THEO DI CHÚC
Tiếp bước cha anh, thế hệ trẻ nước nhà đã và đang tích cực “xây dựng lại đất nước ta to đẹp hơn, đàng hoàng hơn” như mong ước Hồ Chí Minh đã dặn lại trong Di chúc. Những tấm gương, điển hình tiên tiến, xung kích, đi đầu trong chiến đấu, lao động, học tập và công tác, nhất là trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế đã tiếp tục khẳng định vị thế và vai trò quan trọng của thế hệ trẻ. Trên cơ sở quán triệt quan điểm “xây dựng Đoàn là xây dựng Đảng trước một bước”, các tổ chức cơ sở Đoàn đã phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của đoàn viên, thanh niên, sinh viên trong thi đua thực hiện các nghị quyết của Đảng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Thông qua đó, tạo môi trường thuận lợi để thế hệ trẻ trải nghiệm, tự rèn luyện mình, trưởng thành, phấn đấu, bổ sung lực lượng trẻ cho Ðảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Nỗ lực học tập, lao động để trau dồi, nâng cao tri thức, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng sống và làm việc trong bối cảnh toàn cầu hóa; tích cực tham gia các hoạt động xã hội, các chương trình hành động: “Lập thân, lập nghiệp, xây dựng đất nước phồn vinh”, “Bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn trật tự, an ninh”, “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng tài năng trẻ, phát triển văn hóa, thể thao”, “Công tác xã hội, bảo vệ môi trường”, “Thắp sáng ước mơ tuổi trẻ Việt Nam”, “Tuổi trẻ Việt Nam - Câu chuyện hòa bình”, “Đoàn viên phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam”… trong 10 năm (2008- 2018), Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã giới thiệu cho Đảng 2.184.913 đoàn viên ưu tú; trong đó, có 1.207.210 đoàn viên ưu tú được kết nạp Đảng, chiếm 55,25% tổng số đoàn viên ưu tú được giới thiệu. Đặc biệt, nhiệm kỳ 2015-2020, toàn Đoàn đã có 11.380 cán bộ đoàn trúng cử vào cấp ủy đảng các cấp; 9.888 cán bộ đoàn trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng từ những mặt trái của nền kinh tế thị trường, do thiếu bản lĩnh và không nghiêm túc trong rèn luyện, phấn đấu, một bộ phận thanh niên đã phai nhạt lý tưởng, sống buông thả, lười học tập và tu dưỡng đạo đức, thậm chí có người đã vi phạm pháp luật,v.v.. Thực trạng này, một mặt ảnh hưởng đến tương lai của chính họ, gây cản trở sự phát triển lành mạnh của xã hội, bền vững của đất nước; mặt khác dễ bị các thế lực thù địch khai thác, lợi dụng để tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình”, hòng chống phá và ngăn chặn sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Hơn bao giờ hết, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân càng phải thấm nhuần lời căn dặn đầy tâm huyết của Người trong Di chúc: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên””(6).
Thực hiện di huấn của Người và để thực hiện tốt chiến lược “trồng người”, nhằm bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau đạt hiệu quả; đảm bảo xây dựng đội ngũ kế cận tài đức, hoàn thành tốt trọng trách mà Tổ quốc và nhân dân giao phó, trong thời gian tới, các cấp ủy, chính quyền, ban, ngành chức năng từ Trung ương đến địa phương cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng, Nhà nước về vị trí, vai trò của thế hệ trẻ, về “đổi mới nội dung, phương thức chính trị, tư tưởng, truyền thống, bồi dưỡng lý tưởng, lòng yêu nước, xây dựng đạo đức lối sống lành mạnh, ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật cho thế hệ trẻ… Phát huy vai trò của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(7) theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Chỉ thị số 42-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ, giai đoạn 2015-2030”. Đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình - nhà trường - Đoàn Thanh niên - xã hội trong đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ toàn diện về mọi mặt; trong đó, chú trọng nguyên tắc đào tạo gắn với bồi dưỡng, tin tưởng giao việc, tạo điều kiện để tuổi trẻ được trải nghiệm, phấn đấu và trưởng thành; xây dựng nguồn cán bộ trẻ, đảm bảo quy hoạch cho trước mắt và lâu dài, “phải khéo léo kết hợp cán bộ già với cán bộ trẻ”, “không nên coi thường cán bộ trẻ” như Hồ Chí Minh đã căn dặn.
Hai là, mỗi cơ quan, đơn vị trong từng kế hoạch, chương trình hành động phải gắn bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, tri thức lý luận với rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nói chung, theo chủ đề hằng năm nói riêng thành nhu cầu tự thân của mỗi người, mỗi tổ chức cơ sở Đoàn gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị, với phòng chống suy thoái về đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, góp phần xây dựng Đoàn, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh... Tích cực đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân, phê phán những thói hư, tật xấu, lối sống vị kỷ và cổ vũ lối sống trong sạch, có chí tiến thủ, tinh thần đoàn kết, thường xuyên tiến hành tự phê bình và phê bình để giúp nhau cùng tiến bộ, để tuổi trẻ vững tin thực hiện ước mơ, hoài bão của mình, kiên định mục tiêu cách mạng.
Ba là, chú trọng học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tế trong đào tạo, bồi dưỡng văn hóa, khoa học - kỹ thuật, công nghệ, quân sự, ngoại ngữ, v.v.. và thường xuyên bồi dưỡng thể chất, rèn luyện thân thể cho thế hệ trẻ, để “mỗi một người dân mạnh khỏe, tức là cả nước mạnh khỏe”. Cụ thể, theo Hồ Chí Minh, ở cấp “- Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà. - Trung học thì cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế. - Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công”(8).
Bốn là, gắn bồi dưỡng thế hệ trẻ với các phong trào thực tiễn, nhất là tiếp tục triển khai hiệu quả ba phong trào hành động cách mạng: “Thanh niên tình nguyện”, “Tuổi trẻ sáng tạo”, “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc” trong từng nhóm đối tượng và duy trì các phong trào đặc thù. Từ đó, xây dựng, nhân rộng các mô hình hay, cách làm sáng tạo của các gương điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt trong cha mẹ, thầy cô, nhân dân và trong chính thế hệ trẻ để “làm gương mẫu cho các em trước mọi việc”. Đồng thời, bản thân mỗi người trẻ cũng phải tự học tập, tự tu dưỡng, phấn đấu ở mọi nơi, mọi lúc và suốt đời, để xây dựng tương lai cho chính mình và đi tiên phong trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giàu mạnh, bền vững.
Có quá trình chuẩn bị, bồi dưỡng thường xuyên về đức và tài cho thế hệ trẻ; có sự chuẩn bị chu đáo, thận trọng, chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ như Hồ Chí Minh đã căn dặn, đất nước Việt Nam sẽ có đủ sức mạnh nội lực, trí tuệ, đạo đức để tự tin, kiên định, vững vàng trên con đường đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững./.
TS. VĂN THỊ THANH MAI
 PHẠM VĂN DƯƠNG
------------------------------------
(1), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, H, 2011, t.15, tr. 612,612.
(2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.194, 35.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.298.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.179.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, H, 2016, tr.162.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.186.

http://www.tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/boi-duong-the-he-tre-la-viec-quan-trong-119453

VIỆT NAM CAM KẾT TIẾP TỤC NỖ LỰC THÚC ĐẨY, BẢO VỆ QUYỀN DÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ


Trong hai ngày 11 và 12/3, tại Geneva (Thụy Sĩ), Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc (LHQ) đã tổ chức Phiên họp xem xét Báo cáo quốc gia lần thứ ba của Việt Nam về thực thi Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (Công ước ICCPR).
Tham gia phiên họp này, đoàn Việt Nam, gồm 20 thành viên đến từ các cơ quan có liên quan, do Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Khánh Ngọc làm trưởng đoàn.
Việc tham dự phiên họp của Ủy ban Nhân quyền lần này thể hiện sự nghiêm túc của Việt Nam trong thực hiện nghĩa vụ báo cáo về tình hình thực thi các cam kết quốc tế. Đối thoại tại phiên họp cũng giúp Ủy ban và các quốc gia thấy rõ bức tranh tổng thể tích cực, xu hướng phát triển mạnh mẽ trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Thông tin của phiên họp sẽ giúp các thành viên Ủy ban hiểu rõ hơn các cam kết của Chính phủ Việt Nam, những thành tựu và tiến bộ mà Việt Nam đã đạt được, cũng như những khó khăn, thách thức phải đối mặt trong việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền và tự do tại Việt Nam.
Nhân dịp này, Thứ trưởng Nguyễn Khánh Ngọc đã trả lời phỏng vấn của phóng viên TTXVN tại Geneva về việc thực thi Công ước ICCPR tại Việt Nam.
Thứ trưởng Nguyễn Khánh Ngọc cho biết kể từ khi Việt Nam nộp Báo cáo quốc gia lần thứ hai về việc thực thi Công ước ICCPR năm 2002 đến nay, Việt Nam đã đạt được những bước tiến mới và thành tựu đáng khích lệ trong việc bảo vệ và phát huy quyền con người, quyền công dân, trong đó có các quyền dân sự và chính trị.
Tiếp thu các khuyến nghị của Ủy ban Nhân quyền năm 2002, Việt Nam ngày càng chú trọng công tác xây dựng pháp luật và đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ, đặc biệt là sau Nghị quyết của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trong giai đoạn này, rất nhiều luật quan trọng liên quan trực tiếp đến các quyền dân sự, chính trị đã được ban hành và liên tục được rà soát để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới nhằm mục đích ngày càng ghi nhận đầy đủ nhất các quyền này.
Đặc biệt, Hiến pháp được Quốc hội thông qua năm 2013 đã đánh dấu bước tiến quan trọng của Việt Nam trong nhận thức về quyền con người cũng như trách nhiệm của Nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân trên tất cả các lĩnh vực.
Thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng về quyền con người, quyền công dân đã được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới. Các văn bản quy phạm pháp luật này về cơ bản đã ghi nhận hầu hết các quyền dân sự và chính trị; các cơ chế bảo đảm và phát huy các quyền này tại Việt Nam và đã từng bước được đưa vào cuộc sống để người dân được thụ hưởng các quyền dân sự và chính trị.
Có thể nhìn thấy rõ trên thực tế những kết quả này, như các tôn giáo ở Việt Nam chung sống hòa hợp trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam và luôn được tôn trọng, đảm bảo sự bình đẳng, không phân biệt đối xử; báo chí ở Việt Nam đã phát triển không ngừng, trở thành diễn đàn ngôn luận của các tổ chức xã hội, nhân dân, là công cụ bảo vệ quyền của người dân, lợi ích của xã hội; cơ chế tố tụng được bảo đảm theo hướng công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người; một khối lượng lớn nhu cầu liên quan đến vấn đề hộ tịch, quốc tịch, chứng thực đã được giải quyết, trong đó các cơ quan có chức năng của Việt Nam thực hiện đơn giản hoá thủ tục hành chính, từng bước hiện đại hoá, tạo thuận lợi cho người dân cũng như đáp ứng tốt hơn yêu cầu quản lý nhà nước…
Những thành tựu cả về lập pháp và tổ chức thi hành pháp luật trong thời gian qua là yếu tố đảm bảo quan trọng về pháp lý để mọi người có cơ hội và điều kiện thuận lợi thụ hưởng quyền con người ở Việt Nam.
Đánh giá về kết quả của Phiên họp xem xét Báo cáo quốc gia lần thứ ba của Việt Nam vừa diễn ra tại Ủy ban Nhân quyền LHQ, Thứ trưởng Nguyễn Khánh Ngọc cho biết với tinh thần trách nhiệm, xây dựng, thiện chí và chân thành của đoàn Việt Nam cũng như các thành viên Ủy ban Nhân quyền, phiên họp tại Geneva đã thành công tốt đẹp. Tại phiên họp, đoàn liên ngành của Việt Nam đã chia sẻ những thành tựu đáng khích lệ trong việc bảo vệ và phát huy quyền dân sự, chính trị ở Việt Nam trong thời gian qua, đồng thời cũng cung cấp thêm những thông tin cụ thể để các thành viên Ủy ban Nhân quyền hiểu rõ và chính xác về tình hình thực thi Công ước ICCPR ở Việt Nam; bác bỏ những luận điểm sai trái, không có tính chất xây dựng của một số tổ chức, cá nhân về vấn đề này.
Ủy ban Nhân quyền LHQ đã đánh giá cao việc tham gia và đối thoại của đoàn Việt Nam tại Phiên họp. Các thành viên Ủy ban Nhân quyền cũng ghi nhận những kết quả đáng khích lệ của Việt Nam về thực thi Công ước ICCPR, đồng thời tin tưởng rằng với cam kết mạnh mẽ và những nỗ lực không ngừng, Việt Nam tiếp tục bảo vệ và phát huy ngày càng tốt hơn quyền con người, quyền công dân.
Theo Thứ trưởng Nguyễn Khánh Ngọc, cũng giống như các quốc gia đang phát triển khác, trong quá trình triển khai thực hiện Công ước ICCPR, Việt Nam vẫn phải đối mặt với không ít các khó khăn, thách thức xuất phát từ nhiều lý do khác nhau như trình độ phát triển thấp; năng lực xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật còn hạn chế; chất lượng nguồn nhân lực không cao; các nguồn lực cần thiết dành cho phát triển, an sinh xã hội chưa được bảo đảm bền vững; tác động của những vấn đề toàn cầu, an ninh phi truyền thống trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng. Điều này cũng ảnh hưởng tới việc thực hiện Công ước của Việt Nam.
Do vậy, Việt Nam mong muốn Ủy ban Nhân quyền và các quốc gia hiểu rõ, đồng hành và sẵn sàng chia sẻ những khó khăn đó với Việt Nam trong thời gian tới. Việt Nam dự kiến sẽ có kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện khuyến nghị của Ủy ban Nhân quyền LHQ đưa ra sau Báo cáo quốc gia lần thứ ba của Việt Nam. Trong đó, Việt Nam sẽ tiếp tục nỗ lực và đặt ưu tiên cao nhất là tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách pháp luật và tư pháp, thực thi có hiệu quả các quy định pháp luật. Những kết quả đã đạt được cho thấy một niềm tin vững chắc là Việt Nam sẽ tiếp tục cố gắng đạt nhiều thành tựu tốt hơn trong thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong thời gian tới.
Hoàng Hoa – Duy Thái (TTXVN)


QUYỀN LỰC VÀ PHẨM CHẤT QUYỀN LỰC
Quyền lực và uy quyền
Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, Nhà nước pháp quyền XHCN, đại diện cho giai cấp, bảo vệ lợi ích của giai cấp, của dân tộc. Quyền lực của Nhà nước được thể hiện bằng pháp luật để giữ vững trật tự xã hội. Nhà nước mạnh hay yếu, phồn thịnh hay suy thoái, rạng ngời hay mờ nhạt trên trường quốc tế đều do bộ máy lãnh đạo nắm quyền điều khiển theo Hiến pháp và pháp luật.
Mọi quyền lực của Nhà nước đều được thể hiện ở Hiến pháp và pháp luật. Quyền lực còn thể hiện ở năng lực của bộ máy điều hành toàn bộ hoạt động của đất nước theo luật pháp. Cho nên quyền lực mạnh hay yếu là ở pháp luật căn chỉnh theo Hiến pháp hay không, thực sự là Nhà nước dân chủ nhân dân, nhà nước pháp quyền XHCN hay không. Khi đã có pháp luật thực sự của dân, do dân, thực sự đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp, của dân tộc thì quan trọng nhất là sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ, khăng khít như là một của quyền lực (pháp luật) với uy quyền (người lãnh đạo) trong mối quan hệ tổng thể của quyền lực. Đây là vấn đề mấu chốt, nhân dân ta luôn đòi hỏi cao đối với bộ máy lãnh đạo Nhà nước từ Trung ương tới cơ sở. Cốt lõi của vấn đề là công tác cán bộ, là phẩm chất quyền lực. Bởi cán bộ lãnh đạo là đầu tầu vạn năng, là móc xích quan trọng nhất để đưa đất nước tiến lên trong mọi chặng đường cách mạng; đặc biệt thời kỳ hiện nay: Thời kỳ xây dựng nền dân chủ XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, nền kinh tế số, kinh tế tri thức và biến đổi khí hậu, nước biển dâng; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trong bối cảnh tình hình trong nước, khu vực và thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Thời kỳ mà, hơn bao giờ hết cán bộ lãnh đạo các cấp phải ghi nhớ, bất cứ ai cũng không có quyền lực tuyệt đối ngoài pháp luật.    
Quyền lực và phẩm chất quyền lực      
Lịch sử phát triển xã hội của các quốc gia xét đến cùng thực chất là sự chuyển giao quyền lực và uy quyền lãnh đạo theo hướng đi lên. Thời xa xưa quyền lực là bạo lực, nhưng không có sức mạnh vô song. Sau đó, quyền lực được thay thế bằng của cải, nhưng của cải cũng không phải vô cùng. Thời nay, dường như nhân loại đã và đang lấy tri thức làm động lực phát triển xã hội. Tri thức đang thực sự là năng lượng của quyền lực và uy quyền của hệ thống chính trị ở bất kỳ một quốc gia nào. Bởi tri thức là vô hạn, có sức mạnh vô song. Tri thức chứa trong lòng nó sức sáng tạo, tiềm năng dân chủ, bình đẳng, nhân văn và nhân quyền sâu rộng. Đây là điều mà Alvin Toffler, tác giả ấn phẩm “Thăng trầm quyền lực” đã đề cập. Ở đó, phẩm chất, năng lực và uy tín của người lãnh đạo, đặc biệt người lãnh đạo cấp chiến lược có vai trò “trụ cột” đối với sự thăng trầm của giai cấp, của chế độ xã hội.
Đất nước mãi tôn vinh tên tuổi những vị anh hùng và những nhà lãnh đạo có công làm sáng danh quốc thể. Nhân dân cũng mãi nguyền rủa những người nắm giữ quyền lực nhưng u tối, làm trái hoặc đi ngược lại quyền lợi của đất nước, của dân tộc. Chưa khi nào như lúc này nhân dân ta lại quan tâm đến công tác xây dựng đảng, xây dưng đội ngũ cán bộ nắm giữ quyền lực của Đảng như lúc này. Đó là dấu hiệu tốt đẹp của một xã hội luôn muốn đi lên. Cũng bởi, lâu nay sự suy thoái về chính tri, tư tưởng, phẩm chất của không ít cán bộ, kể cả những người quyền cao, chức trọng có những biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lạm quyền, kéo nhóm, kéo bè làm trái pháp luật, gây hại cho dân cho nước. Họ nắm giữ quyền lực nhưng không nêu gương, không “lấy chính để dắt dẫn người” và họ đã bị nhân dân và luật pháp vạch mặt, nghiêm khắc trừng phạt. Cho nên, chỉnh đốn Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược do Đảng định ra được nhân dân hết sức quan tâm, đồng tình ủng hộ, năng nổ góp sức thực hiện.
Nhân dân luôn đòi hỏi cán bộ lãnh đạo từ Trung ương tới cơ sở phải thực sự là tấm gương ngời sáng về phẩm chất, năng lực và uy tín. Nhân dân cũng mong bộ máy lãnh đạo nên tinh gọn, “quân quý ở tinh nhuệ, không quý ở số đông” theo cách của Tướng quân Trần Hưng Đạo thuở chống giặc ngoại xâm phương Bắc. Đường hướng xây dựng đôi ngũ cán bộ do Trung ương định ra rất sáng rõ. Thiển nghĩ, việc triển khai thực hiện phải thực sự là một cuộc cách mạng về tư duy của cán bộ, đặc biệt những người đứng đầu các cấp, các ngành, tỉnh, thành trong cả nước.
Nói về phẩm chất cán bộ lãnh đạo, cũng có nghĩa là nói đến phẩm chất của quyền lực. Phẩm chất ấy không chỉ ở tinh tướng, diện mạo, sắc thái uy nghiêm mà hàm chứa nội lực của người lãnh đạo. Lãnh đạo phải là người thông minh, nhận thức chính trị sâu sắc, thái độ chính trị, bản lĩnh rõ ràng, giàu lòng đam mê, kiên trì, chăm chỉ, nỗ lực để thành công trong công việc được tổ chức giao phó. Đó là khả năng làm chủ công việc; trung thành, nhiệt huyết với mục tiêu cách mạng, biết cách truyền cảm hứng nhận thức và hành động tới mọi người. Đó phải là người luôn thực sự hiểu biết về bản thân mình, về những việc mình làm. Tự tin. Biết đồng cảm, sẻ chia với người khác. Đồng thời phải là người dũng cảm chịu đựng xung đột, biết cách vượt lên. Theo đó, phải là người luôn luôn thượng tôn pháp luật, lấy chính để dắt dẫn người. Không khi nào để những mối quan hệ dòng họ, tiền tệ, phe nhóm lôi kéo. Không độc quyền, lạm quyền, không vô hiệu hóa cán bộ có tài năng. Không chạy chức, chạy quyền, háo danh, háo lộc, tham ô, tham nhũng. 
Nói về năng lực của người lãnh đạo, tức là nói đến tài năng làm việc của họ với người khác. Thông qua làm việc với người khác để đạt được mục tiêu công việc của mình. Điều này dễ nhận thấy ở mọi cấp độ lãnh đạo, họ biết cách làm việc, biết lắng nghe, biết tiếp thu ý kiến phản biện, biết tổng quát và mở hướng đi lên. Đây là biểu hiện tri thức, trí tuệ, tư duy, tài năng dắt dẫn, cảm hóa thuộc cấp của mình một cách đàng hoàng, đĩnh đạc, minh bạch; không cậy thế cậy quyền, không lên mặt, không thủ đoạn. Năng lực của người lãnh đạo còn thể hiện rõ trong tiến trình thực hiện công việc, biết chọn ra những khâu quan trọng, những nút thắt cần tháo gỡ, biết quyết định đúng chỗ, đúng lúc; biết trước hiệu quả công việc do mình lãnh đạo, chỉ đạo. Năng lực của người lãnh đạo cũng có nghĩa là khả năng thực hiện một nhiệm vụ trọn vẹn. Người tài năng luôn đi bằng tất cả trái tim. Luôn dấn thân làm việc để hiểu, làm rồi mới nói. Nói khi đăng đàn bằng những điều mình học, mình làm, mình hiểu sẽ sâu sắc, bắt mắt, bắt lòng người nghe.   
Đặc biệt thời hội nhập, thời cách mạng công nghiệp 4.0, người lãnh đạo ở cấp độ nào cũng phải có kiến thức để tạo lập môi trường làm việc; để có kỹ năng thực hiện công việc; để có thái độ khéo léo xử lý mọi tình huống có thể xảy ra. Với người lãnh đạo, nhất là lãnh đạo ở cấp chiến lược thì năng lực là điều tối quan trọng. Những người như thế luôn luôn được nhân dân yêu mến, kính trọng; đồng cấp mến mộ, thế giới nể trọng, tổ chức chọn lựa trao giữ quyền điều hành công việc quan trọng của đất nước. Họ chính là người tạo dựng sức lan tỏa sâu rộng, sáng danh non nước với nhân loại trên khắp hành tinh. 
Nói về uy tín của người lãnh đạo, thì uy tín thực sự là một tiêu chí có tính tích hợp các tiêu chí phẩm chất, năng lực để tạo nên uy tín. Cho nên uy tín là một tiêu chí, tiêu chuẩn vô cùng quan trọng phải có của người lãnh đạo các cấp, nhất là cấp Trung ương. Thiếu uy tín, mất uy tín cũng có nghĩa là thiếu lòng tin, mất lòng tin với mọi người, có nghĩa là uy danh, uy quyền không còn thì làm sao có thể lãnh đạo được! Cho nên uy tín của người lãnh đạo phải là uy tín đích thực, là sự ảnh hưởng lớn lao từ quyền uy với công việc, được tín nhiệm, được tin yêu của cấp dưới. Nghĩa là người lãnh đạo phải thực sự có đức, có tài, giàu bản lĩnh, giàu năng lực chuyên môn, gắn bó máu thịt với nhân dân. Nói đi đôi với làm. Biết trọng lời hứa. Gần dân, sát dân, hiểu dân. Ngay thẳng, trung thực, thật thà, lịch thiệp. Luôn chăm lo đời sống cho nhân dân...Uy tín để lãnh đạo là đương nhiên, nhưng uy tín có được là sự tích tụ của quá trình đào tạo, làm việc, học tập, rèn rũa, gìn giữ về phẩm chất, đạo đức, về năng lực, tâm lý chia sẻ, thu phục lòng người. Cho nên, lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: “Đạo đức cách mạng là cái gốc của người cán bộ!”   
Công tác cán bộ là việc đại sự, rất quan trọng của quốc gia. Trung ương Đảng đã có nghị quyết, có kế hoạch triển khai thực hiện rất bài bản. Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII diễn ra từ ngày 25 và 26-12-2018 cho ý kiến về việc quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhiệm kỳ 2021-2026; tiến hành lấy phiếu tín nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương đối với các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, với cách làm căn cơ, bài bản, chặt chẽ, thận trọng, tin rằng trong nhiệm kỳ tới sẽ có đội ngũ cán bộ đủ đức, xứng tầm với nhiệm vụ trong tình hình mới, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.
Nhà báo Nguyễn Uyển
Nguyên Trưởng Ban Công tác Hội, Hội Nhà báo Việt Nam

http://xaydungdang.org.vn/Home/dien-dan/2018/12435/Quyen-luc-va-pham-chat-quyen-luc.aspx
KHÔNG ĐỊNH KIẾN GIỚI
Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nhiều tiến bộ đáng khâm phục về bình đẳng giới, về sự phát triển của phụ nữ ở mọi lĩnh vực…Tuy nhiên, trong thực tế, ở đâu đó vẫn còn hiện tượng định kiến về giới.

Tạp chí Forbes Việt Nam vừa công bố danh sách 50 phụ nữ ảnh hưởng nhất Việt Nam năm 2019. Theo đó, họ là các chính trị gia, doanh nhân, nhà khoa học, nhà báo, nhà văn, nhạc sĩ…có tinh thần dấn thân, dám nghĩ dám làm, bền bỉ, giúp họ vươn lên thành công trong lĩnh vực của mình, đồng thời xác lập và khẳng định những giá trị mới với người phụ nữ thời hiện đại.
Sự ghi nhận này là một trong biểu hiện phản ánh sự thật rằng phụ nữ có thể làm mọi việc nam giới có thể làm, và đương nhiên ngược lại, nam giới cũng có thể thành công ở những lĩnh vực tưởng như chỉ dành cho phụ nữ.
Tuy nhiên, trong đời sống xã hội ở các cung bậc khác nhau, định kiến về giới còn khá nặng nề, nhất là sự kỳ thị đối với nữ giới. Định kiến là nhận thức, đánh giá tiêu cực, thiên lệch về vị trí, vai trò, đặc điểm, năng lực của nam và nữ, như: Phụ nữ là yếu đuối, phụ thuộc, nên dành thời gian chăm lo gia đình, dạy dỗ con cái, nên đứng sau chồng; đàn ông phải cao thượng, phải cứng rắn, phải làm các việc xã hội, làm chính trị, kinh doanh chứ không nên làm việc nhà; phụ nữ học hành không cần nhiều, nhất là không nên hơn chồng; đàn ông phải là trụ cột, lo việc lớn, quyết định những việc quan trọng; đàn ông có quyền dạy bảo vợ, vợ có nghĩa vụ tuân phục chồng…
Rõ ràng các định kiến thường sai, không phản ánh đúng khả năng thực tế của từng người, nhưng định kiến lại dẫn đến giới hạn sự tham gia hay lựa chọn của cá nhân đối với các cơ hội. Định kiến khiến phụ nữ ít cơ hội phát triển, thăng tiến hơn nam giới; nhiều trường hợp lao động như nam giới nhưng thu nhập thấp hơn; và tệ hại nhất là bạo lực gia đình mà phụ nữ đa số là nạn nhân.
Chính vì định kiến về giới có ở không ít nền văn hóa, dù mức độ khác nhau, nên bình đẳng giới là một trong những giá trị mang tính toàn cầu. Mục tiêu mà bình đẳng giới đặt ra là xóa bỏ sự phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam và nữ, thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống gia đình, xã hội.
Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nhiều tiến bộ đáng khâm phục về bình đẳng giới, về sự phát triển của phụ nữ ở mọi lĩnh vực…Tuy nhiên, bình đẳng giới vẫn còn là một hành trình phức tạp. Theo Luật Bình đẳng giới thì: “Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”. Nhưng từ điều luật đến cuộc sống, còn có một rào cản lớn đó chính là định kiến về giới.
Quyền con người của mỗi một cá thể là như nhau, không phân biệt họ là nam, là nữ, hay giới tính thứ ba, do đó định kiến về giới là một sự phi lý phải kiên quyết xóa bỏ.
Xóa bỏ định kiến về giới không chỉ dừng ở việc thay đổi nhận thức mà quan trọng hơn, phải giúp con người sống với đúng bản chất của mình. Có nghĩa là phải xây dựng được một thái độ sống đúng đắn, tích cực để từ đó người ta có thể thay đổi chính mình. Thay đổi định kiến để mạnh dạn đánh thức tiềm năng cùng với những đam mê, khát vọng, ý chí và bản lĩnh của người phụ nữ; phát huy ý thức trách nhiệm, sự thấu cảm, chia sẻ và những kỹ năng ở người đàn ông… cũng là một cách tích cực để tạo cơ hội cho mỗi người sống đúng với khả năng, sở thích, sở trường của mình, chung tay xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn, đóng góp nhiều hơn cho cộng đồng xã hội.
Xóa bỏ kỳ thị về giới, định kiến về giới là mục tiêu cần kiên trì, bền bỉ, thực hiện với sự sáng suốt, nhân văn và khoa học cả 365 ngày/năm, chứ không phải chỉ là những lời chúc tụng, những bó hoa chúc mừng trong mỗi dịp 8-3./

Đăng Dương

http://xaydungdang.org.vn/Home/dien-dan/2019/12681/Khong-dinh-kien-gioi.aspx
BẢO ĐẢM AN NINH TRÊN MẠNG XÃ HỘI – NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
Mạng xã hội tuy là một phương thức kết nối mới trong vài năm gần đây giữa các thành viên tham gia nhưng thời gian qua đã nhận được sự quan tâm, chú ý và hưởng ứng tích cực của nhiều người. Bên cạnh những hiệu quả đem lại, các mạng xã hội cũng có một số tồn tại, hạn chế nhất định; đặc biệt đối với công tác đảm bảo an ninh, trật tự xã hội, nhất là về tư tưởng, văn hóa. Để bảo đảm hoạt động trên không gian mạng không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật An ninh mạng ngày 12-6-2018 gồm bảy chương, 43 điều và chính thức có hiệu lực từ ngày 1-1-2019.

Bên cạnh những biện pháp, chế tài được xây dựng dưới góc độ khoa học pháp lý, góc độ hành chính, kinh tế được quy định tại Luật An ninh mạng, các Luật liên quan và các văn bản hướng dẫn; cần thiết tiếp cận, nhìn nhận những tác động của mạng xã hội qua nhiều chiều hướng khác nhau để tăng cường hiệu quả tích cực, hạn chế những điểm tồn tại; đồng thời, đưa ra những khuyến nghị có thể góp phần hoàn thiện, bổ sung thêm nội dung trong quy trình đánh giá cán bộ, đảng viên; nâng cao hiệu quả công tác xây dựng đảng trong thời kỳ mới.
 Để có thể nâng cao tính tích cực của mạng xã hội, đồng thời điều chỉnh, cải thiện những điểm tồn tại, hạn chế của phương thức truyền thông này, cần xây dựng những định hướng để có thể bảo đảm giữ được tính tích cực, hạn chế việc kiểm soát nội dung; giúp người sử dụng và người quản lý có thể cùng khai thác được tối đa lợi ích và tác dụng của mạng xã hội, xuất phát từ quan điểm áp dụng các biện pháp quản lý mạng xã hội, ứng dụng những kết quả để góp phần nâng cao hiệu quả công tác xây dựng đảng trong thời kỳ mới, xin được đề xuất một số khuyến nghị như sau:

Thứ nhất, cần thiết phải đưa những nhận xét, đánh giá về hoạt động của các cá nhân, đặc biệt là đảng viên trên mạng xã hội thành một trong những tiêu chí đánh giá và sử dụng cán bộ ở cơ sở để bảo đảm tính khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Trên cơ sở đó, có thể chủ động, tích cực phát hiện, thu hút, trọng dụng người có đức, có tài, khát khao cống hiến; đồng thời, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, ngăn chặn các phần tử cơ hội, giữ gìn an ninh chính trị nội bộ. 
Thứ hai, có thể chỉ đạo nghiên cứu để sớm bổ sung nội dung giảng dạy về tương tác trên mạng xã hội như một nội dung mở rộng đối với chương trình và tài liệu trong hệ thống đào tạo, bồi dưỡng của Đảng như: Bồi dưỡng cán bộ nguồn quy hoạch, bồi dưỡng nâng cao năng lực lãnh đạo quản lý cán bộ, giảng dạy hệ trung cấp, cao cấp lý luận chính trị - hành chính… 
Thứ ba, cần gia tăng tỷ lệ kiềm chế những hành vi xấu, xây dựng các chế tài đủ mạnh để có thể hạn chế được những thái độ tiêu cực trên mạng xã hội. Về lâu dài, cần thiết phải có sự định hướng khôi phục những giá trị nền tảng của xã hội áp dụng cho cộng đồng mạng mà nòng cốt là các đảng viên, đặc biệt là các đảng viên trẻ, ví dụ như xây dựng một Bộ Quy ước ứng xử văn minh trên mạng xã hội. Đồng thời, cần được đầu tư nhiều hơn nữa đối với hoạt động của hệ thống các cơ quan của Đảng để có đủ nguồn lực mạnh nghiên cứu về công tác truyền thông trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0; trên cơ sở đó có thể cập nhật phương thức chỉ đạo tuyên truyền, vận động phù hợp trong thời đại mới. 
Thứ tư, tiếp tục hỗ trợ, đẩy mạnh công tác giáo dục và đào tạo, xây dựng mô hình gia đình văn hóa, cộng đồng lành mạnh, gắn kết, hợp tác và quan tâm lẫn nhau; không để cá nhân cô độc, tách biệt khỏi xã hội hiện thực; khuyến khích sự tôn trọng, bảo vệ và kết nối niềm vui, thành quả tạo ra ràng buộc xã hội; môi trường bạn bè, gia đình sẽ góp phần tạo dựng nền tảng niềm tin trong cộng đồng những người sử dụng mạng xã hội, từ đó lan tỏa hiệu ứng tích cực tới đời sống xã hội như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã từng khẳng định: “… phải đổi mới toàn diện, căn bản và mạnh mẽ giáo dục, chấn hưng giáo dục để chấn hưng kinh tế, có chiến lược xây dựng gia đình là những tế bào lành mạnh của xã hội để chấn hưng đạo đức xã hội, thúc đẩy phát triển và hiện đại hóa xã hội.” Bên cạnh các phong trào xã hội, cần thử nghiệm, xây dựng những phương thức liên kết, tăng cường tương tác giữa những thành phần quần chúng tích cực, đảng viên nhiệt tình để xây dựng những mô hình nhóm, hội hoạt động có hiệu quả trên mạng xã hội; góp phần chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch; đồng thời tích cực tuyên truyền, vận động các thành viên mạng xã hội thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. 
Có thể nhận thấy mạng xã hội nói riêng và in-tơ-nét nói chung là một bước tiến lớn trong công nghệ của loài người, giúp cải thiện mạnh mẽ về khả năng kết nối, trao đổi giữa các thành viên; đồng thời cũng đặt ra yêu cầu cần giải quyết tốt, bảo đảm ổn định chính trị, an ninh trên cộng đồng mạng xã hội. Trên cơ sở quá trình tiếp cận, phân tích một cách khách quan, đa chiều về những vấn đề nội tại của mạng xã hội để đánh giá chính xác thực trạng, những tác động tới các mặt đời sống thực tế; các khuyến nghị trên có thể giúp gợi ý được một số giải pháp bảo đảm an ninh trên mạng xã hội; đồng thời, nâng cao trách nhiệm của các thành viên, đặc biệt là đảng viên trên không gian mạng xã hội; góp phần loại trừ những ảnh hưởng tiêu cực, tăng cường tính khách quan trong quy trình đánh giá, đào tạo và sử dụng cán bộ, đảng viên, nâng cao hiệu quả công tác xây dựng đảng trong thời kỳ mới.

Trung Thanh
Sở Du lịch TP. Hà Nội

http://xaydungdang.org.vn/Home/dien-dan/2019/12693/Bao-dam-an-ninh-tren-mang-xa-hoi-nhung-van-de.aspx
ĐIỀU KIỆN GIA NHẬP QUỐC TẾ CỘNG SẢN VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Tháng 3-1919, tại Mát-xcơ-va, V.I.Lê-nin và các tổ chức cách mạng của giai cấp công nhân các nước trên thế giới đã thành lập Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III). Với gần một phần tư thế kỷ hoạt động (1919-1943), tồn tại 24 năm, 2 tháng, 11 ngày, trải qua 7 lần đại hội, Quốc tế Cộng sản đã không ngừng đấu tranh vì quyền lợi của giai cấp vô sản và nhân dân lao động tất cả các nước, vì độc lập dân tộc, dân chủ, hòa bình và chủ nghĩa xã hội; thực sự là một Đảng Cộng sản thế giới, một tổ chức cách mạng rộng lớn nhất.
Từ ngày 19-7 đến ngày 7-8-1920 tại Pê-tơ-rô-grát và Mát-xcơ-va, Đại hội II Quốc tế Cộng sản diễn ra với 217 đại biểu của 67 tổ chức ở 37 nước tham dự. Đại hội đã thông qua các văn kiện quan trọng như Đề cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa; vấn đề thành lập và củng cố các Đảng Cộng sản kiểu mới; điều kiện gia nhập vào Quốc tế Cộng sản… Trong đó, điều kiện gia nhập vào Quốc tế Cộng sản là một nội dung rất quan trọng, có tác động to lớn tới chất lượng, hiệu quả cũng như sự tồn vong của tổ chức này. Điều kiện gia nhập Quốc tế Cộng sản gồm 21 điều do V.I.Lê-nin dự thảo, được Đại hội II thông qua đã ảnh hưởng trực tiếp đến cách thức hoạt động của các đảng cộng sản; trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam và có ý nghĩa to lớn đối với công tác phát triển đảng viên hiện nay.
Cơ sở của những điều kiện này là học thuyết Mác-Lênin về đảng kiểu mới, những nguyên tắc, tổ chức cách mạng quốc tế của Quốc tế Cộng sản. Thực tiễn cho thấy, Đại hội II Quốc tế Cộng sản diễn ra dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga đã thúc đẩy cao trào cách mạng thế giới đạt tới đỉnh cao, với sự ra đời của nhiều đảng cộng sản; nhiều đảng và nhóm vừa mới thoát ly Quốc tế II, đã đưa đơn xin gia nhập Quốc tế Cộng sản, nhưng những đảng đó trên thực tế, chưa phải là những đảng cộng sản. Theo V.I.Lê-nin: “Trên một mức độ nào đó, Quốc tế Cộng sản đã trở thành một cái mốt. Hiện tượng một nhóm những người lãnh đạo nhóm “trung phái” hiện nay mong muốn gia nhập Quốc tế III, chứng tỏ một cách gián tiếp rằng Quốc tế Cộng sản đã chinh phục được cảm tình của tuyệt đại đa số công nhân giác ngộ trên thế giới và ngày càng trở nên mạnh mẽ”[1]. Hơn nữa, trong những điều kiện nhất định, Quốc tế Cộng sản có thể bị yếu đi vì những nhóm ngả nghiêng và không triệt để, chưa cắt đứt hẳn với hệ tư tưởng của Quốc tế II. Vì vậy, Đại hội II thấy cần thiết phải quy định cụ thể những điều kiện gia nhập Quốc tế Cộng sản. Đây là việc làm cần thiết, nhằm vạch ra những nguyên tắc chính trị và tổ chức, bảo đảm sự đoàn kết nhất trí; ngăn ngừa không để cho những phần tử cơ hội chủ nghĩa, cơ hội hữu khuynh, trước hết là những phần tử phái giữa, lén lút chui vào Quốc tế Cộng sản; đồng thời cũng là để nhắc lại nghĩa vụ của các đảng cộng sản.
Đại hội II Quốc tế Cộng sản quyết định 21 điều kiện gia nhập Quốc tế Cộng sản, tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:
Tất cả mọi tài liệu tuyên truyền và lôi kéo quần chúng phải mang tính chất cộng sản, phải phù hợp với phong trào và quyết định của Quốc tế Cộng sản. Việc tuyên truyền lôi kéo phải được làm một cách có hệ thống và có phương pháp ở nông thôn. Khi công tác lôi kéo trong quân đội bị cấm bởi luật khẩn cấp thì việc tuyên truyền vẫn phải tiếp tục được làm trong bí mật.
Tất cả mọi tổ chức muốn gia nhập Quốc tế Cộng sản đều phải thường xuyên loại trừ những kẻ cải cách, những kẻ đứng giữa một cách có hệ thống ra khỏi các chức vụ trong phong trào lao động và thay thế bằng các đảng viên cộng sản đã được thử thách và không lo ngại rằng các công nhân từ quần chúng sẽ thay thế những kẻ cơ hội có kinh nghiệm.
Tất cả các đảng cộng sản muốn gia nhập Quốc tế Cộng sản phải hoàn toàn cắt đứt với những chủ nghĩa cải cách và với đường lối đứng giữa; phải không ngừng phát triển các hoạt động cộng sản một cách có hệ thống trong các tổ chức công đoàn, các ủy ban lao động và các ủy ban của công nhân, các hợp tác xã tiêu thụ trong các tổ chức quần chúng lao động khác; phải phơi bày những sự dối trá của những kẻ có hành vi đế quốc tại thuộc địa của chúng, phải ủng hộ phong trào giải phóng tại các nước thuộc địa; phải không ngừng chống lại các công đoàn vàng thuộc về Quốc tế Am-xtéc-đam; phải rà xét lại nhóm người của mình trong quốc hội, loại trừ những phần tử không thể tin tưởng được và bắt tất cả các nhóm phải chịu sự lãnh đạo của đảng; phải được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tất cả những người muốn đứng trong hàng ngũ Quốc tế Cộng sản chẳng những phải vạch mặt bọn xã hội theo chủ nghĩa ái quốc và còn vạch ra sự thiếu thành thật và đạo đức giả của bọn xã hội theo chủ nghĩa hòa bình để trình bày cho công nhân thấy được tầm quan trọng của cuộc cách mạng vô sản.
Các đảng cộng sản tại các nước cho phép người cộng sản được hoạt động hợp pháp phải thường xuyên trong sạch hóa hàng ngũ đảng bằng cách loại trừ các phần tử cơ hội và những phần tử tiểu tư sản. Các đảng còn theo đường lối dân chủ xã hội phải thay đổi đường lối, soạn thảo chương trình hoạt động phù hợp với tình hình mỗi nước. Các đảng muốn gia nhập Quốc tế Cộng sản phải đổi tên; phải đăng tất cả các văn kiện quan trọng của Quốc tế Cộng sản. Tất cả quyết định của Đại hội Quốc tế Cộng sản hay của Ban chấp hành đều có tính cách bắt buộc đối với các đảng cộng sản nằm trong Quốc tế Cộng sản.
Với tư cách là đảng viên Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc rất tâm đắc với 21 điều kiện gia nhập Quốc tế Cộng sản, Người luôn chiến đấu không biết mệt mỏi để thực hiện lý tưởng cao đẹp của V.I.Lê-nin, của Quốc tế Cộng sản; tích cực chủ động truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước; cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam quán triệt sâu sắc, vận dụng linh hoạt, sáng tạo những điều kiện gia nhập Quốc tế Cộng sản vào quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong công tác phát triển đảng viên.
Mặc dù ra đời cách đây 100 năm, nhưng những điều kiện gia nhập Quốc tế Cộng sản vẫn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa to lớn đối với công tác phát triển đảng viên ở Việt Nam hiện nay:
Thứ nhất, là cơ sở quan trọng để Đảng ta xác định điều kiện, tiêu chuẩn, thủ tục kết nạp đảng viên.
Quán triệt, cụ thể hóa những điều kiện gia nhập Quốc tế Cộng sản, trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn xác định điều kiện, tiêu chuẩn kết nạp vào Đảng đúng đắn, phù hợp. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng”[2]. Đây là những yêu cầu mà người xin vào Đảng phải có; là cơ sở để tổ chức đảng xem xét, kết nạp người xin vào Đảng, đảm bảo giữ vững bản chất giai cấp công nhân, đồng thời ngăn ngừa những phần tử cơ hội chui vào Đảng. Cùng với đó, Đảng ta còn có những yêu cầu cụ thể đối với người vào Đảng, người giới thiệu và các thủ tục chặt chẽ trong quá trình xét, đề nghị, chuẩn y kết nạp đảng viên.
Thứ hai, là cơ sở quan trọng để Đảng ta xác định phương châm phát triển đảng viên.
Đảng ta là Đảng cầm quyền, có sức hấp dẫn lớn nên cần phải thực hiện tốt phương châm phát triển đảng viên, coi trọng cả số lượng và chất lượng đảng viên. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (1976) của Đảng tổng kết về công tác xây dựng đảng chỉ rõ: Công tác phát triển đảng viên phải coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng đơn thuần, phát triển Đảng đi đôi với củng cố Đảng. Một mặt kết nạp những người ưu tú đủ tiêu chuẩn vào Đảng; mặt khác, đưa ra khỏi Đảng những phần tử thoái hoá, biến chất và những người không đủ tư cách đảng viên; cảnh giác với những phần tử cơ hội và phản động chui vào Đảng. Theo đó, trong các kỳ đại hội, văn kiện của Đảng đều nhấn mạnh coi trọng chất lượng kết nạp đảng viên: “Việc kết nạp đảng viên phải coi trọng chất lượng, tiêu chuẩn, đặc biệt tiêu chuẩn giác ngộ lý tưởng của Đảng, đạo đức, lối sống, năng lực hoàn thành nhiệm vụ”[3]“Tiếp tục đổi mới, tăng cường công tác quản lý, phát triển, sàng lọc đảng viên, bảo đảm chất lượng.[4]
Thứ ba, cần phải thực hiện đầy đủ, có chất lượng, hiệu quả các bước tiến hành phát triển đảng viên.
Quy trình, thủ tục phát triển đảng được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc sẽ góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, ngăn chặn những phần tử cơ hội vào hàng ngũ của Đảng. Do vậy, cần thực hiện có chất lượng, hiệu quả các bước tiến hành phát triển đảng viên: thẩm tra, tuyên truyền, giáo dục, lựa chọn đối tượng kết nạp vào Đảng; bồi dưỡng, rèn luyện thử thách người kết nạp vào Đảng; tổ chức hội nghị xét đề nghị kết nạp và tổ chức lễ kết nạp đảng viên; tiếp tục bồi dưỡng đảng viên dự bị và tổ chức công nhận đảng viên chính thức.
Thứ tư, phải làm tốt công tác sàng lọc đảng viên.
Đi đôi với phát triển đảng viên, Đảng ta luôn coi trọng công tác sàng lọc đảng viên: “Kiên quyết đưa ra khỏi đảng những người vi phạm nghiêm trọng Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước”[5], “Thực hiện nghiêm túc công tác rà soát, sàng lọc đảng viên; kiên quyết, kịp thời đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng”[6]. Các cấp ủy, tổ chức đảng cùng với kết nạp những quần chúng ưu tú vào Đảng, cần làm tốt việc sàng lọc, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những phần tử cơ hội, những đảng viên thiếu gương mẫu, thiếu bản lĩnh, bị cám dỗ bởi lợi ích cá nhân, suy thoái “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu để giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, củng cố lòng tin, tăng cường uy tín, thanh danh của Đảng.
Tóm lại, những điều kiện gia nhập Quốc tế Cộng sản được thông qua tại Đại hội II đến nay vẫn còn nguyên giá trị; là cơ sở quan trọng để các đảng cộng sản nói chung, Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng quán triệt, vận dụng linh hoạt vào quá trình lãnh đạo cách mạng, xác định nguyên tắc tổ chức hoạt động, bảo đảm sự đồng thuận, thống nhất trong Đảng; ngăn ngừa những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị chui vào Đảng. Đặc biệt, nó có ý nghĩa to lớn đối với công tác phát triển đảng viên của Đảng ta hiện nay, góp phần xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh, có số lượng đông, chất lượng cao, xây dựng tổ chức đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức./.


[1] V.I.Lê-nin, Những bài nói trước những Đại hội của Quốc tế Cộng sản, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1962, tr.136.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều lệ Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.8.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.301.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.205.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.205.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Chỉ thị Số 28-CT/TW “về nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng”, Ban Bí thư, ngày 21 tháng 01 năm 2019.

Nguyễn Xuân Quốc
Hệ sau đại học, Trường Đại học Chính trị, Bộ Quốc phòng

http://xaydungdang.org.vn/Home/dien-dan/2019/12698/Dieu-kien-gia-nhap-Quoc-te-Cong-san-va-y-nghia-doi.aspx

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...