Thứ Năm, 9 tháng 1, 2020

LUẬN ĐIỆUXUYÊN TẠC THIẾU CĂN CỨ CỦA DÂN NGUYỄN



KHÁNH ANH

Lợi dụng Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2019 – 2024. Ngày 15/12/2019, trên trang Danlambaovn.blogspot.com, Dân Nguyễn lại đăng bài: Không nên ngộ nhận giữa chủ nghĩa yêu nước và lòng yêu nước. Thực chất bài viết của Dân Nguyễn không có gì khác đó là xuyên tạc và phản động, hòng đánh lừa người đọc nếu như không tìm hiểu các hoạt đông, các diễn đàn mà Đại hội đã thảo luận.
Thứ nhất, bằng cách đưa thông tin không đầy đủ về các hoạt động của Đại hội, các nội dung trong phong trào “Tôi yêu Tổ quốc tôi” của Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam, Dân Nguyễn cho rằng, Đại hội đã: “Ngộ nhận về chủ nghĩa yêu nước”.
Chúng ta đều biết, từ ngày 10-12/12/2019 tại Hà Nội đã diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, nhiệm kỳ 2019 – 2024. Với khẩu hiệu hành động “Thanh niên Việt Nam yêu nước, sáng tạo, tình nguyện, hội nhập, phát triển”, Đại hội đã tập trung đánh giá việc triển khai Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam lần thứ VII và phong trào “Tôi yêu Tổ quốc tôi”. Mục đích là: thông qua công tác tuyên truyền, phổ biến để đưa phong trào đến với thanh niên, vận động thanh niên thi đua rèn luyện, vận động thanh niên thi đua cống hiến, vận động thanh niên sống có trách nhiệm….
Đại hội đã xác định tiếp tục triển khai phong trào: “Tôi yêu Tổ quốc tôi” trong nhiệm kỳ 2019 -2024, với 5 nội dung chính, bao gồm: Thanh niên Việt Nam yêu nước, bản lĩnh; Thanh niên Việt Nam sáng tạo, khởi nghiệp; Thanh niên Việt Nam sống đẹp, sống có ích; Thanh niên Việt Nam tình nguyện vì cộng đồng; Thanh niên Việt Nam khỏe thể chất, vững kỹ năng, chủ động hội nhập quốc tế. Như vậy, với việc thông tin không đầy đủ các nội dung của phong trào “Tôi yêu Tổ quốc tôi”, Dân Nguyễn đã dùng cách đánh tráo khái niệm, so sánh khập khiễng, sau đó lập luận một cách vô căn cứ để rồi cho rằng Đại hội đã ngộ nhận về chủ nghĩa yêu nước.
Thứ hai, Dân Nguyễn đã “chỉ ra” những tác hại của sự ngộ nhận đó là: “Xã hội từ đó hỗn loạn về mọi mặt, đặc biệt về nhân cách và đạo đức; lòng yêu nước chi phối toàn diện, tất nhiên pháp luật sẽ không được thực thi. Một xã hội vô chính phủ hiện nguyên hình bằng những hành vi hoang dã nhân danh ‘lòng yêu nước gắn liền yêu CNXH…”
Không biết tên Dân Nguyễn có đọc những nội dung mà phong trào “Tôi yêu Tổ quốc tôi” của Liên hiệp Thanh niên Việt Nam đã phát động hay không?! Thiết nghĩ, những nội dung đó với bất kỳ ai, bất kỳ người thanh niên nào, kể cả thanh niên các nước trên thế giới đều thấy đó là những mục tiêu rất cao cả, rất tốt đẹp để mỗi thanh niên Việt Nam trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, mọi miền của Tổ quốc đều hướng tới và mong muốn phấn đấu đạt được. Với mục tiêu xây dựng thế hệ trẻ Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn về nhân cách, phẩm chất đạo đức, có trí tuệ, thể lực; sống có lý tưởng, có ý chí vươn lên, biết cống hiến, hy sinh vì cộng đồng và luôn hướng tới những giá trị chân, thiện, mĩ của cuộc sống. Tốt đẹp là vậy, thế nhưng Dân Nguyễn lại cho rằng những giá trị đó sẽ làm cho “xã hội từ đó hỗn loạn về mọi mặt, đặc biệt về nhân cách và đạo đức; lòng yêu nước chi phối toàn diện…” Phải chăng, theo cách hiểu của Y thì thế hệ thanh niên ngày nay chỉ biết sống hưởng thụ, sống buông thả ngoài khuôn khổ pháp luật, không theo các chuẩn mực xã hội, sống không có trách nhiệm với cộng đồng thì mới là những công dân tốt? Và, thật phi lý khi Dân Nguyễn còn cho rằng, những giá trị cao đẹp đó “lại xóa bỏ hệ thống pháp luật của xã hội? và làm cho đất nước trở thành một xã hội vô chính phủ…?”. Dân Nguyễn phải hiểu rằng, khi con người có phẩm chất đạo đức tốt, sống có ích, có lý tưởng, có trách nhiệm với cộng đồng… thì đó chính là những người sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, điều này làm cho nền tảng pháp luật của xã hội ngày càng được củng cố vững chắc. Đó chính là cơ sở xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, hoàn toàn không như những gì mà Dân Nguyễn đề cập.
Như vậy có thể thấy, tất cả những nội dung mà Dân Nguyễn nêu ra trong bài viết chỉ là xuyên tạc, vu khống, chống phá đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà thôi. Vì vậy, mỗi người dân Việt Nam, nhất là thanh niên hãy cảnh giác vạch trần, lên án và kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận điệu nêu trên của Dân Nguyễn./.


VẠCH TRẦN SỰ NHAM HIỂM CỦA TRÍ NGUYỄN



Công Đặng
Bằng những thủ đoạn như: trích dẫn cắt xén, thêm bớt nội dung, hình ảnh; bịa đặt thông tin rồi mập mờ nói đó là nguồn tin riêng;… Trí Nguyễn và những kẻ vẫn tự xưng hay vẫn tán dương nhau là “nhà dân chủ, người yêu nước” đã tự lộ rõ bản chất bất lương của chúng, nên không ngẫu nhiên dư luận lại thường gọi chúng là “nhà dân chủ cuội, người yêu nước dỏm”. Đến nay, dù những trò dối trá luôn bị cư dân mạng vạch trần, truy nguyên nguồn gốc, nhưng chúng vẫn không dừng lại, vì đó là cái cần câu cơm của những kẻ sống nhờ những đồng USD bẩn thỉu từ những tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Việt Nam. Chính vì thế, khi tiếp xúc với thông tin chúng đưa ra, chúng ta cần hết sức tỉnh táo, để không bị mê hoặc, thao túng, lợi dụng.
Chúng ta đều biết, việc xem xét kỷ luật đối với ông Hoàng Trung Hải và khởi tố các lãnh đạo liên quan đến Dự án Gang Thép Thái Nguyên đã được tiến hành một cách bài bản, thận trọng với tinh thần sai phạm đến đâu xử lý đến đó, đúng người, đúng tội. Đặc biệt, công khai trước dư luận, đã chỉ rõ đến từng cá nhân vi phạm, không còn là lỗi của tập thể và không có “vùng cấm”.
Nhìn lại các cá nhân, tập thể bị thi hành kỷ luật và xử lý hình sự trong thời gian qua chúng ta có thể khẳng định, không có chuyện “phe phái” hay là vì bất cứ lý do “không chính đáng” nào, cũng không có chuyện “thanh trừng” như luận điệu xuyên tạc một số đối tượng cơ hội chính trị rêu rao. Trong “cuộc chiến” giữa thanh thiên bạch nhật này, nếu có chuyện thanh trừng thì đó chỉ là “giặc nội xâm” đang bòn rút bạc tiền của người dân. Không thể để một bộ phận cán bộ đảng viên được Đảng và nhân dân giao trọng trách lại có thể dùng trọng trách được giao để “moi ruột nước, móc túi dân” như một số kẻ đã từng làm. Chủ trì phiên họp thứ 16 Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban chỉ đạo đã khẳng định, “một không khí phấn khởi đang lan tỏa trong toàn xã hội” bởi niềm tin của người dân vào “cuộc chiến” chống tham nhũng ngày càng được củng cố.
Như vậy có thể thấy, việc xem xét kỷ luật ông Hoàng Trung Hải – một Ủy viên Bộ Chính trị, từng giữ chức vụ Phó Thủ tướng (hay trước đây là xét xử ông Đinh La Thăng) đã truyền đi thông điệp mạnh mẽ, quyết tâm của Đảng trong việc làm trong sách bộ máy Nhà nước. Có vi phạm sẽ phải bị xử lý, không có vùng cấm. Đây chính là “cú tát” vào những kẻ chuyên đi xuyên tạc, bịa đặt như Trí Nguyễn và đồng bọn.
Vì vậy, cho dù công cuộc phòng chống tham nhũng, suy thoái có không ít những chua xót. Việc “cho củi vào lò” là bất đắc dĩ song không thể không làm vì nó liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ và việc “đốt lò” cần đến trí tuệ chứ không phải nơi dành cho những kẻ “phàm phu tục tử” buông lời chọc ngoáy thiếu đạo đức. Những luận điệu xuyên tạc, bịa đặt của Trí Nguyễn và đồng bọn tuy chẳng thể lừa phỉnh được ai, nhưng những luận điệu xuyên tạc, bịa đặt của chúng cần phải được vạch trần, lên án và đấu tranh bác bỏ một cách triệt để, kiên quyết./.


PHÊ PHÁN LUẬN ĐIỆU PHỦ NHẬN SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI LỰC LƯỢNG VŨ TRANG



Công Đặng
"Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi "phi chính trị hóa" quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an" là một trong 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được nêu trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đây cũng chính là âm mưu thâm độc trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, vì vậy, chúng ta cần phê phán, đấu tranh, bác bỏ.
Các thế lực thù địch luôn công kích, phủ nhận nguyên tắc “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân; đề nghị “bỏ quy định lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam” (Điều 65, Chương IV) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Đi cùng với phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi “phi chính trị hóa” quân đội và công an, các thế lực thù địch còn xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an.
Đây là sự chống phá cực kỳ nguy hiểm và trên thực tế, các thế lực thù địch đã và đang đẩy mạnh xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác quốc phòng, an ninh, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Chúng ra sức xuyên tạc, bôi nhọ bản chất, truyền thống của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; làm giảm lòng tin của nhân dân đối với quân đội và công an; xuyên tạc các sự kiện lịch sử có ý nghĩa chính trị trọng đại của đất nước có lực lượng quân đội và công an tham gia, nhằm làm mất uy tín, vị thế, vai trò của hai lực lượng này trước nhân dân. Thâm độc hơn, chúng còn thực hiện các thủ đoạn tạo mối nghi ngờ, hiềm khích, gây ly gián Quân đội nhân dân với Công an nhân dân, lực lượng vũ trang với các cơ quan Đảng, Nhà nước... 
Sự chống phá của các thế lực thù địch là vậy, nhưng một số cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân do thiếu hiểu biết, thiếu rèn luyện, học tập chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, đã bị dao động, bi quan, dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” như Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ ra. Đáng lưu ý, thông qua internet, các trang mạng xã hội, blog cá nhân... biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ngày càng rõ nét và bị các thế lực thù địch lợi dụng để thúc đẩy chiến lược “Diễn biến hòa bình” nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Có thể khẳng định, biểu hiện này trong một số cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân là rất nguy hiểm và cần phải kiên quyết loại trừ. Bởi thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chỉ rõ, bài học thành công của Đảng trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của giai cấp vô sản chính là xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cốt lõi là giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; chăm lo xây dựng bản chất giai cấp công nhân gắn với xây dựng tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. 
Chỉ dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất, với đường lối vũ trang cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng, lực lượng vũ trang mới tôi luyện được bản lĩnh chính trị vững vàng, nâng cao sức mạnh chiến đấu tổng hợp, thực sự là chỗ dựa tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong thực hiện các chủ trương, đường lối, chiến lược, sách lược bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Và trên thực tế, trong hơn 70 năm qua, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam luôn vượt qua những khó khăn trở ngại, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Đó là sự thật hiển nhiên không thể xuyên tạc, bóp méo.
Chúng ta cần phải đẩy mạnh đấu tranh phản bác lại những luận điệu chống phá của các thế lực thù địch, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đặc biệt là biểu hiện: “Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi “phi chính trị hóa” quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an”. Muốn làm được điều đó, cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, cần cung cấp thông tin chính thống về lĩnh vực quốc phòng - an ninh đến cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân một cách kịp thời, chính xác, khách quan, trung thực. Bởi quốc phòng - an ninh là lĩnh vực đặc thù, có liên quan trực tiếp đến sự an nguy của quốc gia, dân tộc. 
Hơn nữa, khi cán bộ, đảng viên và nhân dân được cung cấp thông tin chính thống nhanh chóng và chính xác, các thế lực thù địch sẽ ít có cơ hội thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình”, đồng thời ngăn chặn hiệu quả những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Hai là, luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với QĐND và CAND trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Đây vừa là nguyên tắc, vừa là quy luật cơ bản trong xây dựng quân đội và công an kiểu mới, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng chỉ rõ: “... phải tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”, làm cho quân đội và công an thật sự đoàn kết, gắn bó, là lực lượng xung kích đi đầu trong ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Ba là, tăng cường đấu tranh phòng chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch hòng làm cho QĐND, CAND Việt Nam “tự diễn biến” theo khuynh hướng “phi chính trị hóa”. Theo đó, phải tăng cường xây dựng QĐND, CAND vững mạnh về chính trị, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc; củng cố và tăng cường sức mạnh đoàn kết quân dân, góp phần giữ gìn và phát huy hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, người “Công an cách mạng”.
Bốn là, thường xuyên đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ quân đội và công an, tạo chuyển biến tích cực trong đời sống văn hóa tinh thần, khắc phục các biểu hiện tiêu cực trong đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ. Cùng với đó phải tích cực giáo dục cho mọi cán bộ, chiến sĩ có ý thức và hành động đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng với mọi biểu hiện dao động, giảm sút ý chí, niềm tin; mơ hồ, mất cảnh giác; cá nhân chủ nghĩa; suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; không tạo kẽ hở cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá nội bộ. 
Đồng thời, lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức cho các nhà khoa học, bằng cơ sở lý luận, thực tiễn sắc bén, có tính thuyết phục cao, tham mưu, đề xuất những biện pháp, cách thức đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội.




LUẬN ĐIỆUXUYÊN TẠC THIẾU CĂN CỨ CỦA DÂN NGUYỄN



KHÁNH ANH

Lợi dụng Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2019 – 2024. Ngày 15/12/2019, trên trang Danlambaovn.blogspot.com, Dân Nguyễn lại đăng bài: Không nên ngộ nhận giữa chủ nghĩa yêu nước và lòng yêu nước. Thực chất bài viết của Dân Nguyễn không có gì khác đó là xuyên tạc và phản động, hòng đánh lừa người đọc nếu như không tìm hiểu các hoạt đông, các diễn đàn mà Đại hội đã thảo luận.
Thứ nhất, bằng cách đưa thông tin không đầy đủ về các hoạt động của Đại hội, các nội dung trong phong trào “Tôi yêu Tổ quốc tôi” của Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam, Dân Nguyễn cho rằng, Đại hội đã: “Ngộ nhận về chủ nghĩa yêu nước”.
Chúng ta đều biết, từ ngày 10-12/12/2019 tại Hà Nội đã diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, nhiệm kỳ 2019 – 2024. Với khẩu hiệu hành động “Thanh niên Việt Nam yêu nước, sáng tạo, tình nguyện, hội nhập, phát triển”, Đại hội đã tập trung đánh giá việc triển khai Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam lần thứ VII và phong trào “Tôi yêu Tổ quốc tôi”. Mục đích là: thông qua công tác tuyên truyền, phổ biến để đưa phong trào đến với thanh niên, vận động thanh niên thi đua rèn luyện, vận động thanh niên thi đua cống hiến, vận động thanh niên sống có trách nhiệm….
Đại hội đã xác định tiếp tục triển khai phong trào: “Tôi yêu Tổ quốc tôi” trong nhiệm kỳ 2019 -2024, với 5 nội dung chính, bao gồm: Thanh niên Việt Nam yêu nước, bản lĩnh; Thanh niên Việt Nam sáng tạo, khởi nghiệp; Thanh niên Việt Nam sống đẹp, sống có ích; Thanh niên Việt Nam tình nguyện vì cộng đồng; Thanh niên Việt Nam khỏe thể chất, vững kỹ năng, chủ động hội nhập quốc tế. Như vậy, với việc thông tin không đầy đủ các nội dung của phong trào “Tôi yêu Tổ quốc tôi”, Dân Nguyễn đã dùng cách đánh tráo khái niệm, so sánh khập khiễng, sau đó lập luận một cách vô căn cứ để rồi cho rằng Đại hội đã ngộ nhận về chủ nghĩa yêu nước.
Thứ hai, Dân Nguyễn đã “chỉ ra” những tác hại của sự ngộ nhận đó là: “Xã hội từ đó hỗn loạn về mọi mặt, đặc biệt về nhân cách và đạo đức; lòng yêu nước chi phối toàn diện, tất nhiên pháp luật sẽ không được thực thi. Một xã hội vô chính phủ hiện nguyên hình bằng những hành vi hoang dã nhân danh ‘lòng yêu nước gắn liền yêu CNXH…”
Không biết tên Dân Nguyễn có đọc những nội dung mà phong trào “Tôi yêu Tổ quốc tôi” của Liên hiệp Thanh niên Việt Nam đã phát động hay không?! Thiết nghĩ, những nội dung đó với bất kỳ ai, bất kỳ người thanh niên nào, kể cả thanh niên các nước trên thế giới đều thấy đó là những mục tiêu rất cao cả, rất tốt đẹp để mỗi thanh niên Việt Nam trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, mọi miền của Tổ quốc đều hướng tới và mong muốn phấn đấu đạt được. Với mục tiêu xây dựng thế hệ trẻ Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn về nhân cách, phẩm chất đạo đức, có trí tuệ, thể lực; sống có lý tưởng, có ý chí vươn lên, biết cống hiến, hy sinh vì cộng đồng và luôn hướng tới những giá trị chân, thiện, mĩ của cuộc sống. Tốt đẹp là vậy, thế nhưng Dân Nguyễn lại cho rằng những giá trị đó sẽ làm cho “xã hội từ đó hỗn loạn về mọi mặt, đặc biệt về nhân cách và đạo đức; lòng yêu nước chi phối toàn diện…” Phải chăng, theo cách hiểu của Y thì thế hệ thanh niên ngày nay chỉ biết sống hưởng thụ, sống buông thả ngoài khuôn khổ pháp luật, không theo các chuẩn mực xã hội, sống không có trách nhiệm với cộng đồng thì mới là những công dân tốt? Và, thật phi lý khi Dân Nguyễn còn cho rằng, những giá trị cao đẹp đó “lại xóa bỏ hệ thống pháp luật của xã hội? và làm cho đất nước trở thành một xã hội vô chính phủ…?”. Dân Nguyễn phải hiểu rằng, khi con người có phẩm chất đạo đức tốt, sống có ích, có lý tưởng, có trách nhiệm với cộng đồng… thì đó chính là những người sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, điều này làm cho nền tảng pháp luật của xã hội ngày càng được củng cố vững chắc. Đó chính là cơ sở xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, hoàn toàn không như những gì mà Dân Nguyễn đề cập.
Như vậy có thể thấy, tất cả những nội dung mà Dân Nguyễn nêu ra trong bài viết chỉ là xuyên tạc, vu khống, chống phá đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà thôi. Vì vậy, mỗi người dân Việt Nam, nhất là thanh niên hãy cảnh giác vạch trần, lên án và kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận điệu nêu trên của Dân Nguyễn./.


CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN KHÔNG THỂ LỖI THỜI!



Thời gian gần đây, một số nhà nghiên cứu phương Tây và một bộ phận cán bộ, đảng viên trong nước cho rằng, trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời. Bởi vậy, chúng ta không thể xây dựng được một xã hội mới tốt đẹp, dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh trên nền tảng của học thuyết lỗi thời đó.
Câu hỏi đặt ra là, chủ nghĩa Mác - Lênin có thật là đã lỗi thời không khi xem xét dưới mọi bình diện, từ ý nghĩa khoa học, mục tiêu xã hội đến ý nghĩa thực tiễn? Nếu nó là lỗi thời thì nguyên nhân và cơ sở nào quy định, ngược lại nếu không lỗi thời thì tại sao và do đâu?
Những người cho rằng Chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời thường dựa chủ yếu vào 4 lý do sau đây: Thứ nhất, chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời từ những điều kiện kinh tế - xã hội của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX nên không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay. Thứ hai, CNXH hiện thực được xây dựng theo học thuyết của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I. Lênin ở Liên Xô, các nước Đông Âu đã bị sụp đổ. Hiện thực sụp đổ có nghĩa là lý thuyết sai lầm. Thứ ba, điều kiện kinh tế và xã hội ở các nước tư bản phát triển được cải thiện rất nhiều so với ở các nước đi theo con đường XHCN, chứng tỏ CNTB là ưu việt. Và thứ tư, một loạt sai lầm, khuyết điểm mà các nước đi theo con đường XHCN, trong đó có nước ta đã và đang mắc phải, chứng tỏ lý luận về CNXH là sai lầm và lỗi thời.
Trong bài viết này, chúng tôi xin trao đổi về các lý do đó.
Về lý do thứ nhất, đúng là học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen ra đời từ giữa thế kỷ XIX, trong điều kiện những mâu thuẫn của CNTB đã trở nên gay gắt, phơi bày tất cả bản chất giai cấp của nó cùng với sự bóc lột người lao động đến cùng cực. C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, tiếp thu có phê phán toàn bộ những giá trị tinh hoa của quá trình phát triển tư tưởng của nhân loại, đặc biệt là kinh tế - chính trị cổ điển Anh, triết học cổ điển Đức và CNXH không tưởng Pháp. Những học thuyết về giá trị lao động của Ađam Xmít và Đavít Ricácđô, phương pháp biện chứng của Hêghen, chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phơbách, những tư tưởng tiến bộ về xã hội của các nhà tư tưởng Pháp như Sanh Simông, Phuriê cũng đóng góp những cơ sở nhận thức quan trọng vào quá trình hình thành học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen. Cũng cần phải nói rằng, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện ra tính quy luật trong sự vận động của xã hội loài người, trong đó nhân tố quyết định là mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Đây chính là cơ sở để C.Mác và Ph.Ăngghen dự báo về tất yếu loài người sẽ tiến tới CNCS qua một giai đoạn quá độ là CNXH.
V.I.Lênin là người tiếp tục phát triển những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen vào thời kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trong điều kiện mới khi CNTB đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. V.I.Lênin có nhiều đóng góp vào phát triển các tư tưởng triết học, kinh tế - chính trị của C.Mác và Ph.Ăngghen. Đặc biệt, V.I.Lênin đã phát triển tư tưởng về khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản ở một nước tư bản riêng biệt; xây dựng học thuyết về một chính đảng mác xít kiểu mới; tổ chức cuộc cách mạng XHCN thắng lợi và vận dụng học thuyết của Mác để phân tích, giải quyết hàng loạt vấn đề trong quá trình xây dựng CNXH ở nước Nga và Liên bang Xô viết.
Đến giữa thế kỷ XX, Hồ Chí Minh là người vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam để giải quyết những nhiệm vụ to lớn của cách mạng Việt Nam, đánh thắng những đế quốc to, những kẻ thù hung bạo để giành độc lập tự do cho dân tộc, bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Điều hiển nhiên và không thể chối cãi là, dù được hiểu theo nghĩa nào, chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là khoa họcvề những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; quy luật về sự phát triển của sản xuất xã hội, về cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao động chống lại áp bức, bóc lột, mưu cầu tự do, hạnh phúc; quy luật về cách mạng XHCN và con đường xây dựng, phát triển đi tới CNCS. Vào thời điểm ra đời của học thuyết này, những tác giả của chủ nghĩa Mác - Lênin đã phê phán CNTB, chỉ ra bản chất bóc lột, tính quy luật trong sự tồn tại và phát triển của nó. Sự phê phán đó là sâu sắc và phản ánh đúng bản chất của thực tiễn xã hội đương thời. Đó là điều đã được thực tế kiểm nghiệm, được hầu hết các nhà nghiên cứu xã hội thừa nhận cho dù họ theo xu hướng chính trị nào. Từ sự phê phán CNTB đương thời, từ phát hiện tính quy luật của lịch sử xã hội loài người và từ cả thái độ nhân văn trước hiện thực tăm tối về sự thống khổ của người lao động dưới ách áp bức, bóc lột của CNTB, C.Mác, Ph.Ăngghen dự báo về một xã hội tương lai như một tất yếu lịch sử sẽ thay thế CNTB.
Cần nói rằng, những gì CNTB hiện đại đang thể hiện vẫn không đi ra ngoài tính quy luật mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra, càng minh chứng cho tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, một mặt tăng thêm tiềm lực cho CNTB. Mặt khác, nó càng thúc đẩy nhanh hơn quá trình xã hội hóa của lực lượng sản xuất, dẫn đến những thay đổi chóng mặt về quy mô, tính chất của quan hệ sở hữu, quản lý, điều hành sản xuất và phân phối của cải xã hội. Quá trình toàn cầu hóa xuất phát trước tiên từ nền kinh tế TBCN, nói cho cùng cũng như cái “áo” trong khung khổ từng quốc gia đã quá chật hẹp, buộc phải nới ra trên phạm vi toàn thế giới. Sự áp bức bóc lột của CNTB theo đó cũng mở rộng mạnh mẽ ra ngoài chính quốc. Sự bóc lột ấy, về bản chất, chẳng khác gì hành vi xâm lược thuộc địa của các đế quốc - TBCN trước đây, chỉ có điều nó được che đậy dưới lớp vỏ hào nhoáng, mỹ miều hơn, nó đi vào các quốc gia nghèo khó bằng cửa chính và bóc lột người lao động bằng những lề luật văn minh, sạch sẽ hơn.
Càng giàu mạnh, các thế lực tư bản càng hung hăng, tìm mọi cách để chiếm đoạt các nguồn tài nguyên, của cải của thế giới, quy phục các quốc gia nghèo khó, yếu thế nhằm phục vụ cho lợi ích của mình. Cuộc chiến tranh Irắc đã đẩy một quốc gia hòa bình vào cuộc chiến đẫm máu, huynh đệ tương tàn suốt hơn một thập niên, đến nay vẫn chưa thấy lối ra. Lý do để phát động cuộc chiến tranh chống lại một dân tộc có chủ quyền, độc lập cách xa nước Mỹ hàng vạn cây số là tàng trữ “vũ khí giết người hàng loạt”, nhưng từ sau chiến dịch Bão táp sa mạcđến giờ người ta đã đào bới, xới lộn cả nước Irắc mà không tìm thấy cái gì là “vũ khí giết người hàng loạt”. Nhưng thực tế thì chính nước Mỹ đang tàng trữ lượng vũ khí hạt nhân đủ phá hủy nhiều lần cuộc sống của nhân loại trên toàn cầu. Đất nước Libia hòa bình cũng trở thành hỗn loạn sau khi Mỹ và các đồng minh phương Tây can thiệp lật đổ chính quyền dân cử Mohamet Cadaphi. Cho dù Tổng thống Mỹ và Thủ tướng Anh đã xin lỗi nhưng điều ấy có nghĩa gì khi đất nước Irắc và Libia đã tan hoang, hàng vạn người dân lành đã chết, hàng triệu người dân đang sống trong những điều kiện tồi tệ nhất(1). Ngay với nước Mỹ, hàng chục nghìn thanh niên đã bỏ xác ở Irắc, ở Trung Đông một cách vô nghĩa. Chắc chắn trong số những thanh niên Mỹ đã chết vô ích ấy không và không thể có con cái các nhà tư bản, các ông chủ ngân hàng. Vậy, lý do cuộc chiến Irắc là gì nếu không phải là dầu mỏ và lợi ích của những ông chủ, các nhà tư bản Mỹ? Một loạt cuộc cách mạng màu do bàn tay Mỹ và các nước phương Tây phát động ở Libia, Siry, Ai Cập... đều có chung một hình thái bên ngoài, mục đích ẩn giấu bên trong và hậu quả tồi tệ không khác gì với cuộc chiến ở Irắc.
Mặt khác, nếu nhìn nhận từ góc độ nhân vănthì CNXH là ước vọng ngàn đời của tất cả những người dân lao động, của những con người có lương tâm cùng tình thương nhân loại, muốn sống trong hòa bình, nhân ái. C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát triển CNXH từ không tưởng trở thành khoa học khi nhìn nhận nó từ quy luật vận động của lịch sử, như sự vận động tất yếu từ những cơ sở xã hội, những yếu tố kinh tế, vật chất vốn đã được hình thành ngay trong lòng CNTB. Như vậy, CNXH là phù hợp và hợp lý cả về phương pháp luận khoa học và tính mục đích nhân văn.
Với tính chất là một học thuyết khoa học, những người khai sinh ra chủ nghĩa Mác - Lênin chưa bao giờ muốn và chưa có bất cứ một mệnh đề phán đoán nào để quy các luận điểm trong học thuyết của mình về cách mạng xã hội hay về xã hội XHCN tương lai thành những tín điều siêu hình, cứng nhắc. Trong tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ph.Ăngghen đã trả lời hàng loạt vấn đề lý luận liên quan trực tiếp đến chủ nghĩa xã hội khoa học như: thế nào là giai cấp công nhân và đảng cộng sản; quan hệ giữa giai cấp công nhân với đảng cộng sản; hiểu thế nào là xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN và xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; mối quan hệ ra sao giữa giai cấp công nhân, dân tộc và quốc tế; các giải pháp cần thiết để tiến hành cách mạng XHCN,... Chính Ph.Ăngghen là người rất khách quan, khoa học khi luận giải rất tường minh CNXH từ không tưởng trở thành khoa học, đồng thời yêu cầu những người cộng sản rằng, “...chủ nghĩa xã hội trở thành khoa học mà ngày nay, vấn đề trước hết là phải nghiên cứu thêm, trong mọi chi tiết và mọi mối liên hệ của nó”.
Trong rất nhiều tác phẩm, C.Mác và Ph.Ăngghen đều nhấn mạnh tầm quan trọng của nhận thức, đánh giá, tổng kết thực tiễn để thường xuyên bổ sung, phát triển lý luận, nhất là lý luận về con đường hiện thực hóa CNXH, CNCS. Trong Lời đề tựa cho lần xuất bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vào năm 1872, C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết rằng: “...chính ngay “Tuyên ngôn” cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II”(2). Quan điểm lịch sử - cụ thể và quan điểm phát triển cũng luôn luôn được V.I.Lênin quán triệt vận dụng trong nhiều nhận thức thực tiễn giải quyết mối quan hệ gắn bó giữa lý luận với thực tiễn. Chính sách Kinh tế mới chính là một dẫn chứng thực tế sáng rõ về quan điểm đó. Chính V.I.Lênin đã có một định nghĩa đầy tính thực tiễn về CNXH mà lâu nay đôi khi những người hậu thế đã bỏ quên hoặc bảo thủ với những định kiến mà không nhìn nhận một cách đúng đắn và nghiêm túc. Người nói: “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt nhất của nước ngoài: Chính quyền xô-viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các tơ-rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc. etc. + + = ∑= chủ nghĩa xã hội”(3). Nhận định của V.I.Lênin từ gần 100 năm trước vẫn còn nguyên giá trị phương pháp luận đối với chúng ta hiện nay, nhất là trong điều kiện toàn cầu hóa.
Vậy thì tại sao có thể nói rằng chủ nghĩa Mác - Lênin là lỗi thời. Xin thưa rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin không thể lỗi thời mà chính những người cố tình phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin mới là những người nhầm lẫn, sai lầm, cố tình không nhìn thấy bản chất khoa học và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hoặc giả, họ đã cố tình xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin vì một lý do chính trị, vì muốn xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin để bảo vệ cho CNTB và quyền lợi của một nhóm người tư bản hoặc được hưởng lợi không chính đáng từ guồng máy của CNTB. Nếu có lỗi thời chăng, thì chính là lỗi thời ở cách mà chúng ta chưa nghiên cứu đủ sâu sắc, chưa vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách đúng đắn vào thực tiễn để giải quyết các vấn đề trong quá trình xây dựng CNXH mà thôi. Tuyệt nhiên không thể là sự lỗi thời của chủ nghĩa Mác - Lênin!
Về lý do thứ hai, sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu phải chăng như một bằng chứng hiển nhiên của sự sai lầm, lỗi thời của chủ nghĩa Mác - Lênin và cùng với nó là con đường xây dựng CNXH? Phải chăng có một lôgic thực tế là CNXH hiện thực sụp đổ do lý thuyết về CNXH sai lầm?
Trước hết, cần phải nói rằng mô hình CNXH hiện thực trên thực tế đã mang lại sự thay đổi rung trời chuyển đất, tạo ra một mảng sáng không thể phủ nhận ở Liên xô, Đông Âu và một loạt nước trên thế giới. Nó đã mang lại cuộc sống tốt đẹp cho một phần to lớn của nhân loại. Nó đã tạo nên một sức mạnh to lớn mà trước đó không thể tưởng tượng về nguồn lực vật chất và tinh thần, đủ sức để động viên sức người, sức của, tạo thành lực lượng chủ yếu đánh thắng cả những lực lượng to lớn của liên minh các thế lực tư bản trong Chiến tranh thế giới thứ nhất cũng như đội quân phát xít tàn bạo của trục ma quỷ trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Bằng thực tế sinh động tốt đẹp trên các đất nước xây dựng CNXH, nó đã động viên, thúc đẩy cuộc đấu tranh vì tự do, dân chủ, hòa bình, giải phóng dân tộc trên toàn trái đất. Hàng loạt dân tộc bị áp bức đã giành được độc lập tự do dưới ảnh hưởng và sự giúp đỡ vô tư của các nước XHCN do Liên Xô dẫn đầu. Chính CNXH và cuộc đấu tranh rộng lớn, mạnh mẽ của nhân dân lao động trên toàn thế giới đã là động lực thúc đẩy, buộc các thế lực tư bản, đế quốc phải, một mặt thừa nhận quyền tự do, độc lập của các dân tộc trong hệ thống thuộc địa rộng lớn của CNTB thực dân, đế quốc. Một mặt, tạo thành sức ép, buộc các thế lực tư bản có những cải cách xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân lao động ở chính quốc. CNXH đã là một hiện thực hùng mạnh đủ để những chiến lược gia, các nhà lý luận tư sản phải run sợ, đã đưa ra những dự báo về sự thất bại, kết thúc không thể đảo ngược của chủ nghĩa tư bản. Những thừa nhận đắng cay của Henry Kitsingiơ, Brêginxki thời kỳ những năm 60, 70 thế kỷ XX vẫn còn nguyên đó trong các cuốn sách, bài báo của họ.
Tất nhiên, sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu đã là một bài học đau đớn không chỉ cho những người cộng sản, mà còn cho cả nhân loại tiến bộ. Đó là kết quả của sự bảo thủ, không nhìn thẳng vào thực tế, chậm đổi mới nhận thức và đổi mới các chính sách cũng như những giải pháp cần thiết để giải quyết những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn như những mâu thuẫn tất yếu nảy sinh trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Đó cũng chính là sự sai lầm do những người cộng sản ở Liên Xô và các nước XHCN trước đây mắc phải do không nhận thức đúng đắn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính biện chứng và quan điểm lịch sử cụ thể trong quá trình lãnh đạo cuộc cách mạng XHCN, đã do cố chấp và thiên kiến mà bỏ qua bài học phương pháp luận quý báu của V.I.Lênin, không “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt nhất của nước ngoài” để xây dựng, phát triển chế độ XHCN.
Mặt khác, sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu chỉ là sự sụp đổ của một mô hình xây dựng CNXH cụ thể không hơn, không kém. Tuyệt nhiên đó không phải là sụp đổ của một học thuyết khoa học, càng không thể là sự sụp đổ về một tương lai tốt đẹp mà nhân loại tiến bộ đang hướng tới. Điều ấy không chỉ được minh chứng bằng việc ngay ở thời điểm hiện nay, một loạt nước ở tây bán cầu ngay cận kề nước Mỹ đang tìm tòi con đường và cách thức để xây dựng CNXH theo một mô hình mới. Nó cũng được minh chứng bởi một loạt quốc gia ở chính châu Âu, nhất là Bắc Âu đã và đang lấy CNXH làm mục đích và cảm hứng để xây dựng, phát triển đất nước mình. Không phải không có lý do, khi họ tự gọi mình là mô hình CNXH phúc lợi. Đương nhiên còn một minh chứng hiện hữu là một số nước kiên trì đi theo con đường XHCN, trong đó có Việt Nam đã đạt được những thành tựu có tính lịch sử trong xây dựng, phát triển.
Từ tất cả thực tế ấy, không thể nói rằng mô hình CNXH ở Liên Xô và các nước khác sụp đổ trong những năm cuối thế kỷ trước có nghĩa là học thuyết Mác - Lênin về CNXH là sai lầm và lỗi thời! Ngược lại, sẽ là ảo tưởng khi nghĩ rằng CNTB đang thắng thế. Thực tế đang chỉ ra rằng, chính CNTB đang đứng trước những thánh thức đầy nguy hiểm. Chính sự mâu thuẫn lợi ích, căn bệnh bản chất của CNTB đang làm nảy sinh sự chia rẽ khó tránh khỏi trong các liên minh tưởng chừng bền vững của họ. Hiện tượng Brexit của nước Anh chỉ là một dấu hiệu đầu tiên và tất yếu của sự khục khặc từ chính trong lòng của nó khi CNTB ở Tây Âu mất đi đối trọng là khối các nước XHCN. Khi không còn phải đối mặt với nguy cơ từ bên ngoài thì những mâu thuẫn không thể tránh khỏi về lợi ích sẽ hiện nguyên hình, phá vỡ mối liên kết yếu ớt của các thế lực TBCN. Mặt khác, những cuộc khủng bố đã hiện diện ngay trung tâm của châu Âu, đe dọa không chỉ an ninh mà tạo nên sự bất ổn sống còn của chế độ TBCN. Vụ khủng bố ở thành phố Nice giữa đêm Quốc khánh nước Pháp làm hơn 80 người chết và vụ khủng bố bằng phương thức như thế được lặp lại ở Berlin, thủ đô nước Đức ngày 18-12-2016  làm 12 người chết, gần năm chục người bị thương, không chỉ báo hiệu mối nguy lớn về an ninh của châu Âu. Nó còn là hệ quả tất yếu cho chính sách sai lầm, vụ lợi của CNTB trong cách hành xử với các nước nghèo, các quốc gia Bắc Phi và Trung Đông.
Về lý do thứ ba, sự hơn hẳn về điều kiện vật chất, trình độ phát triển về kinh tế, khoa học - công nghệ và một số lĩnh vực khác của các nước tư bản phát triển so với các nước đi theo con đường XHCN hiện nay, phải chăng đã minh chứng cho tính ưu việt của CNTB? Đúng là không ai có thể phủ nhận một thực tế là các nước TBCN phát triển đã có được những thành tựu phát triển về kinh tế, khoa học - công nghệ kéo theo những cải thiện nhất định về điều kiện sống của người dân. Nhưng đó mới chỉ là cách nhìn thực tại, phiến diện, không thấy đằng sau và phía trước của sự phát triển ấy là gì.
Trước hết, cần phải nhìn cho rõ những thành tựu đó do đâu mà có. CNTB đã có nhiều trăm năm phát triển. Trên con đường phát triển của CNTB, bánh xe vận hành của nó đã lăn đi trong ngập ngụa máu và nước mắt của nhân loại cần lao, thống khổ trên khắp các lục địa. “Những nước tư bản hiện đại là kết quả của một lịch sử nô dịch, diệt chủng, bạo lực và bóc lột một cách ghê tởm”(4), đó là lời tự thú có tính chất phản tỉnh của Terry Eagleton - một học giả người Anh. Chỉ cần giở lại các trang lịch sử của nước Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha... sẽ thấy ngay những gì mà chế độ tư bản đã hành xử với đồng loại của mình. Những kẻ thực dân từ cựu lục địa châu Âu đã phá vỡ cuộc sống bình yên hàng nghìn năm của các bộ tộc người da đỏ, chiếm đoạt đất đai của họ bằng gươm, súng và cả sự tra tấn dã man, rùng rợn ngoài trí tưởng tượng, bằng cách lột da đầu. Trong cuốn sách Sự tàn sát khủng khiếp cuối thời Victoria(Late Victorian Holocausts), học giả người Anh đã viết rằng, hàng chục triệu người Ấn Độ, châu Phi, Trung Quốc, Braxin, Triều Tiên, Nga và nhiều nước khác đã chết do đói, hạn hán và dịch bệnh vào cuối thế kỷ XIX dưới chế độ thực dân xâm lược. Và ngay ở chính các nước tư bản giàu có hiện nay, có ai dám chắc mọi người dân đều có cuộc sống tốt đẹp. Hàng chục triệu người dân Mỹ không có bảo hiểm y tế chỉ có cách chờ tử thần khi mắc bệnh. Ở bang Caliphoócnia, quá nửa nam giới người da đen có ít nhất một lần trong đời phải đi tù...
Làm sao, là người Việt Nam mà ai đó có thể quên được nỗi thống khổ của nhân dân ta trong đêm trường nô lệ hơn 80 năm dưới ách đô hộ của CNTB thực dân Pháp? Bao nhiêu người dân Việt Nam đã chết trong các xưởng máy, hầm lò, trên các cung đường, các bến tàu. Những cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Yên Bái, Xô viết Nghệ - Tĩnh... bị dìm trong bể máu. Hơn hai triệu người chết đói năm 1945. Thực dân Pháp bóc lột người dân thuộc địa Việt Nam đến tận xương tủy, vơ vét hết vàng, than, sắt, đồng... mang về làm giàu cho chính quốc. Gần 20 năm, đế quốc Mỹ thay chân đế quốc Pháp thiết lập ách thống trị, dày xéo đất nước ta. Những nhà tù địa ngục trần gian ở Côn Đảo, Phú Quốc..., những vụ tàn sát ở Thái Bình (Bình Định) năm 1966, Bình Hòa (Quảng Ngãi) năm 1966, Mỹ Lai (Quảng Ngãi) năm 1968..., vụ B52 ném bom rải thảm khu phố Khâm Thiên, bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), phải chăng đó không phải là tội ác thấu trời của chế độ tư bản Mỹ? Ngỡ tưởng, không phải nhìn đâu xa, chính những trang lịch sử khắc nghiệt và đau thương ấy đã đủ để cho các thế hệ chúng ta và con cháu chúng ta hiểu được bản chất của chủ nghĩa tư bản! Vậy mà lạ lùng thay, vẫn có người bước ra khỏi biên giới đã hết lời khen hay, khen đẹp cho các nước tư bản, cho các thành phố hào hoa Tây Âu. Họ có biết đâu hoặc cố tình không biết rằng, những thành phố đó đã trải qua mấy trăm năm xây dựng bằng sức lao động và của cải của bao thế hệ người lao động và cả của cải bóc lột từ các thuộc địa mang về.
Việc xây dựng chế độ XHCN là công việc rất khó, mang tính khoa học, có tính quy luật, đòi hỏi thời gian, nguồn lực, sự lãnh đạo chính trị đúng đắn và các điều kiện không thể thiếu khác. Theo như C.Mác, CNXH chỉ có thể thành công ở một loạt nước tư bản phát triển ở trình độ cao. Nó như là tất yếu thay đổi quan hệ sản xuất xã hội khi lực lượng sản xuất dưới chế độ TBCN đã phát triển, xã hội hóa cao độ, không thể tiếp tục tồn tại trong khuôn khổ quan hệ sản xuất TBCN. Đối với Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu, tất cả đều có điểm xuất phát là các nước tư bản có trình độ phát triển thấp hoặc trung bình. Thời gian xây dựng chế độ XHCN hầu như còn rất ngắn. Liên bang Xô Viết (Liên Xô) được thành lập và bắt tay xây dựng CNXH năm 1921, khi vừa ra khỏi cuộc nội chiến. Mới chỉ có chưa đầy 20 năm hòa bình xây dựng, Liên Xô đã phải trải qua cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại với sự tàn phá vô cùng nặng về sức người và sức của. Hơn 20 triệu người chết, hàng loạt thành phố, làng mạc từ biên giới với Ban Lan cho đến phía Tây Mátxcơva bị san phẳng. Từ sau năm 1945, Liên Xô chỉ có hơn 30 năm xây dựng trong hòa bình, đồng thời phải đối mặt với cuộc chạy đua vũ trang do Mỹ và phe đế quốc khởi xướng. Tương tự như vậy, các nước XHCN ở Đông Âu cũng chỉ có xấp xỉ 30 năm xây dựng. Nhưng những thành tựu mà các nước này đạt được là vô cùng to lớn, thậm chí có lĩnh vực vượt qua cả Mỹ và các nước tư bản Tây Âu. Ngoài việc thiết lập cuộc sống công bằng, cải thiện nhanh chóng về nhà ở, giáo dục, văn hóa cho nhân dân, Liên Xô còn đi đầu thế giới về khoa học công nghệ vũ trụ. Vào thời hoàng kim, CHDC Đức là quốc gia bảo đảm điều kiện sống cho trẻ em tốt nhất thế giới. Một yếu tố không thể không nhắc tới, Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã trở thành đối thủ chính trị không đội chung trời của CNTB ở các nước phương Tây. Người dân các nước phương Tây và các dân tộc thuộc địa nhìn vào các nước XHCN như tấm gương, niềm hy vọng cho cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập, đòi dân chủ, dân sinh. Các thế lực TBCN nhìn vào đó như mục tiêu phá hoại phải loại bỏ bằng được. Cho đến hôm nay, khi Chiến tranh lạnhđã lùi xa hơn 25 năm, nhưng hầu như cách ứng xử trước đây vẫn còn nguyên trong những trừng phạt kinh tế mà các nước tư bản phương Tây nhằm vào nước Nga.
Đối với Việt Nam, chúng ta bắt tay vào xây dựng đất nước thống nhất theo con đường XHCN sau cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài suốt 30 năm. Ngay sau đó, chúng ta lại phải đối mặt với cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc. Trên thực tế, đất nước chỉ ra khỏi cuộc chiến từ năm 1989. Chúng ta bắt tay vào xây dựng đất nước từ con số không khi tất cả những gì có được sau mấy năm hòa bình xây dựng ngắn ngủi đã bị tàn phá hoàn toàn. Hơn thế nữa, hậu quả chiến tranh vô cùng nặng nề. Hàng vạn thương, bệnh binh, người già, trẻ em không nơi nương tựa. Đồng ruộng đầy bom, đạn, mìn còn lại. Những gì chúng ta có được hôm nay sau 30 năm xây dựng là đáng trân trọng, đáng tự hào, mặc dù chưa phải đã được như mong đợi. Đương nhiên là không thể so sánh với các nước tư bản đã có mấy trăm năm phát triển mà không cần quan tâm đến sự thống khổ, hy sinh của lớp lớp người lao động thuộc địa và ở chính quốc. Tuy nhiên, công việc xây dựng một xã hội mới chưa từng có tiền lệ, không bao giờ là dễ dàng, có tính quy luật của nó, không thể xong trong thời gian ngày một, ngày hai, không thể đốt cháy giai đoạn.
Như vậy, rõ ràng là sai lầm khi chỉ nhìn vào bề ngoài những gì đang có ở các nước tư bản phát triển để so sánh, đánh giá tính ưu việt của chế độ TBCN so với chế độ XHCN. Chỉ có bằng sự phân tích sâu sắc, toàn diện, bằng cách nhìn công bằng, lịch sử mới thấy được nguồn gốc, bản chất của sự giàu có của các nước tư bản phát triển, mới thấy hết được những thành công và đóng góp to lớn của CNXH cho sự phát triển của nhân loại và tiến bộ xã hội.
Về lý do thứ tư, phải chăng sự bảo thủ, trì trệ trong nhận thức, những sai lầm, hạn chế và khó khăn trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN là bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác - Lênin?
Trước hết, chúng ta không hề giấu giếm những sai lầm, hạn chế và khó khăn trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trình bày tại Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tăng trưởng kinh tế thấp hơn 5 năm trước, không đạt mục tiêu đề ra; năng suất, chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp... Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi... Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm...”(5). Đảng cũng nghiêm khắc thừa nhận rõ rằng, tình trạng trên có những nguyên nhân khách quan nhưng “trực tiếp và quyết định nhất là nguyên nhân chủ quan”. Đó là những hạn chế trong đánh giá, dự báo tình hình, trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, trong công tác lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy, chính quyền, v.v..
Việc có những sai lầm, khuyết điểm, khó khăn, hạn chế trong quá trình xây dựng đất nước là khó tránh khỏi. Xây dựng CNXH là công việc vô cùng khó khăn, phức tạp, có tính khoa học, đòi hỏi thời gian, nguồn lực to lớn và nhiều điều kiện khác. Chúng ta bắt tay vào xây dựng CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề sau cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài suốt 30 năm. Cái khó khăn lớn nhất của chúng ta có lẽ trước hết không phải từ sự thiếu thốn về của cải, vật chất mà đa phần chính ở lối nghĩ, tác phong mang nặng tính chất của nền văn hóa nông nghiệp. Không có kinh nghiệm tiền lệ, không có sự hỗ trợ của phe XHCN như trước đây. Nhiều thế lực đang dòm ngó, chống phá. Trong điều kiện ấy, những thành tựu mà công cuộc đổi mớiđạt được là đặc biệt quan trọng. Chúng ta đã duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao trên 6,5% năm trong suốt 30 năm thực hiện chính sách đổi mới. Từ GDP bình quân đầu người chỉ 80USD đã tăng lên mức trên 2.100USD. Đời sống nhân dân đã được cải thiện một bước cơ bản. Những điều đó là không thể phủ nhận và mặc nhiên đã được nhiều tổ chức, cá nhân trên thế giới, trong đó có nhiều học giả phương Tây thừa nhận.
Để có được những thành tựu to lớn đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có những bước đi dũng cảm về nhận thức, sự đổi mới mạnh mẽ về chính sách kinh tế - xã hội. Từ một nền kinh tế bao cấp hoàn toàn dựa trên sở hữu công cộng, chúng ta đã chuyển sang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần sở hữu, rồi chuyển hẳn sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Từ một Nhà nước xây dựng theo mô hình nền chuyên chính vô sản, chúng ta đã chuyển sang xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Từ chỗ bị bao vây cấm vận, chỉ có quan hệ với các nước khối XHCN là chủ yếu, chúng ta đã mở cửa hội nhập quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 quốc gia và vùng lãnh thổ trên tổng số 193 thành viên Liên Hợp quốc, trong đó có 2 đối tác toàn diện đặc biệt, 15 đối tác chiến lược, 11 đối tác toàn diện, hai đối tác chiến lược theo từng lĩnh vực.
Từ thực tế ấy, không thể có lý gì để nói rằng Đảng và Nhà nước Việt Nam bảo thủ, cố chấp hay định kiến mà không đổi mới nhận thức, đổi mới chính sách về CNXH và xây dựng CNXH, cũng như không thể đổ cho học thuyết Mác - Lênin có lỗi trong những khó khăn, hạn chế, sai lầm của quá trình xây dựng, phát triển đất nước.
Tóm lại, sự sai lầm của những người phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện ngay trong chính những cơ sở, lý do để họ phản bác chủ nghĩa Mác - Lênin. Ở đây, hoặc là có sự hiểu nhầm về tính chất của học thuyết - chủ nghĩa Mác - Lênin, hoặc là biết nhưng vẫn cố tình xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin với định kiến và mục đích chính trị là thay đổi nền tảng tư tưởng, đường lối, mục tiêu xây dựng CNXH bằng một lý thuyết khác, bằng một mô hình xã hội khác. Mục đích ấy đơn thuần để phục vụ cho lợi ích của một nhóm người nào đó, hoàn toàn không phải vì lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân, không phải vì lợi ích chung của dân tộc.
Việc nghiên cứu, chỉ ra những sai lầm, xuyên tạc đối với chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ đơn thuần là để bảo vệ sự trong sáng, tính khoa học, nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó còn là sự cảnh báo, là lý do để những người cộng sản cảnh giác với nhận thức của mình về chủ nghĩa Mác - Lênin, để tìm hiểu rõ hơn, quán triệt sâu sắc, thường xuyên hơn quan điểm thực tiễn, quan điểm lịch sử - cụ thể khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào việc đề ra đường lối, hoạch định chính sách xây dựng, phát triển đất nước.
__________________
 (1) Ngày 10-4-2016, khi trả lời phỏng vấn Hãng tin Fox New, Tống thống Mỹ Ôbama đã thừa nhận rằng, sai lầm tồi tệ nhất trong nhiệm kỳ tổng thống của ông là đã không chuẩn bị một kế hoạch lâu dài cho Libia sau khi lật đổ Tổng thống Mohamet Cadaphi, để gây nên tình trạng hỗn loạn ở nước này. Năm 2015, cựu Thủ tướng Anh Tony Ble cũng đã thừa nhận sai lầm và xin lỗi về việc đưa quân đội Anh tham gia cuộc chiến ở Irắc.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.18, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, tr.128.
(3) V.I.Lênin: Toàn tập, t.30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr.684.
(4) Terry Eagleton: Tại sao Mác đúng?, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2012, tr.40.
(5) ĐCSCN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.60-61.

ĐẤU TRANH CHỐNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH, BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG - THỰC TIỄN VÀ KINH NGHIỆM



Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong xây dựng Đảng nhằm giữ vững bản chất cách mạng và khoa học của Đảng và luôn luôn gắn liền với xây dựng Đảng về chính trị, tổ chức và đạo đức, gắn liền với nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Thực tiễn lịch sử của quá trình đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đã để lại nhiều kinh nghiệm quý, hữu ích cho hiện nay.
1. Thực tiễn lịch sử quá trình đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh sáng lập năm 1930, có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giành độc lập cho dân tộc và phát triển đất nước theo con đường XHCN. Từ khi thành lập, Đảng đã được xây dựng và hoạt động dựa trên nền tảng tư tưởng, lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng cách mạng sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh. Nền tảng tư tưởng mang giá trị khoa học và hiện thực đó bảo đảm cho Đảng hoạch định Cương lĩnh, đường lối đúng đắn và hiện thực hóa thành công những mục tiêu chiến lược, nhiệm vụ chính trị, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Sớm xác định nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong xây dựng Đảng, ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các Tổng Bí thư Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ đã kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa Tờrốtxky và những phần tử tơrốtxkít phá hoại phong trào cách mạng các nước, trong đó có cách mạng Việt Nam. Vào những năm 50, 60 của thế kỷ XX, xuất hiện chủ nghĩa xét lại tiến công vào giá trị khoa học cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên quyết và kiên trì đấu tranh, phê phán chủ nghĩa xét lại và mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và ở các nước XHCN. NQTƯ 9 khóa III (12-1963) của Đảng “Về tình hình thế giới và nhiệm vụ quốc tế của Đảng” là đóng góp quan trọng trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, lý luận. 
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên cường đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng với lập trường rõ ràng và với phương pháp đấu tranh, phê phán thích hợp. Ở trong Đảng khi đó cũng có một số cán bộ, đảng viên đã nhận thức và hành động trái với quan điểm trong NQTƯ 9 khóa III của Đảng; có người rời bỏ Đảng, được cử đi học và tìm cách ở lại nước ngoài. Số đó là rất ít. Đảng đã tạo được sự thống nhất vững chắc về tư tưởng, lý luận, đẩy mạnh cách mạng XHCN ở miền Bắc, hoàn thành giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Nửa cuối thập niên 80, chủ nghĩa xét lại và cơ hội một lần nữa gây ảnh hưởng xấu, tổn thất lớn trong các nước XHCN. Những người xét lại đã nắm quyền lãnh đạo ở các nước XHCN và dẫn các nước XHCN tới sự khủng hoảng toàn diện, sâu sắc chưa từng có và làm tan rã chế độ XHCN ở các nước Đông Âu và Liên Xô vào những năm 1989-1991. Vẫn thủ đoạn phủ định và coi chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời để xóa bỏ con đường XHCN, phá tan những thành quả to lớn của CNXH đã được xây dựng. Từ phá hoại nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng để phủ nhận vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, truyền bá chủ nghĩa đa nguyên chính trị và chế độ đa đảng. Đề cao dân chủ tư sản với chiêu bài dân chủ hóa, công khai hóa. Phủ nhận những thành quả cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo và chế độ XHCN mang lại.
Với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã sớm nhận thấy những diễn biến tiêu cực của các Đảng và các nước XHCN, nên đã chủ động phòng ngừa những ảnh hưởng xấu từ bên ngoài, nhất là trong và sau dịp kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Mười Nga (7-11-1987). Cũng cần thấy rõ một sự thật khi hệ thống CNXH thế giới lâm vào khủng hoảng đã có một số cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo cao cấp hoang mang, dao động muốn ngả theo hướng đi khác. Các thế lực phản động ở trong nước ra sức phá hoại và chờ thời cơ thực hiện hành động lật đổ. Thế lực thù địch lưu vong ra sách, báo, lập đài phát thanh chống cộng, thực hiện chiến dịch “chuyển lửa về quê nhà” hy vọng “diễn biến hòa bình” sẽ diễn ra ở Việt Nam.
Sự chủ động trong đấu tranh và phòng ngừa thể hiện rõ trong NQTƯ 6 khóa VI (3-1989) của Đảng đề ra những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, bảo đảm cho đổi mới đúng hướng, đúng mục tiêu và có hiệu quả. Nguyên tắc hàng đầu là khẳng định đi lên CNXH là con đường tất yếu, là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân Việt Nam. “Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp”. “Chủ nghĩa Mác-Lênin luôn luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta” (1).
Đảng nhấn mạnh nguyên tắc về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, “Phê phán những khuynh hướng phủ nhận hoặc hạ thấp sự lãnh đạo của Đảng”. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực, nhưng “Dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật, pháp luật, với ý thức trách nhiệm công dân. Dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo để phát huy dân chủ đúng hướng, mặt khác phải lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ, trên cơ sở phát huy dân chủ”. Những nguyên tắc đó đã bảo đảm sự thống nhất nhận thức và hành động trong toàn Đảng trước những diễn biến phức tạp của quốc tế và trong nước. Đó cũng là định hướng rất quan trọng và là vũ khí đấu tranh để bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, phê phán những quan điểm sai trái, thù địch, chỉnh đốn những nhận thức lệch lạc của một số cán bộ, đảng viên. Những nguyên tắc đó đến nay vẫn nguyên giá trị và để lại kinh nghiệm quý báu cho cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng hiện nay.
Tháng 8-1989, HNTƯ 7 khóa VI của Đảng ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay”. Trung ương đã nhận định 6 điểm về những sai lầm trong cải tổ, cải cách của một số đảng về thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng, dân chủ hóa không giới hạn, hạ thấp sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phủ nhận thành tựu của lịch sử, của CNXH. “Không lãnh đạo chặt chẽ các phương tiện thông tin đại chúng, để cho báo, đài tùy tiện thông tin và phát biểu những quan điểm sai trái, tạo ra sự hỗn loạn về tư tưởng” (2). Từ những vấn đề sai lầm của các Đảng, các nước XHCN mà Đảng Cộng sản Việt Nam kịp thời chỉnh đốn nhận thức và biện pháp. Đó cũng là kinh nghiệm thật sự có ý nghĩa cho các năm tháng tiếp theo và hiện tại. NQTƯ 7 khóa VI của Đảng nhấn mạnh: “Giáo dục trong Đảng và trong nhân dân kiên trì mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở quán triệt năm nguyên tắc và những chính sách đổi mới của Đảng” (3).
Đảng giữ nghiêm kỷ luật, kiên quyết xử lý cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo cao cấp làm trái nguyên tắc và định hướng tư tưởng của Đảng. Vượt qua thách thức hiểm nghèo, Đảng giữ vững nền tảng tư tưởng và kiên định đường lối đổi mới với những thành tựu bước đầu quan trọng đã bảo đảm ổn định chính trị và cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển theo con đường đã lựa chọn. Đảng Cộng sản Việt Nam và đất nước Việt Nam trong những năm 1989-1991 không có bất cứ một sự rối loạn, biến động nào.
Đại hội VII (6-1991) của Đảng thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định dứt khoát con đường XHCN và Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Toàn bộ mặt trận tư tưởng, lý luận của Đảng hướng vào làm sáng tỏ và sâu sắc hơn bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định tính tất yếu của con đường XHCN và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu thù địch. Sự khẳng định nền tảng tư tưởng của Đảng trong Cương lĩnh bảo đảm sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng đồng thời nêu rõ ý chí đấu tranh đối với những gì đi ngược lại tư tưởng cách mạng và khoa học đó.
Thập niên 90 chứng kiến nhiều biến động lớn trên thế giới. Không còn tồn tại phe XHCN nhưng vẫn có những nước kiên định con đường XHCN, trong đó có Việt Nam và tiếp tục phát triển với những thành tựu quan trọng. Chiến tranh lạnh chấm dứt năm 1991, từ thế giới 2 cực (Mỹ và Liên Xô) chuyển sang thế giới đa cực, từ đối đầu sang đối thoại, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ. Nhiều vấn đề mới đặt ra trong nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH với những đặc điểm mới của thời đại. Với Cương lĩnh năm 1991 thể hiện rõ sự đổi mới tư duy lý luận, phát triển nhận thức, song vẫn còn nhiều vấn đề phải tổng kết từ thực tiễn làm rõ cơ sở khoa học có tính thuyết phục. Các thế lực thù địch lợi dụng sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Đông Âu, Liên Xô tuyên bố sự cáo chung của CNXH, của lý luận Mác-Lênin và đòi Đảng Cộng sản từ bỏ vai trò lãnh đạo, đẩy mạnh chiến lược và thủ đoạn “diễn biến hòa bình”.
Ngày 28-3-1992, Bộ Chính trị khóa VII đã ban hành Nghị quyết số 01-NQ/TW “Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay”. Nhìn lại hơn 5 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI, Bộ Chính trị nêu rõ: “Nét nổi bật là đã bước đầu đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế, khắc phục được một phần những biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều và bệnh chủ quan duy ý chí, đồng thời tỉnh táo phòng ngừa và ngăn chặn những ảnh hưởng nguy hại của chủ nghĩa cơ hội, xét lại”. Đã tiến hành cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng-lý luận “nhằm uốn nắn những quan niệm lệch lạc, phê phán những khuynh hướng sai lầm, chống lại các quan điểm phản động mưu toan phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng. Những hoạt động trên đã góp phần vào việc giữ vững ổn định về chính trị” (4).
Bộ Chính trị nêu rõ những phương hướng, nhiệm vụ cơ bản và biện pháp đẩy mạnh công tác lý luận, đồng thời nhấn mạnh: “Cần tiến hành thường xuyên cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận theo yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Khắc phục chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm, đồng thời chống chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh và xét lại” (5).
Các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước vẫn đẩy mạnh thực hiện chiến lược và thủ đoạn “diễn biến hòa bình” hòng xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, thủ tiêu chế độ XHCN ở Việt Nam. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1-1994) đã coi “diễn biến hòa bình” là một trong 4 nguy cơ lớn đối với con đường phát triển của cách mạng Việt Nam.
Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị được ban hành ngày 18-2-1995 “Về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay”, đề ra 6 định hướng lớn của công tác tư tưởng, trong đó đặc biệt nhấn mạnh: “Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta và của cách mạng Việt Nam”. “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn”. Đó là những vấn đề có tính nguyên tắc để thống nhất nhận thức và hành động trong toàn Đảng đồng thời kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm đi ngược lại quan điểm đó. Phải tăng cường lãnh đạo công tác tư tưởng. Về biện pháp, Bộ Chính trị nêu rõ: “Có kế hoạch mở các lớp ngắn ngày bồi dưỡng các quan điểm của Đảng cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, cán bộ lãnh đạo các cơ quan tư tưởng, văn hóa, giảng viên lý luận chính trị các trường của Đảng, của Nhà nước và hệ thống giáo dục quốc dân”. “Rút kinh nghiệm công tác đấu tranh chống những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của địch, nhất là trên báo, đài, có kế hoạch chủ động kịp thời chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” về tư tưởng, văn hóa của chúng” (6).
Tổng kết 10 năm (1996), 20 năm (2006) và 30 năm đổi mới (2016), Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử cả về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Những thành tựu đó được toàn dân và bạn bè quốc tế thừa nhận. Đó cũng chính là thước đo tính đúng đắn của Cương lĩnh và đường lối đổi mới của Đảng và Cương lĩnh, đường lối lại dựa trên nền tảng tư tưởng, lý luận được vận dụng và phát triển sáng tạo từ thực tiễn Việt Nam. Trong các thành tựu của đổi mới có thành tựu của công tác tư tưởng, lý luận, khắc phục bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, phát triển tư duy sáng tạo. Đại hội XII (1-2016) của Đảng đánh giá: “Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận có bước được nâng lên. Công tác tư tưởng được coi trọng và tăng cường, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Tích cực đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động phòng ngừa, đấu tranh phê phán, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” (7).
Đại hội XII của Đảng cũng thẳng thắn chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm: “Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận chưa cao. Chậm khắc phục có hiệu quả những hạn chế của công tác tư tưởng như thiếu sắc bén, chưa thuyết phục. Đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn bị động, hiệu quả chưa cao” (8).
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và NQTƯ 4 khóa XII của Đảng đã chỉ rõ thực trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Các thế lực thù địch đã lợi dụng tình hình đó để đẩy mạnh vu cáo, đả kích Đảng và sự lãnh đạo của Đảng. Yêu cầu khách quan phải tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái trong Đảng để nâng cao sức chiến đấu và khả năng tự bảo vệ. Ở đây có mối liên hệ trực tiếp giữa khắc phục sự suy thoái trong nội bộ với đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, thù địch. NQTƯ 4 khóa XII (10-2016) của Đảng cảnh báo: “Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc câu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc” (9).
2. Những kinh nghiệm từ quá trình đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, sự nghiệp đấu tranh của Đảng và dân tộc phải chống lại kẻ thù xâm lược hung bạo để giành độc lập, tự do, đồng thời lại phải chống lại sự phá hoại về tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch bằng “diễn biến hòa bình” hòng đưa cách mạng đi chệch hướng dẫn tới thất bại. Chống kẻ thù xâm lược, phải tiến hành chiến tranh cách mạng với sức mạnh tổng hợp của khoa học, nghệ thuật quân sự Việt Nam để chiến thắng. Chống kẻ địch trên mặt trận tư tưởng, lý luận cũng vô cùng khó khăn, phức tạp, không thể xem thường. Cách mạng Việt Nam không ngừng phát triển, nhất là trong công cuộc đổi mới đã để lại những kinh nghiệm quý báu trong đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, thù địch.
Một là, trong bất kể hoàn cảnh và tình thế nào cũng kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh-nền tảng tư tưởng quyết định bản chất cách mạng, khoa học của Đảng. Trung thành với hệ tư tưởng, học thuyết lý luận gắn liền với đổi mới tư duy, vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Hồ Chí Minh nhấn mạnh học tập, trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin không phải là thuộc lòng câu chữ mà nắm vững bản chất, phương pháp khoa học của học thuyết đó. Không ngừng nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để nhận thức rõ những giá trị bền vững phổ biến về tư tưởng, lý luận đồng thời nhận thức rõ những quy luật riêng của cách mạng Việt Nam như Hồ Chí Minh đã tìm tòi và luôn luôn đặt ra. Sáng tạo trong lãnh đạo chiến tranh cách mạng với tư tưởng, quan điểm đặc sắc của chiến tranh nhân dân. Sáng tạo trong cách mạng XHCN, đổi mới, phát triển đất nước: nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Sáng rõ về mô hình CNXH; về những vấn đề của thời kỳ quá độ lên CNXH; về hình thức tổ chức kinh tế, xã hội, chính trị, bước đi; về khả năng và nội dung bỏ qua CNTB và kế thừa thành quả của nhân loại.
Không thể làm sáng tỏ những vấn đề tư tưởng, lý luận nếu không quyết tâm khắc phục chủ nghĩa giáo điều, bệnh chủ quan duy ý chí, quan niệm giản đơn, hời hợt về những quy luật khách quan của lịch sử và quá trình cách mạng. Đổi mới và sáng tạo trong nhận thức tư tưởng, lý luận, trong tư duy là sự bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn. Sự phát triển sáng tạo có tính thuyết phục về tư tưởng, lý luận về con đường phát triển hợp quy luật của đất nước là cơ sở vững chắc để đấu tranh phê phán những nhận thức lệch lạc, sai trái, thù địch. Khẳng định cái đúng cũng chính là phê phán cái sai, phản động.
Hai là, chú trọng công tác chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức và trình độ lý luận, bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động, sự đoàn kết vững chắc trong Đảng. Đảng coi trọng giáo dục tư tưởng, lý luận trong Đảng đồng thời cán bộ, đảng viên ra sức học tập lý luận, rèn luyện, nâng cao lập trường tư tưởng, nắm vững Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng. Đó là yêu cầu cần thiết nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, khả năng “tự bảo vệ” của mỗi cán bộ, đảng viên trước những tác động và ảnh hưởng xấu từ bên ngoài. Đảng vững vàng vượt qua được thử thách vì có đội ngũ cán bộ, đảng viên được giáo dục, rèn luyện tốt có bản lĩnh chính trị vững vàng.
Cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa sự giáo dục nghiêm túc của Đảng với tự tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh lưu ý tự tu dưỡng của cán bộ, đảng viên cả về phẩm chất đạo đức, cả về tư tưởng lý luận và nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng. Khi có một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị thì các thế lực thù địch, phản động càng đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Sự suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên trước hết là do những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện, lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài. Nhưng thực trạng đó cũng còn do “Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng dạy và học tập nghị quyết của Đảng chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả” như NQTƯ 4 khóa XII của Đảng đã nhận định. Biểu hiện phai nhạt lý tưởng cách mạng, xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng, lười học tập, sợ học lý luận, lười suy nghĩ, tình trạng “nhạt đảng, nhạt đoàn, nhạt chính trị” phải được khắc phục, mới có thể bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Ba là, luôn luôn tỉnh táo phòng ngừa, chủ động và kiên quyết đấu tranh phê phán mọi nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái và thù địch. Điều quan trọng nhất là không bao giờ được nhân nhượng, thỏa hiệp về tư tưởng, lý luận; càng không được rút lui, hạ vũ khí trên mặt trận tư tưởng. Những người theo chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội, chống CNXH luôn luôn tìm mọi cách phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, coi học thuyết đó đã lỗi thời, không còn phù hợp với thời đại ngày nay, phủ nhận con đường XHCN nhất là khi mô hình CNXH tan rã ở các nước Đông Âu và Liên Xô. Với những thế lực này cần đấu tranh, phê phán dựa trên những luận cứ khoa học đúng đắn, nhất là những giá trị, thành tựu trong quá trình hiện thực hóa học thuyết lý luận. Điều này đòi hỏi cán bộ lý luận cũng như cán bộ lãnh đạo, quản lý phải nắm vững, thấu hiểu sâu sắc giá trị khoa học, hiện thực, bản chất, linh hồn sống và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để đấu tranh phê phán có chiều sâu, thuyết phục và có hiệu quả. Từ thực tiễn, thành tựu của cách mạng Việt Nam mà làm sáng tỏ, chứng minh tính đúng đắn của hệ tư tưởng, lý luận và khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, kết hợp lý luận và thực tiễn quyết định thắng lợi của cách mạng.
Sự chủ động, tỉnh táo ở tầm nhìn, tầm tư duy chiến lược của cơ quan lãnh đạo, người lãnh đạo cao nhất và của các cơ quan tham mưu, chuyên môn trên lĩnh vực tư tưởng lý luận. Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trên mặt trận tư tưởng, lý luận nói chung và trong đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, thù địch có ý nghĩa quyết định thành công. Trung ương, Bộ Chính trị luôn luôn có định hướng đúng đắn về công tác tư tưởng. Định hướng cho thời kỳ dài và phương hướng cụ thể của từng giai đoạn. Đó là cơ sở rất quan trọng để các cơ quan chuyên môn, cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận kịp thời đề xuất bước đi, giải pháp cần thực hiện.
Bốn là, hoàn thiện và thực hiện tốt các chính sách, pháp luật liên quan đến bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, quản lý tốt và nâng cao vai trò của báo chí, truyền thông. Các thế lực thù địch lợi dụng những vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo,… để vu cáo, xuyên tạc, đả kích sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, nói xấu chế độ. Trên thực tế, Đảng và Nhà nước đã hoàn thiện nền dân chủ XHCN, thực hiện tốt hơn quy chế, pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, tăng cường dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. Thực hiện đúng đắn quyền con người theo công ước quốc tế và theo Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam. Chính sách tôn giáo và chính sách dân tộc được hoàn thiện góp phần quan trọng đoàn kết các tôn giáo, các dân tộc trong khối đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vai trò của thế hệ trẻ, của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ được phát huy với những chính sách và điều kiện cần thiết để phát triển và cống hiến. Đó là cơ sở xã hội, lực lượng rất quan trọng. Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong điều kiện mới tiếp tục được củng cố tạo hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh tư tưởng chống các thế lực thù địch, phản động. Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng gắn liền với sự đoàn kết toàn dân tộc, đồng thuận xã hội bảo đảm cho thành công. Xử lý các thế lực chống đối về tư tưởng cũng theo quy định của pháp luật.
Các thời điểm đấu tranh tư tưởng quyết liệt trước đây, vai trò của báo chí và các phương tiện truyền thống là vô cùng quan trọng nhằm định hướng đúng đắn nhận thức trong Đảng và trong xã hội, phê phán những quan điểm sai trái, thù địch, những nhận thức mơ hồ, lệch lạc. Đúng như V.I.Lênin xác định báo chí là người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ chức tập thể. Ngày nay, báo chí, truyền thông càng có vai trò quan trọng trong truyền bá hệ tư tưởng, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, định hướng đúng đắn công tác tư tưởng của Đảng và dư luận xã hội, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch. Công việc quản lý báo chí, truyền thông là rất quan trọng bảo đảm định hướng tư tưởng đúng đắn, nhất là trong điều kiện công nghệ truyền thông, internet, các loại hình báo viết, báo hình, báo nói, báo điện tử phát triển. Trong điều kiện Nhà nước pháp quyền, quản lý báo chí, hoạt động của báo chí, truyền thông tuân thủ pháp luật có ý nghĩa quan trọng bảo đảm sự đóng góp tích cực và lành mạnh của báo chí.
Những kinh nghiệm lãnh đạo đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch được Đảng tổng kết kịp thời trên mặt trận tư tưởng. Điều đó có ý nghĩa rất quan trọng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Đó cũng là vấn đề rất quan trọng đặt ra trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, không chỉ chống các thế lực thù địch về tư tưởng, ý thức hệ mà còn góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.  
--------------------------------------------
 (1), (2), (3). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2007, T. 49, tr. 591, 731, 742
(4), (5). Sđd, T. 52, tr. 19, 25
(6). Sđd, T. 54, tr. 233-234
(7), (8), (9). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr. 186, 192-193, 23.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...