Trong
hơn 41 năm thành lập, kế thừa tinh hoa 2000 năm Phật giáo Việt Nam đồng hành
cùng dân tộc, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã phát triển về mọi mặt. Hoạt động
Phật sự được tăng cường, tăng ni, Phật tử luôn đoàn kết, hòa hợp xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo và được đông đảo các tầng lớp nhân dân
từ thành thị đến biên giới, hải đảo đồng tình ủng hộ.
Sau
đại thắng mùa xuân 1975, Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc tiến lên
chủ nghĩa xã hội, Phật giáo Việt Nam đã hóa thân vào vận hội mới của dân tộc.
Năm 1981, Hội nghị thống nhất 9 hệ phái tổ chức Phật giáo Việt Nam thành một tổ
chức Phật giáo duy nhất là “Giáo hội Phật giáo Việt Nam”, đại diện cho Phật
giáo Việt Nam trong và ngoài nước. Đây là sự kiện có ý nghĩa trọng đại đối với
tăng ni, phật tử Việt Nam.
Phật
giáo Việt Nam là tôn giáo có truyền thống hộ quốc an dân, đồng hành cùng dân tộc,
luôn gắn bó với vận mệnh của đất nước; khi Tổ quốc lâm nguy, Phật giáo luôn
luôn đứng lên tham gia chống giặc ngoại xâm, góp phần giành độc lập dân tộc. Kế
thừa và phát huy truyền thống vẻ vang của Phật giáo Việt Nam, Giáo hội Phật
giáo Việt Nam đồng hành cùng cả nước tiến hành công cuộc đổi mới trong tinh thần
hòa hợp, đoàn kết với phương châm phụng đạo, yêu nước. Giáo hội hướng dẫn tín đồ,
phật tử sinh hoạt theo đúng chính pháp, góp phần xây dựng cuộc sống lành mạnh
và có những hoạt động đáp ứng nhu cầu tâm linh, phù hợp với tâm tư, nguyện vọng
của tăng, ni, phật tử; là nguồn cổ vũ lớn lao cho tăng, ni, phật tử trong và
ngoài nước tin tưởng vào đường hướng hành đạo của Giáo hội, góp phần làm cho
Giáo hội ngày càng phát triển vững mạnh trong lòng dân tộc.
Việt
Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo, có trên 90% dân số có tín ngưỡng,
tôn giáo với 24 triệu người là tín đồ các tôn giáo, chiếm 27% dân số. Chính
sách nhất quán của Đảng, Nhà nước đối với tôn giáo là tôn trọng và bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
Nhà
nước Việt Nam bảo đảm cho các tôn giáo hoạt động theo đúng quy định của pháp luật,
hiến chương và điều lệ được Nhà nước công nhận; không ngừng chăm lo phát triển
kinh tế xã hội, tạo điều kiện cho đồng bào có đạo và chức sắc các tôn giáo thực
hiện tốt việc tu hành chân chính và làm tròn bổn phận của công dân đối với Tổ
quốc.
Phật
giáo luôn là tôn giáo đồng hành cùng dân tộc, có một vai trò rất quan trọng
trong việc “Hộ quốc, an dân”. Trong hơn 41 năm qua, với phương châm “Đạo pháp -
Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã vượt mọi khó khăn,
không ngừng phát triển, lớn mạnh về mọi mặt; luôn gương mẫu đi đầu trong các
phong trào thi đua yêu nước, đoàn kết các tôn giáo, khẳng định mối quan hệ gắn
bó không thể tách rời giữa dân tộc và đạo pháp.
Với
tư cách là thành viên trong khối đại đoàn kết toàn dân, Giáo hội Phật giáo Việt
cùng tăng, ni, phật tử luôn luôn gắn bó với dân tộc trong mọi hoạt động xã hội,
thực hiện tốt phương châm “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”. Các Ban Trị
sự Hội Phật giáo tỉnh, thành trong toàn quốc thường xuyên động viên tăng, ni,
phật tử tại địa phương hoàn thành tốt các phong trào ích nước lợi dân, bảo vệ Tổ
quốc, bảo vệ môi trường, xây dựng nếp sống văn minh trên địa bàn, tham gia các
tổ chức chính trị - xã hội, các hoạt động xã hội, vì lợi ích của đất nước và
dân tộc như tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng Nhân dân, Mặt trận Tổ
quốc các cấp từ Trung ương đến địa phương. Nhiều vị chức sắc tu hành được người
dân tin tưởng bầu làm đại biểu Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp; nhiều sư
sãi đã thể hiện được vai trò đặc biệt trong việc vận động quần chúng xây dựng đời
sống văn hóa, kinh tế - xã hội ở các địa bàn dân cư. Các vị tăng, ni tiếp tục đẩy
mạnh việc truyền bá đạo pháp tại vùng sâu, vùng xa, biên cương, hải đảo để tinh
thần Phật giáo tiếp tục được lan tỏa nơi phên dậu của Tổ quốc.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan
tâm vấn đề đoàn kết tôn giáo, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của
nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết tôn giáo gồm đoàn kết giữa đồng bào có tín
ngưỡng, tôn giáo với đồng bào không có tín ngưỡng tôn giáo; đoàn kết giữa đồng
bào theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; và đoàn kết giữa đồng bào trong
cùng tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm
thực hiện thắng lợi sự nghiệpcách mạng.
Trong lịch sử trường tồn của dân tộc Việt
Nam thành phần dân tộc không thể thiếu đó là tôn giáo, với sự tồn tại của hầu hết
các tôn giáo lớn trên thế giới; những tôn giáo này cùng tôn giáo nội sinh đồng
hành với những thăng trầm của lịch sử dân tộc. Những chuẩn mực đạo đức tích cực,
nhân văn của tôn giáo đã hòa nhập vào đời sống xã hội, góp phần tạo nên những
chuẩn mực đạo đức, văn hóa. Những giá trị văn hóa tốt đẹp, tiến bộ của tôn giáo
đã góp phần tạo nên sự phong phú, đặc sắc của nền văn hóa dân tộc Việt Nam.
Với chính sách tôn giáo đúng đắn, tôn trọng
và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền theo hoặc không theo tôn
giáo của mọi người, các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật, Việt Nam đã và đang
đạt được nhiều thành tựu trong việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
mọi người; số lượng chức sắc, chức việc, cơ sở thờ tự ngày càng gia tăng; quy
mô hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo lớn; chính quyền các cấp đảm bảo an ninh trật
tự, phòng chống cháy nổ, vệ sinh an toàn thực phẩm đối với các hoạt động tôn
giáo có đông người dân và du khách nước ngoài tham dự.
Quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về đoàn kết tôn giáo, trong suốt quá trình phát triển của cách mạng, Đảng,
Nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân. Trong công tác tôn giáo thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định nhiệm vụ: Tăng
cường đoàn kết lương giáo, đoàn kết toàn dân; Ra sức chăm lo đời sống vật chất,
văn hóa, nâng cao trình độ mọi mặt của đồng bào có đạo; Thực hiện tự do tín ngưỡng
và tự do không tín ngưỡng trên cơ sở pháp luật. Đảng ta nêu rõ: Đồng bào có đạo
đa số là nhân dân lao động có lòng yêu nước, đã góp phần cùng toàn dân phấn đấu
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều chức sắc tiến bộ trong các tôn giáo đã làm tốt
việc đạo, việc đời, hướng dẫn tín đồ chấp hành đúng các chính sách của Nhà nước.
Những năm qua, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ
Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng, xu hướng chủ đạo trong đời sống hoạt động của
các tôn giáo là gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Với phương châm “Tốt đời, đẹp đạo”
các tôn giáo ở Việt Nam đã xây dựng nên đường hướng hành đạo tiến bộ, như: “Đạo
pháp-Dân tộc-Chủ nghĩa xã hội” của Phật giáo; “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc”
của Công giáo; “Sống phúc âm phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và dân tộc” của
Hội thánh Tin lành Việt Nam; “Nước vinh, đạo sáng” của Cao Đài… vừa phù hợp với
đạo lý, truyền thống của dân tộc, vừa phù hợp với Hiến pháp, pháp luật và xu hướng
phát triển của thời đại.
Trên thực tế, hoạt động của các tôn giáo ở
Việt Nam ngày càng phát triển; các cơ sở thờ tự tôn giáo không ngừng được sửa
chữa khang trang; các chức sắc, chức việc, nhà tu hành tôn giáo được tạo mọi điều
kiện sinh hoạt, học tập, hoạt động tôn giáo theo tôn chỉ, mục đích của tôn giáo
và quy định của pháp luật; đồng bào là tín đồ các tôn giáo ngày càng yên tâm,
tin tưởng, hăng hái thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước của Mặt
trận Tổ quốc, nhất là các hoạt động xã hội, từ thiện. Qua đó, các tôn giáo đã
góp phần cùng chính quyền và Mặt trận Tổ quốc các cấp xây dựng đời sống văn hoá
ở cơ sở, phát triển kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng-an ninh; nhất là, chăm
lo cho người nghèo, những người có công với nước, người già cô đơn, trẻ mồ côi,
khuyết tật… Các hoạt động bình thường vừa “tốt đời”, vừa “đẹp đạo” của các tôn
giáo thời gian qua đã minh chứng cho quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam và sự gắn bó, đồng hành cùng dân tộc của các tôn giáo trong công cuộc xây dựng
nước Việt Nam theo mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Đó cũng là lời phản bác mạnh mẽ đối với những luận điệu cho rằng: “ở Việt
Nam không có tự do tôn giáo”, “Việt Nam vi phạm quyền tự do, tôn giáo”…
Ngày 02/01/2023, trên Blog Bauxite Việt Nam, đối tượng Nguyễn
Anh Tuấn tán phát bài “Việt Nam - Trung Quốc hợp tác chống ly khai: Ai sẽ là nạn
nhân!”, nội dung vu cáo Nhà nước ta ngăn cấm, đàn áp dân tộc đặc biệt là đồng
bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Đây là hành động trắng trợn của đối tượng cơ
hội chính trị Nguyễn Anh Tuấn thể hiện sự hiểu biết nông cạn, can thiệp thô bạo
vào công việc nội bộ của Việt Nam.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử, chính sách dân tộc của Việt Nam
luôn được bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn và sự
phát triển của đất nước. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, các nguyên tắc, quan
điểm cơ bản về vấn đề dân tộc tiếp tục được khẳng định và bổ sung nhằm phát huy
mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và
miền núi.
Trong những năm vừa qua Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán
quan điểm về chính sách dân tộc nói chung và chính sách dân tộc vùng đồng bào
thiểu số ở Tây Nguyên nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện Chương trình mục tiêu quốc
gia phát triển kinh tế - xã hội, phối hợp lồng ghép với các chương trình, chính
sách khác trên địa bàn Tây Nguyên là một trong những giải pháp mang tính đột
phá để phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên.
Hiện nay, Tây Nguyên có 53 dân tộc cùng sinh sống, trong đó
có 52 dân tộc thiểu số với 2.199.784 người, chiếm 37,65% dân số toàn vùng. Các
dân tộc sống đoàn kết, đan xen nhau, tập trung tại 471 xã vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi. Các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên có bản sắc văn
hóa phong phú, là nơi lưu giữ được nhiều di sản văn hóa vật thể và
phi vật thể, có giá trị lịch sử và thẩm mỹ độc đáo, được bảo tồn, kế
thừa và phát huy. Đây là vùng có đông thành phần dân tộc nhất nước ta và cũng
là nơi duy nhất có đủ các nhóm ngôn ngữ - dân tộc của Việt Nam cùng sinh sống.
Trong những năm qua, để hỗ trợ đầu tư phát triển kinh tế - xã
hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi nói chung và Vùng Tây Nguyên nói
riêng, Đảng và Nhà nước đã quan tâm, ban hành nhiều chính sách, chương trình, dự
án; nhờ đó đời sống vật chất và tinh thần của gần 2,2 triệu đồng bào dân tộc
thiểu số không ngừng được cải thiện, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội
được giữ vững, khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố tăng cường. Tây Nguyên hiện
nay trở thành vùng sản xuất một số sản phẩm nông sản chủ lực quy mô lớn, chiếm
tỉ trọng cao.
Gần đây, tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động của
Chính phủ thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045 và xúc tiến đầu tư vùng với chủ đề “Phát triển xanh
- Hài hòa - Bền vững”. Một trong những giải pháp quan trọng, đó là tập trung giải
quyết tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho đồng
bào dân tộc thiểu số, đồng thời có chính sách để đồng bào gắn bó với rừng.
Đồng thời, bảo đảm dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân về tiếp
cận các dịch vụ y tế, giáo dục, thông tin cũng như cơ hội việc làm cho lao động
người dân tộc thiểu số. Tập trung phát triển đồng bộ các lĩnh vực giáo dục, đào
tạo, y tế nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho Tây Nguyên, xóa bỏ tình
trạng “vùng trũng nguồn nhân lực”. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện Chương trình mục
tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi, phối hợp lồng ghép với các chương trình, chính sách khác trên địa bàn như:
Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững và Chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng Nông thôn mới, gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp, thích ứng với
biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường bền vững, coi đây là một trong những giải
pháp mang tính đột phá để phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và
miền núi nói chung và Tây Nguyên nói riêng. Ngoài ra, nghiên cứu chính sách hỗ
trợ cho khởi nghiệp, tiêu thụ sản phẩm, tiếp cận thị trường, giải quyết việc
làm cho đồng bào dân tộc thiểu số. Có cơ chế ưu đãi, đẩy mạnh phát triển sản xuất
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các ngành nghề thủ công mỹ nghệ của đồng bào
dân tộc thiểu số…
Nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách dân tộc là công việc
quan trọng, cơ bản, thường xuyên, lâu dài, đòi hỏi phải được tiến hành có lộ
trình, kiên trì, nhất quán và không ngừng đổi mới, hoàn thiện. Các chính sách
dân tộc được xây dựng và ban hành phải là động lực trực tiếp thúc đẩy bình đẳng,
đoàn kết giữa các dân tộc và phát huy vai trò, tiềm năng thật sự của mỗi dân tộc.
Do vậy, những quan điểm của Nguyễn Anh Tuấn là hoàn toàn bịa đặt, sai sự thật,
chúng ta cần phải lên án và bác bỏ.
Thời gian gần đây các thế
lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh việc lợi dụng tôn giáo là một trong những mũi nhọn
để công kích, chống phá Đảng, nhà nước ta. Đặc biệt, Ngày 31/12/2023 trên Blog
VOA Tiếng Việt, đối tượng Trần Đông A tán phát bài “Hoành tráng giáng sinh, đừng quên cái nhìn toàn cảnh”, nội dung
xuyên tạc việc công nhận các tổ chức tôn giáo theo Sách trắng “Tôn giáo và
chính sách tôn giáo ở Việt Nam”, quy chụp Việt Nam vi phạm quyền tự do tín ngưỡng
tôn giáo và từ đó kêu gọi Bộ Ngoại giao Hoa kỳ đưa Việt Nam vào danh sách các
quốc gia cần đặc biệt quan tâm.
Việt Nam là đất nước có
truyền thống văn hóa lâu đời, là quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Tôn giáo ở
Việt Nam được ví như bức tranh thu nhỏ của tôn giáo trên thế giới. Nếu như nhiều
quốc gia thường có một tôn giáo giữ vai trò chủ đạo, ảnh hưởng sâu rộng trong đời
sống chính trị, xã hội, thì ở Việt Nam có nhiều tôn giáo khác nhau, nhưng cùng
tồn tại và bình đẳng về vị thế, không có tôn giáo nào giữ vai trò chủ đạo, ảnh
hưởng quyết định đến đời sống xã hội Việt Nam.
Ngày 09/3/2023, Bộ Thông
tin và Truyền thông đã phối hợp với Ban Tôn giáo Chính phủ ra mắt “Sách trắng
Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam”. Đây là tài liệu chính thống, kịp
thời cung cấp những thông tin cơ bản về tôn giáo, chính sách tôn giáo ở Việt
Nam và những thành tựu, cũng như thách thức của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo; một trong những công cụ chuyển tải thông tin trung
thực tới các nước, các tổ chức quốc tế quan tâm đến lĩnh vực nhân quyền, tôn
giáo, làm cơ sở tham chiếu, chứng minh cho nỗ lực của Việt Nam trong việc đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Qua đó, khẳng định chính sách nhất quán của Đảng,
Nhà nước Việt Nam về tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.
Những thành tựu thực tiễn
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta cho thấy, tôn trọng và bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo củanhân dân là quan điểm, chính sách xuyên suốt và nhất quán của Đảng, Nhà
nước ta. Quan điểm đó được thể hiện trong các văn bản của Đảng ngay từ khi mới
thành lập, nhất là trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã có nhiều đổi mới
mạnh mẽ về công tác tôn giáo được ghi dấu bằng nhiều nghị quyết, tiêu biểu như:
Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
IX) “Về công tác tôn giáo trong tình hình mới”, Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày
10/01/2018 của Bộ Chính trị (khóa XII) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số
25-NQ/TW, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, v.v. Trong đó, khẳng định rõ: tín ngưỡng,
tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng
dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng bào các tôn
giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; coi trọng giữ gìn và phát
huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của tôn giáo cho quá
trình phát triển đất nước; thực hiện tốt mục tiêu đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết
toàn dân tộc. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người theo quy định
của pháp luật.
Quan điểm nhất quán ấy đã
được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật và các chính sách nhằm bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo thực tế của người dân, phù hợp với từng giai đoạn của
cách mạng Việt Nam. Ngay từ Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa (năm 1946) và các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
sau này, đềukhẳng định quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo là một trong các quyền cơ bản của con người. Hiến pháp (năm
2013) ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không
theo một tôn giáo nào. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo”. Thực hiện các nguyên tắc đã được hiến định, Nhà nước Việt Nam không ngừng
hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo nhằm đáp ứng nhu cầu tín
ngưỡng, tôn giáo của người dân. Trong đó, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được kỳ họp
thứ 2, Quốc hội (khóa XIV) thông qua ngày 18/11/2016, có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2018 là dấu son trong lộ trình cụ thể hóa chủ trương nhất quán của
Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Trong quá trình lãnh đạo,
quản lý đất nước, Đảng, Nhà nước ta vừa quan tâm, chăm lo, bảo đảm quyền tự do,
tín ngưỡng tôn giáo, vừa tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho nhân dân
về đường lối, chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo, vừa quan tâm tạo điều kiện,
môi trường thuận lợi để các tôn giáo hoạt động, phát triển bình đẳng trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Điều này thể hiện rõ trong quan điểm của Đảng,
chính sách của Nhà nước ta. Do vậy, những quan điểm của đối tượng Trần Đông A về
chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn bịa đặt và không hiểu
biết gì về chính sách tôn giáo ở Việt Nam.
Ngày 14-1, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết quan điểm của Việt Nam về kết quả bầu cử người đứng đầu vùng lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc) ngày 13-1-2024, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng cho biết:
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng chủ trì Họp báo thường kỳ tháng 1-2024. Ảnh: TTXVN
Trên cơ sở kiên định thực hiện chính sách "một Trung Quốc", Việt Nam duy trì và phát triển quan hệ dân gian, phi chính phủ với Đài Loan (Trung Quốc) trên các lĩnh vực kinh tế - thương mại, đầu tư, khoa học công nghệ, văn hóa, giáo dục..., không phát triển bất cứ quan hệ cấp Nhà nước nào với Đài Loan.
Việt Nam tôn trọng nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và cho rằng, hòa bình, ổn định, hợp tác ở eo biển Đài Loan (Trung Quốc) có vai trò quan trọng đối với khu vực và thế giới.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dự phiên khai mạc Kỳ họp bất thường lần thứ năm của Quốc hội
Sáng nay, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dự khai mạc Kỳ họp bất thường lần thứ năm, Quốc hội khóa XV.
Nguồn: Truyền hình Quốc hội
Cùng dự có nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh; Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng; nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc; Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An; nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân; Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí Thư, Trưởng ban Tổ chức Trung ương; Trương Thị Mai; Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến. Cùng dự có các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; các đồng chí lão thành cách mạng...
Về phía Quốc hội có Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ; Ủy viên Bộ Chính trị, Phó chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn; các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, Nguyễn Đức Hải, Thượng tướng Trần Quang Phương; các vị đại biểu Quốc hội...
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các đại biểu dự phiên khai mạc Kỳ họp bất thường lần thứ năm, Quốc hội khóa XV. Ảnh: QUANG PHÚC
Phát biểu khai mạc kỳ họp, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhiệt liệt chào mừng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các vị đại biểu Quốc hội, các vị khách quý đã về dự phiên khai mạc Kỳ họp bất thường lần thứ năm.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh, để đáp ứng yêu cầu cấp thiết của thực tiễn, căn cứ quy định của Hiến pháp và pháp luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định triệu tập Kỳ họp bất thường lần thứ năm, Quốc hội khóa XV để xem xét, quyết định những nội dung quan trọng.
Theo đó, tại kỳ họp này, Quốc hội sẽ xem xét, thông qua dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi); dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi); dự thảo Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia được triển khai theo trình tự, thủ tục rút gọn. Bên cạnh đó, Quốc hội cũng sẽ xem xét và bổ sung Kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách Trung ương giai đoạn 2021-2025 từ nguồn dự phòng chung tương ứng với nguồn tăng thu ngân sách Trung ương năm 2022 cho các nhiệm vụ, dự án đầu tư công và bổ sung Kế hoạch đầu tư công trung hạn cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam từ nguồn dự phòng của Kế hoạch đầu tư công trung hạn.
Nói rõ hơn về dự án Luật Đất đai (sửa đổi), Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh, đây là dự án luật lớn, có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường của đất nước; có tác động sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp; đồng thời cũng là dự án luật rất khó và phức tạp.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ phát biểu khai mạc kỳ họp. Ảnh: QUANG PHÚC.
Dự án luật đã được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan, tổ chức liên quan chuẩn bị rất trách nhiệm, kỹ lưỡng, công phu qua nhiều vòng, nhiều bước; đã được thảo luận, cho ý kiến tại nhiều kỳ họp, phiên họp....
Dự thảo luật sau khi được tiếp thu, chỉnh lý gồm 16 chương và 260 điều (bỏ 5 điều, chỉnh lý 250 điều so với dự thảo luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ sáu). Đến nay, dự thảo luật đã quán triệt đầy đủ và thể chế hóa các quan điểm, nội dung của Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16-6-2022 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, phù hợp với Hiến pháp, đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật, đủ điều kiện để trình Quốc hội tại kỳ họp này.
Chủ tịch Quốc hội đề nghị các vị đại biểu Quốc hội phát huy tinh thần trách nhiệm cao, tiếp tục cho ý kiến về dự án luật, tập trung vào những vấn đề lớn, quan trọng theo Báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự án luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bảo đảm chất lượng cao nhất và xem xét, biểu quyết thông qua tại kỳ họp này.
Đề cập đến dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho biết, trên cơ sở ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp thứ năm và thứ sáu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan khẩn trương nghiên cứu, tiếp thu, giải trình, tham vấn ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học để chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo luật, bảo đảm thận trọng, kỹ lưỡng, bám sát yêu cầu cơ cấu lại, nâng cao năng lực, hiệu quả của hệ thống tổ chức tín dụng theo đúng chủ trương của Đảng, nghị quyết của Quốc hội.
Nhấn mạnh dự án luật có nhiều nội dung chuyên sâu, có tác động trực tiếp đến chính sách tài chính, tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô, do đó, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đề nghị các vị đại biểu Quốc hội nghiên cứu thận trọng, toàn diện, góp ý, hoàn thiện và xem xét, biểu quyết thông qua dự thảo luật đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, bảo đảm sự an toàn, lành mạnh, minh bạch, ổn định và bền vững của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng, phát triển theo đúng nguyên tắc thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thông lệ, chuẩn mực quốc tế phổ biến, nâng cao khả năng cạnh tranh, tiếp tục phát huy vai trò là kênh dẫn vốn quan trọng của nền kinh tế.
Ngoài ra, đề cập đến một số cơ chế, chính sách đặc thù đối với các Chương trình mục tiêu quốc gia, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho biết, thực hiện Nghị quyết về giám sát chuyên đề tại Kỳ họp thứ sáu, Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định áp dụng một số chính sách đặc thù để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ và hiệu quả thực hiện 3 chương trình mục tiêu quốc gia. Trên cơ sở kết quả giám sát của Quốc hội và thực tiễn phong phú tại bộ, ngành, địa phương, đơn vị mình, đề nghị các vị đại biểu Quốc hội cho ý kiến về nội dung và tính khả thi của từng quy định cụ thể trong dự thảo để hoàn thiện, xem xét thông qua nghị quyết tại kỳ họp này.
Toàn cảnh phiên khai mạc. Ảnh: QUANG PHÚC
Nhắc đến nội dung thứ tư tại kỳ họp này, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho biết, Quốc hội sẽ xem xét, cho ý kiến và quyết định một số nội dung quan trọng, cấp thiết về tài chính, ngân sách, bao gồm: Việc bổ sung Kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách Trung ương giai đoạn 2021-2025 từ nguồn dự phòng chung của kế hoạch đầu tư công trung hạn tương ứng với nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách Trung ương năm 2022 cho các nhiệm vụ, dự án đầu tư công; bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam từ nguồn dự phòng của Kế hoạch đầu tư công trung hạn để thực hiện dự án cấp điện từ lưới điện quốc gia cho huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, bảo đảm an ninh quốc phòng, chủ quyền biển đảo quốc gia, đáp ứng sự mong mỏi của cử tri, nhân dân huyện đảo và cả nước.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh: Kỳ họp bất thường lần thứ năm, Quốc hội khóa XV diễn ra trong những ngày đầu năm mới 2024 - năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 và hướng tới Đại hội XIV của Đảng.
"Những nội dung được quyết định tại kỳ họp này có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của năm 2024 mà còn cả nhiệm kỳ và có ý nghĩa căn cơ, chiến lược, lâu dài", Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nói.
Thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đề nghị các vị đại biểu Quốc hội phát huy dân chủ, nêu cao tinh thần trách nhiệm, tập trung nghiên cứu, thảo luận sôi nổi, đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết, chất lượng để kỳ họp hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình với sự thống nhất, đồng thuận cao; đề nghị các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan liên quan, với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, phối hợp chặt chẽ, hoàn thiện các dự thảo luật, nghị quyết đạt chất lượng cao nhất để Quốc hội xem xét, quyết định.