Thứ Sáu, 7 tháng 8, 2020

PHÁT HUY NHÂN TỐ CHÍNH TRỊ - TINH THẦN CỦA QUÂN ĐỘI TRONG PHÒNG, CHỐNG DỊCH COVID-19

 


Dịch Covid-19 là đại dịch đặc biệt nguy hiểm, lây lan nhanh, tác động nghiêm trọng đến tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng của các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Tại Việt Nam, với tầm nhìn và tư duy chiến lược, Đảng, Nhà nước ta đã sớm dự báo sát đúng tình hình, mức độ nguy hiểm của dịch bệnh. Với tinh thần bám sát thực tiễn, xây dựng chiến lược ứng phó khoa học, sáng tạo, phù hợp, triển khai quyết liệt, đồng bộ, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong phòng chống dịch. Quán triệt quan điểm “chống dịch như chống giặc” được thấu suốt từ Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đến từng cán bộ, chiến sĩ; xác định đây là nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ chiến đấu của Quân đội trong thời bình, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã kịp thời có các văn bản chỉ đạo trong từng giai đoạn phòng, chống dịch, góp phần quan trọng cùng với cả nước bước đầu đẩy lùi dịch bệnh, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, coi Việt Nam là “điểm sáng” của thế giới về phòng, chống đại dịch. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định: “Quân đội luôn là trụ cột của quốc gia, đặc biệt khi đất nước lâm nguy, giặc giã, thảm họa, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm, thì vai trò chủ đạo và tính chất nòng cốt của Quân đội càng được thể hiện rõ hơn và phát huy mạnh mẽ”. Chứng tỏ sức mạnh tổng hợp của đất nước và Quân đội dựa trên nền tảng chính trị - tinh thần gồm tổng thể các yếu tố từ đường lối đúng đắn của Ðảng, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, lòng yêu Tổ quốc, niềm tin vào sự lãnh đạo của Ðảng và sự điều hành của Chính phủ, từ truyền thống của dân tộc và ý chí quyết chiến, quyết thắng của bộ đội ta đã được phát huy cao độ, không chỉ trong các cuộc chiến tranh trước đây, mà còn trên trận tuyến chống đại dịch hiện nay.

Trong cuộc chiến cam go này, đối với Quân đội, sức mạnh đó được thể hiện trước hết ở tinh thần chủ động, sáng tạo, ý chí tiến công không lùi bước, xung kích, đi đầu, làm tròn trọng trách mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân tin tưởng giao phó. Ngay từ đầu, Quân đội đã phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành, địa phương, chủ động xây dựng, điều chỉnh các kế hoạch, phương án ứng phó với các cấp độ dịch, sớm tổ chức diễn tập toàn quân với quy mô lớn (tại 227 điểm cầu, 267 điểm thực binh với trên 22.000 người tham gia), dự báo các tình huống xấu nhất có thể xảy ra để có phương án xử lý tốt nhất. Tăng cường tổ chức tập huấn, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, kiện toàn, sắp xếp, bố trí lực lượng; kịp thời bổ sung một khối lượng lớn trang thiết bị, vật tư y tế, cơ sở vật chất theo phương châm “4 tại chỗ” đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.

Sức mạnh đó còn được thể hiện sâu sắc ở tinh thần “nhường cơm, sẻ áo”, chấp nhận gian khổ, hy sinh quên mình, “vì nhân dân phục vụ”. Thực hiện sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, các đơn vị đã tổ chức trên 09 vạn lượt cán bộ, chiến sĩ bộ đội Biên phòng, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ khắc phục khó khăn, gian khổ, kiên cường bám trụ ngày đêm tại 1.645 tổ, chốt dọc theo các tuyến biên giới phía Bắc, Tây, Tây Nam, tạo thành “lá chắn thép” không để dịch bệnh lây lan từ ngoài vào nội địa. Chủ động dồn dịch, nhường doanh trại để tổ chức 159 địa điểm cách ly tập trung cho gần 07 vạn người từ vùng dịch nước ngoài về nước, với tinh thần phục vụ tận tình, chu đáo, góp phần thắt chặt tình cảm quân, dân, để lại ấn tượng sâu sắc về đất nước, Quân đội, con người Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế. Lực lượng quân y đã thành lập 25 đội, 154 tổ quân y cơ động, 07 bệnh viện dã chiến truyền nhiễm với tổng số 2.800 giường bệnh sẵn sàng làm nhiệm vụ. Trong thời gian ngắn, Học viện Quân y đã nghiên cứu, sản xuất thành công bộ sinh phẩm phát hiện vi rút Corona chủng mới phục vụ công tác phát hiện, sàng lọc người bệnh trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Qua đó khẳng định năng lực và đóng góp quan trọng của Quân đội trong phòng, chống dịch bệnh, góp phần nâng cao vị thế của nền y học nước nhà. Bộ đội Hóa học đã huy động các trang bị chuyên dụng hiện đại, có mặt kịp thời tại các “tâm dịch” khử trùng, tiêu tẩy, góp phần khoanh vùng, dập dịch hiệu quả, nhất là tại Sơn Lôi/Vĩnh Phúc, Trúc Bạch, Bạch Mai, Hạ Lôi/Hà Nội. Dù miền xuôi hay miền ngược, ở đâu bộ đội đến thì ở đó lòng dân yên tâm, tin tưởng hơn, làm đẹp thêm hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.

Trước sự bùng phát của đại dịch trên thế giới, phát huy tinh thần quốc tế vô tư, trong sáng, chúng ta đã tích cực hợp tác, trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ trang thiết bị, vật tư y tế, cử chuyên gia giúp quân đội một số quốc gia trong phòng, chống dịch bệnh (Lào, Campuchia, Nga, Cu Ba, Trung Quốc,…). Dù giá trị vật chất không lớn nhưng nghĩa cử cao đẹp đó được bạn bè quốc tế trân trọng, khen ngợi, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Quân đội và đất nước trên trường quốc tế. Ngay trong cuộc chiến với dịch bệnh, toàn quân đã chủ động điều chỉnh, tổ chức triển khai thực hiện tốt các hoạt động quân sự, quốc phòng; duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, biển đảo của Tổ quốc, không để bị động, bất ngờ; tích cực giúp các địa phương khắc phục hậu quả thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn; phối hợp giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn cả nước.

Có thể khẳng định, sức mạnh chính trị - tinh thần của cán bộ, chiến sĩ Quân đội bắt nguồn từ bản chất, truyền thống cách mạng của Đảng và cội nguồn lịch sử, văn hóa của dân tộc được kế thừa, phát huy trong điều kiện mới, bảo đảm cho Quân đội ta luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân, thực sự là điểm tựa tin cậy cho toàn dân trong cuộc chiến đẩy lùi dịch bệnh, với khát vọng và quyết tâm như đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Toàn thể dân tộc Việt Nam ta hãy cùng chung sức, đồng lòng vượt qua mọi khó khăn, thách thức để chiến thắng đại dịch Covid-19”.

Thời gian tới, đại dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, có thể bùng phát trở lại, gây hậu quả nghiêm trọng, thách thức gay gắt vai trò của các nước, các thể chế quốc tế về an ninh phi truyền thống, làm thay đổi trật tự thế giới, thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc cực đoan, làm gia tăng cạnh tranh địa chiến lược giữa các nước lớn, nhất là trên Biển Đông, tác động sâu sắc đến môi trường an ninh khu vực. Nước ta đang chuyển sang trạng thái “bình thường mới”, mở ra cơ hội đan xen nhiều khó khăn, thách thức bởi tác động tiêu cực của dịch bệnh; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tham nhũng, lãng phí và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, đặt ra những yêu cầu mới nặng nề hơn đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong Quân đội, cùng với phòng, chống dịch, tiếp tục đẩy mạnh triển khai các nghị quyết, chiến lược, đề án về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; điều chỉnh tổ chức lực lượng, cơ cấu lại, đổi mới, sắp xếp, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp quân đội, chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng,... đòi hỏi phải có sự thống nhất cao về nhận thức và hành động. Vì vậy, để phát huy nhân tố chính trị - tinh thần của Quân đội trong phòng, chống dịch Covid-19, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, cần thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau:

Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội phòng, chống dịch Covid-19 trong tình hình mới. Trước hết cần khẳng định, nhân tố chính trị - tinh thần giữ vai trò quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sức mạnh chiến đấu của quân đội. V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi hay thất bại đều tùy thuộc vào tâm trạng của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”1. Do đó, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng bộ đội là vấn đề quan trọng hàng đầu, cần được làm trước, làm thường xuyên để phát huy sức mạnh chính trị - tinh thần của cán bộ, chiến sĩ. Thực tiễn vừa qua, cấp ủy, chỉ huy các đơn vị đã chú trọng làm tốt công tác quán triệt nhận thức, động viên tư tưởng bộ đội, chấp hành nghiêm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị với tinh thần “chống dịch như chống giặc”. Đây là yếu tố tiên quyết, trở thành kinh nghiệm thực tiễn quý báu để phát huy cao độ sức mạnh chính trị - tinh thần trong thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị.

Vì vậy, cùng với việc điều chỉnh thực hiện tốt chương trình giảng dạy, giáo dục chính trị cho các đối tượng, cần tiếp tục quán triệt nghiêm sự chỉ đạo của các cấp về phòng, chống dịch bệnh, trọng tâm là Lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Kết luận số 172-TB/TW, ngày 21/3/2020 của Bộ Chính trị, Công văn số 79-CV/TW, ngày 29/01/2020 của Ban Bí thư, Chỉ thị số 19/CT-TTg, ngày 25/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 260-CT/QUTW, ngày 19/3/2020 của Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chỉ thị số 104/CT-BQP, ngày 12/5/2020 của Bộ Quốc phòng về tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 trong tình hình mới.

Tiếp tục quán triệt sâu sắc, thống nhất trong toàn quân quan điểm “chống dịch như chống giặc”, “chống dịch là nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình”, bảo đảm trong bất luận hoàn cảnh nào Quân đội cũng đi đầu trong phòng, chống dịch bệnh. Giáo dục cho bộ đội thấu suốt nhận thức, không chủ quan, lơ là, luôn gương mẫu đi đầu, nhân lên các giá trị tốt đẹp trong phòng, chống dịch về truyền thống yêu nước, trách nhiệm cộng đồng, tinh thần tương thân, tương ái, tự hào, tự tôn dân tộc, tính kỷ luật, đoàn kết, chủ động, sáng tạo, khát vọng vươn lên, khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Chú trọng làm tốt công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về việc Quân đội ứng phó với đại dịch Covid-19 và các thách thức an ninh phi truyền thống, góp phần bổ sung, phát triển đường lối quân sự, quốc phòng, xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Hai là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, định hướng dư luận trong cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu thông tin của con người càng tăng. Do đó, công tác thông tin, tuyên truyền ngày càng giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Khi dịch bệnh đe dọa sự an toàn của con người và xã hội thì các luồng thông tin về nó tác động rất lớn đến việc xây dựng và phát huy nhân tố chính trị - tinh thần của cán bộ, chiến sĩ Quân đội. Vì vậy, cần tập trung phát huy tốt tất cả các kênh thông tin, tuyên truyền, định hướng dư luận đảm bảo kịp thời, minh bạch, chính xác. Tăng cường tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, gắn tuyên truyền phòng, chống dịch bệnh với tuyên truyền nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Báo chí quân đội chủ động xây dựng tuyến tin, bài chuyên sâu, qua đó khẳng định tính ưu việt của chế độ ta, vai trò, chức năng, bản chất, truyền thống của Quân đội và hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trên trận tuyến chống đại dịch và có phương án tuyên truyền trong tình huống khẩn cấp về dịch bệnh nếu xảy ra.

Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, tuyên truyền trên nền tảng mạng truyền số liệu quân sự, internet, mạng xã hội và các thiết chế văn hóa tại đơn vị. Các đơn vị văn học, nghệ thuật quân đội phát động sáng tác, quảng bá các tác phẩm về đề tài phòng, chống dịch bệnh. Đẩy mạnh công tác thi đua - khen thưởng trong phòng, chống dịch gắn với các cuộc vận động lớn, phong trào thi đua Quyết thắng và các đợt thi đua cao điểm, đột kích nhân các ngày lễ kỷ niệm lớn; hướng mạnh về cơ sở, tập trung vào các lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ; kịp thời phát hiện, tôn vinh, nhân rộng các mô hình hay, cách làm sáng tạo, tập thể, cá nhân tiêu biểu trong cuộc chiến đẩy lùi đại dịch.

Ba là, phát huy vai trò trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong phòng, chống dịch bệnh và thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, đảm bảo giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định nâng cao sức mạnh chính trị - tinh thần của Quân đội. Do vậy, cần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng, tập trung vào tiếp tục triển khai có hiệu quả nghị quyết chuyên đề lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ phòng, chống dịch. Kịp thời bổ sung chủ trương, biện pháp lãnh đạo sát đúng, phù hợp với tình hình mới, đảm bảo vừa lãnh đạo phòng, chống dịch bệnh tốt, vừa triển khai đồng bộ các biện pháp để thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Quân ủy Trung ương và nghị quyết của cấp ủy các cấp về lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh, gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm Chỉ thị số 747-CT/QUTW, ngày 23/7/2019 của Thường vụ Quân ủy Trung ương, hướng dẫn của Tổng cục Chính trị làm tốt công tác chuẩn bị và tổ chức thành công đại hội đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Cùng với đó, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII), Chỉ thị số 87-CT/QUTW của Thường vụ Quân ủy Trung ương về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Chỉ thị số 855-CT/QUTW, ngày 12/8/2019 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Quán triệt và thực hiện tốt các quy định của Đảng về nêu gương2, đặc biệt là Quy định số 646-QĐ/QUTW, ngày 06/01/2012 của Thường vụ Quân ủy Trung ương “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý các cấp trong Quân đội” và Nghị quyết số 109-NQ/QUTW, ngày 11/2/2019 của Quân ủy Trung ương về “Xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội, nhất là cấp chiến dịch, chiến lược đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới”. Phát huy tốt vai trò trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, nhất là bí thư cấp ủy, cán bộ chủ trì, cán bộ chính trị các cấp, làm nòng cốt trong nâng cao sức mạnh chính trị - tinh thần của cán bộ, chiến sĩ, tạo cơ sở để phát huy sức mạnh tổng hợp của Quân đội ứng phó tốt với các cấp độ dịch và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.

Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng; tăng cường công tác chính sách, dân vận, xây dựng mối quan hệ đoàn kết gắn bó quân - dân; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng và cấp ủy, chính quyền địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống dịch, gắn với phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh trên địa bàn. Đây là các yếu tố rất quan trọng để nâng cao sức mạnh chính trị - tinh thần của cán bộ, chiến sĩ Quân đội. Tập trung phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng (thanh niên, phụ nữ, công đoàn) và hội đồng quân nhân, tổ chức nhiều hoạt động có ý nghĩa thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng công tác phòng, chống dịch và các nhiệm vụ của đơn vị. Thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, kịp thời chế độ chính sách đối với Quân đội và hậu phương quân đội, nhất là một số chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch theo quy định tại Nghị định số 37/NĐ-CP, ngày 29/3/2020 của Chính phủ. Quản lý chặt chẽ tình hình chính trị nội bộ, tổ chức quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quy định về phòng gian, giữ bí mật, bảo đảm an ninh, an toàn tại đơn vị và các khu cách ly.

Tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực tham gia phòng, chống dịch và giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nhất là tại các địa bàn chiến lược, biên giới, biển đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo. Phối hợp với các cơ quan chức năng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương làm tốt công tác điều phối, tiếp nhận, vận chuyển, theo dõi, cách ly và các nội dung, biện pháp ứng phó hiệu quả với các cấp độ dịch trên địa bàn (nếu xảy ra), giúp dân khôi phục, phát triển sản xuất, ổn định đời sống, xóa đói, giảm nghèo, góp phần xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh, khu vực phòng thủ vững chắc, tăng cường tiềm lực quốc phòng, “thế trận lòng dân” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Năm là, tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng, xuyên tạc công tác phòng, chống dịch bệnh để chống phá Đảng, Nhà nước và Quân đội. Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ráo riết tăng cường chống phá, hòng làm suy giảm niềm tin, ý chí của nhân dân và Quân đội, tiến tới xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Lợi dụng tình hình dịch bệnh, các vấn đề bức xúc trong xã hội và dịp diễn ra đại hội đảng các cấp, chúng tập trung xuyên tạc chủ trương, chính sách, hạ thấp uy tín của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội, tung tin bịa đặt về công tác nhân sự đại hội, phủ nhận kết quả phòng, chống dịch bệnh, phủ nhận vai trò, chức năng của Quân đội. Vì vậy, quá trình xây dựng và phát huy sức mạnh chính trị - tinh thần của cán bộ, chiến sĩ Quân đội cũng là quá trình đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch. Theo đó, cần đẩy mạnh quán triệt, thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy vai trò của các cơ quan chức năng và lực lượng nòng cốt triển khai đồng bộ các biện pháp, kiên quyết đấu tranh vạch trần và làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, nhất là trên không gian mạng.

Cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp, có thể kéo dài, với hệ lụy nặng nề cho thế giới, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, việc phát huy nhân tố chính trị - tinh thần, yếu tố quyết định nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân, làm nòng cốt cùng toàn dân chiến thắng đại dịch và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là vấn đề rất cấp thiết. Do đó, cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên, không ngừng nâng cao sức mạnh chính trị - tinh thần của toàn quân, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, xứng đáng với lời khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với Dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”3. v

Thượng tướng NGUYỄN TRỌNG NGHĨA, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
_________________         

1 - V.I. Lê-nin - Toàn tập, Tập 31, Nxb Sự thật, H. 1989, tr. 105.

2 - Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”, v.v.

3 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 14, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 435.

http://tapchiqptd.vn/vi/nhung-chu-truong-cong-tac-lon/phat-huy-nhan-to-chinh-tri-tinh-than-cua-quan-doi-trong-phong-chong-dich-covid19/15573.html

QUÂN ĐỘI NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN QUY CHẾ CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 

 


Ngày 25/02/2010, Bộ Chính trị khóa X đã ban hành Quyết định số 290-QĐ/TW về Quy chế Công tác dân vận của hệ thống chính trị (Quyết định số 290). Sau 10 năm thực hiện đã khẳng định được ý nghĩa và tầm quan trọng của Quy chế. Trước yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới, toàn quân tiếp tục quán triệt, thực hiện Quy chế, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của Quân đội.

Ngay sau khi Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 290, Tổng cục Chính trị đã tham mưu với Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn cấp ủy các cấp trong toàn quân tổ chức quán triệt, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhận thức sâu sắc, đầy đủ về Quy chế này. Đồng thời, ban hành Quyết định số 03-QĐ/ĐU, ngày 04/01/2011 về “Quy chế Công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam” và nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác dân vận trong Quân đội. Cùng với đó, phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên, cơ quan chính trị các cấp và các tổ chức quần chúng, Hội đồng quân nhân trong các cơ quan, đơn vị để tiến hành công tác dân vận. Sau 10 năm thực hiện Quy chế, công tác dân vận trong Quân đội đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, có chuyển biến tích cực, rõ nét.

Người đứng đầu cấp ủy đảng nhận rõ trách nhiệm, phát huy vai trò, năng lực trong lãnh đạo; phân công cấp ủy viên phụ trách công tác dân vận ở tất cả các cấp. Nội dung công tác dân vận và trách nhiệm thực hiện công tác dân vận của các cấp ủy đảng được xác định rõ, gắn với nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị, thể hiện bằng nghị quyết lãnh đạo chuyên đề, nghị quyết lãnh đạo thường kỳ, quy chế công tác dân vận của cấp ủy và các chương trình, kế hoạch thực hiện nghị quyết lãnh đạo hằng năm, từng giai đoạn, tiến hành kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện.

Chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp đã ý thức rõ vai trò, trách nhiệm trong xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện công tác dân vận ở cơ quan, đơn vị. Đẩy mạnh cải cách hành chính quân sự, phát huy dân chủ ở cơ sở, giải quyết kịp thời khó khăn, tháo gỡ vướng mắc từ cơ sở; thực hiện nghiêm túc, nền nếp, có hiệu quả công tác dân vận, nhất là khi tiếp công dân. Đổi mới tác phong, phương pháp công tác, tạo môi trường làm việc dân chủ, thân thiện, đoàn kết; xây dựng cơ quan, đơn vị có môi trường văn hóa tốt, đẹp, lành mạnh, phong phú, văn minh, chính quy, cảnh quan xanh, sạch, đẹp, là “điểm sáng” văn hóa trên địa bàn đóng quân.

Các tổ chức quần chúng, Hội đồng quân nhân luôn chủ động, tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tập hợp đoàn viên, hội viên tạo sức mạnh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội, góp phần tích cực trong công tác xây dựng Đảng, nâng cao hiệu lực của người chỉ huy các cấp. Thường xuyên phối hợp với tổ chức đoàn thể địa phương thực hiện các phong trào, cuộc vận động, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh trên từng địa bàn.

http://uploads.tapchiqptd.vn/Article/xuancuong/2020/7/30/04092324848.jpg

Người dân Bản Mu Chi, xã Pa Hủ được Bộ đội Biên phòng hướng dẫn trồng cỏ voi tạo nguồn thức ăn chăn nuôi bò. Ảnh: TTXVN

Đến nay, công tác dân vận của Quân đội đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Với phương châm hướng mạnh về cơ sở, đa dạng hóa nội dung, hình thức tiến hành dân vận, đã xuất hiện nhiều mô hình hay, cách làm hiệu quả, làm lan tỏa phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong xã hội. Các cơ quan, đơn vị trong toàn quân luôn thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo sự đồng thuận xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tham gia có hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, phối hợp với địa phương thực hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh. Tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở; phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương tham gia xử lý có hiệu quả những vụ việc phức tạp, “điểm nóng”, góp phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn cả nước. Thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua, cuộc vận động, xây dựng các mô hình, điển hình “Dân vận khéo” trên các lĩnh vực. Quân đội thực hiện tốt chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động, sản xuất, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, “thế trận lòng dân” vững chắc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Bên cạnh những kết quả trên, việc thực hiện Quy chế và công tác dân vận trong Quân đội thời gian qua, còn hạn chế, thiếu sót. Việc quán triệt, thực hiện các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của trên ở một số cơ quan, đơn vị có nội dung thiếu cụ thể. Nội dung, hình thức tiến hành công tác dân vận của một số đơn vị chậm được đổi mới. Kiến thức, kinh nghiệm, phương pháp tác phong công tác của một số cán bộ, chiến sĩ trong tiến hành công tác dân vận có mặt còn hạn chế, nhất là kiến thức về kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật, dân tộc, tôn giáo, phong tục tập quán và tiếng của dân tộc thiểu số; còn cán bộ, chiến sĩ vi phạm kỷ luật khi làm công tác dân vận.

Những năm tới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, song tình hình thế giới có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, đất nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là khi nước ta hội nhập sâu rộng hơn; tình hình Biển Đông, vùng biển Tây Nam và một số địa bàn chiến lược tiềm ẩn nhân tố gây mất ổn định. Đời sống của một bộ phận nhân dân và lực lượng vũ trang còn khó khăn. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ; lợi dụng vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền”,… để kích động ly khai, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội với những thủ đoạn công khai, trực diện hơn. Quân đội tiếp tục được đầu tư xây dựng, nâng cao sức mạnh tổng hợp. Việc điều chỉnh tổ chức lực lượng tinh, gọn, mạnh đặt ra yêu cầu mới đối với thực hiện nhiệm vụ và xây dựng Quân đội.

Trước tình hình đó, để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện Quy chế Công tác dân vận của hệ thống chính trị, Quy chế và công tác dân vận của Quân đội, cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:

1. Thường xuyên giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ, dân quân tự vệ về Quy chế Công tác dân vận của hệ thống chính trị và công tác dân vận trong tình hình mới. Tiếp tục quán triệt sâu sắc Quyết định số 290 của Bộ Chính trị và các văn bản của Đảng về công tác dân vận, nhất là Nghị quyết số 25-QĐ/TW, ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Nghị quyết số 49-NQ/QUTW, ngày 26/01/2015 của Quân ủy Trung ương, v.v. Qua đó làm chuyển biến sâu sắc về nhận thức và hành động của cấp ủy, chỉ huy các cấp và cán bộ, chiến sĩ về thực hiện Quy chế trong tiến hành công tác dân vận; coi việc tiến hành công tác dân vận vừa là tình cảm vừa là trách nhiệm chính trị của mỗi quân nhân. Chủ động đấu tranh, phản bác thông tin sai trái, bịa đặt của các thế lực thù địch nhằm chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ giữa Đảng, Nhà nước, Quân đội với Nhân dân.

2. Tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức đảng, trách nhiệm của chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp trong thực hiện Quy chế và công tác dân vận. Các cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo, chỉ đạo, thường xuyên rà soát, điều chỉnh, bổ sung Quy chế Công tác dân vận bảo đảm phù hợp với tình hình thực tiễn cơ quan, đơn vị. Xây dựng kế hoạch, hướng dẫn thực hiện chặt chẽ, hiệu quả; huy động sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng trong và ngoài Quân đội. Cơ quan chính trị và cán bộ chính trị các cấp làm tốt vai trò tham mưu chỉ đạo, hướng dẫn, theo dõi tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác dân vận của cơ quan, đơn vị; chỉ đạo các tổ chức quần chúng đổi mới nội dung, hình thức hoạt động, phối hợp thực hiện hiệu quả các phong trào thi đua, cuộc vận động của cơ quan, đơn vị và địa phương.

Cùng với đó, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, chấn chỉnh khắc phục những tồn tại, hạn chế; tiến hành sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, xây dựng và nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến; kịp thời biểu dương, khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện Quy chế và công tác dân vận, kiên quyết xử lý những trường hợp vi phạm kỷ luật công tác dân vận.

3. Tích cực đổi mới nội dung, đa dạng hình thức phù hợp với tình hình thực tiễn, hướng mạnh về cơ sở. Trên cơ sở nội dung hoạt động công tác dân vận, các cơ quan, đơn vị thường xuyên nắm chắc tình hình, xác định nội dung tiến hành phù hợp với thực tiễn. Thực hiện có hiệu quả các hình thức công tác dân vận, nhất là hình thức kết nghĩa, hành quân dã ngoại làm công tác dân vận, tổ, đội công tác dân vận, cử cán bộ Bộ đội Biên phòng tăng cường cho cơ sở, v.v. Tiếp tục thực hiện các chương trình phối hợp hoạt động với các ban, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương và địa phương. Đẩy mạnh vận động các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong và ngoài nước, phát huy vai trò của chức sắc, chức việc, già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng để tiến hành công tác dân vận.

Thực hiện tốt công tác dân vận trong xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, địa bàn chiến lược, trọng điểm. Tích cực nghiên cứu, giải quyết các vấn đề mới nảy sinh, nhất là địa bàn biên giới, biển, đảo, các trung tâm đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào tôn giáo và những vấn đề liên quan đến tranh chấp đất đai, đền bù, giải tỏa, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh,… hoạt động của các tổ chức bất hợp pháp, các đối tượng phản động, cơ hội chính trị và những hiện tượng không lành mạnh của tín ngưỡng, tôn giáo. Phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chức năng, các lực lượng, nâng cao hiệu quả các hình thức tuyên truyền trong quá trình vận động nhân dân. Đa dạng hóa các hình thức vận động nhân dân vùng biên giới và nhân dân các nước láng giềng, góp phần hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển.

4. Chủ động nâng cao hiệu quả công tác tham mưu, phối hợp với cấp ủy, chính quyền và các ban, ngành, đoàn thể ở Trung ương, địa phương tạo sức mạnh tổng hợp trong tiến hành công tác dân vận. Trên từng địa bàn, các đơn vị phát huy tốt vai trò phối hợp tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành hiệu quả công tác dân vận; thực hiện nghiêm túc Quy chế Công tác dân vận của hệ thống chính trị, cơ chế lãnh đạo, phối hợp hoạt động trong tiến hành công tác dân vận. Thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế hoạch ký kết giữa cơ quan, đơn vị với các tổ chức ở địa phương. Thường xuyên nắm chắc tình tình, chủ động xây dựng, bổ sung kế hoạch, phương án phối hợp xử trí tình huống, đặc biệt khi xảy ra tình hình phức tạp, không để lan rộng, kéo dài.

Các tổ chức quần chúng phối hợp chặt chẽ với đoàn thể địa phương, đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp nhân dân thực hiện các phong trào thi đua, cuộc vận động, gắn phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh. Xây dựng đơn vị an toàn gắn với địa bàn an toàn.

5. Phát huy dân chủ rộng rãi; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức quần chúng và Hội đồng quân nhân, tạo sự đoàn kết, thống nhất cao trong thực hiện nhiệm vụ. Duy trì nền nếp đối thoại của cấp ủy, chỉ huy với cán bộ, chiến sĩ; lắng nghe, tiếp thu các ý kiến đóng góp của quần chúng trong cơ quan, đơn vị; những vấn đề còn chưa thống nhất cần phản ánh, kịp thời phúc đáp, giải trình tạo sự đoàn kết, thống nhất cao trong nội bộ, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, hiệu quả điều hành của cấp ủy, chỉ huy các cấp.

Tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức quần chúng và Hội đồng quân nhân, bảo đảm sát thực, phù hợp với thực tiễn. Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức quần chúng, đoàn thể địa phương trong tiến hành công tác dân vận. Đa dạng hóa các hình thức vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân, quan tâm xây dựng lực lượng nòng cốt, nhất là ở địa bàn trọng điểm. Phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội, hiến kế của các tổ chức quần chúng trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy chế, quy định của cấp ủy, chỉ huy; tích cực thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị.

6. Thường xuyên quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức cơ quan, đội ngũ cán bộ dân vận, bồi dưỡng nâng cao nhận thức, năng lực công tác dân vận cho cán bộ, đảng viên; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tập trung xây dựng cơ quan dân vận, cán bộ dân vận đảm bảo số lượng, chất lượng; bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân vận có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, kiến thức, kinh nghiệm tiến hành công tác dân vận. Chủ động cập nhật những nội dung mới, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ, kỹ năng xử lý các tình huống cho cán bộ, chiến sĩ trực tiếp làm công tác dân vận. Chống biểu hiện chủ quan, xem nhẹ công tác dân vận. Khắc phục hiện tượng đưa cán bộ dôi dư, phẩm chất, năng lực yếu và không có uy tín về làm công tác dân vận. Quán triệt, thực hiện phong cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Đẩy mạnh phong trào thi đua “Văn hóa công sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam”. Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương phát hiện, bồi dưỡng kỹ năng vận động quần chúng cho lực lượng cốt cán, những người có uy tín trong cộng đồng dân cư để không ngừng nâng cao hiệu quả công tác dân vận.

Các học viện, nhà trường nghiên cứu, bổ sung nội dung, chương trình đào tạo về công tác dân vận, công tác tuyên truyền đặc biệt, công tác dân tộc, tôn giáo đưa vào giảng dạy cho các đối tượng. Tiếp tục nghiên cứu những vấn đề về chế độ, chính sách và kinh phí bảo đảm cho công tác dân vận đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình mới mới.

Dân vận và công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta; là điều kiện quan trọng đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng và củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ phận công tác dân vận của Đảng; một mặt hoạt động của công tác chính trị trong Quân đội; là nhiệm vụ chính trị thường xuyên của cấp ủy, chỉ huy các cấp, các cơ quan, đơn vị và mọi quân nhân, công nhân, viên chức, lao động quốc phòng. Vì vậy, toàn quân tiếp tục quán triệt, xác định rõ trách nhiệm và thực hiện có hiệu quả Quy chế Công tác dân vận của hệ thống chính trị, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của Quân đội lên một tầm cao mới.

Thượng tướng TRẦN QUANG PHƯƠNG, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam

 

http://tapchiqptd.vn/vi/nhung-chu-truong-cong-tac-lon/quan-doi-nang-cao-hieu-qua-thuc-hien-quy-che-cong-tac-dan-van-cua-he-thong-chinh-tri-trong/15797.html

BÀI 1: KINH TẾ THỊ TRƯỜNG KHÔNG PHẢI “HÀNG ĐỘC QUYỀN” CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN

 


Trong quá trình đóng góp cho văn kiện Đại hội XIII của Đảng, vấn đề xây dựng kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) giành được nhiều sự quan tâm. Các thế lực thù địch, chống phá Việt Nam và một số cá nhân có quan điểm sai trái cho rằng, KTTT là của chủ nghĩa tư bản (CNTB), vì thế không thể kết

Họ cho rằng KTTT với định hướng XHCN như “nước với lửa”, khi ghép định hướng XHCN vào KTTT thì sẽ tạo ra một “thân hình dị dạng”. Từ đó, họ kết luận rất xằng bậy rằng, Việt Nam phải từ bỏ việc xây dựng nền KTTT định hướng XHCN, vì nền KTTT kiểu này là không hề tồn tại và xây dựng nền KTTT thực chất là đang đi theo con đường của CNTB. Vậy thực chất KTTT có phải là của CNTB không? Có thể ghép KTTT với định hướng XHCN được không?
Thực tế lịch sử và hiện tại đã cho thấy, KTTT không phải là “con đẻ”, là sản phẩm thuộc về CNTB. CNTB không sinh ra kinh tế hàng hóa. Mà kinh tế hàng hóa đã xuất hiện ở giai đoạn đồng tiền còn chưa xuất hiện. Ở giai đoạn sơ khai, do chưa có tiền tệ nên trao đổi hàng hóa mang hình thức trực tiếp, gọi là hàng đổi hàng. Người sản xuất gạo và cần thịt có thể gặp người sản xuất thịt và cần gạo để đổi trực tiếp gạo lấy thịt-đây đã là kinh tế hàng hóa. Do đó, KTTT với tư cách là kinh tế hàng hóa ở trình độ cao không phải là sản phẩm riêng của CNTB mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại qua nhiều thời kỳ. KTTT đã có mầm mống từ trong xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển cao trong xã hội tư bản. Trước CNTB, KTTT còn ở thời kỳ manh nha, trình độ thấp thì trong CNTB nó đạt đến trình độ cao. Điều đó khiến người ta nhầm tưởng, nghĩ rằng KTTT là sản phẩm riêng của CNTB và cũng là cách thức để các thế lực thù địch tuyên truyền, chống phá tính “định hướng XHCN” trong KTTT ở Việt Nam hiện nay.
Thực tế cho thấy, KTTT không phải là con đường độc đạo để phát triển thành tư bản chủ nghĩa. KTTT cũng không có một mô hình duy nhất mà có nhiều mô hình khác nhau. Hiện nay, KTTT có 3 mô hình chủ yếu là: Mô hình KTTT tự do; mô hình KTTT-xã hội; mô hình KTTT định hướng XHCN (ở Việt Nam) hay KTTT XHCN (ở Trung Quốc). Có thể nói 3 mô hình KTTT nói trên đang bao trùm tất cả các nền kinh tế trên thế giới, trừ một vài ngoại lệ (như Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên). 

Thứ nhất là mô hình KTTT tự do. KTTT trong khuôn khổ CNTB chủ yếu phát triển theo mô hình thị trường tự do, được thực hiện ở hầu hết các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Mô hình này đề cao vai trò của chế độ sở hữu tư nhân, của tự do cá nhân và cạnh tranh tự do. Trong mô hình KTTT tự do, sự can thiệp điều tiết của nhà nước vào các quá trình kinh tế được hạn chế ở mức thấp. Quá trình phát triển kinh tế chủ yếu do khu vực tư nhân vận hành dưới sự điều tiết của “bàn tay vô hình” (tức cơ chế cạnh tranh tự do). Đây là lý thuyết do nhà kinh tế học Adam Smith đưa ra từ năm 1776. Ông cho rằng, trong nền KTTT tự do, mỗi cá nhân theo đuổi một mối quan tâm và xu hướng lợi ích riêng cho cá nhân mình, và chính các hành động của những cá nhân này lại có xu hướng thúc đẩy nhiều hơn và củng cố lợi ích cho toàn cộng đồng thông qua một "bàn tay vô hình". Ông biện luận rằng, mỗi một cá nhân đều muốn thu lợi lớn nhất cho mình sẽ làm tối đa lợi ích của cả cộng đồng, điều này giống như việc cộng toàn bộ lợi ích của từng cá nhân lại.
Trong KTTT tự do thì chức năng chính của nhà nước là bảo vệ chế độ sở hữu tư nhân và các quyền tự do cá nhân, bảo đảm ổn định vĩ mô, tạo điều kiện để kinh tế tư nhân và cơ chế thị trường tự do vận hành thuận lợi nhất. Sự tham gia của nhà nước vào quá trình phân phối lại, vào hệ thống phúc lợi xã hội nhằm giảm tình trạng bất bình đẳng, tạo lập công bằng xã hội, ngăn chặn và xử lý các thất bại thị trường tuy vẫn được coi trọng nhưng không nhiều như ở các mô hình khác.
Người cổ vũ nhiệt thành cho quan điểm tự do hóa nền kinh tế một cách tối đa là nữ Thủ tướng Anh Margaret Thatcher. Vào những năm 80 của thế kỷ trước, bà đã đưa ra chủ trương loại bỏ một nhà nước vì phúc lợi xã hội, tức là đưa nền kinh tế vào quỹ đạo của một chủ nghĩa tự do mới và mang màu sắc bảo thủ của thế kỷ 19: Thị trường nhiều hơn, nhà nước ít can thiệp hơn. Hậu quả là mô hình này gây ra những tác động nghiêm trọng như tình trạng bất bình đẳng xã hội và tỷ lệ người nghèo tăng, chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục giảm, các thị trường tài chính quốc tế trở nên bất ổn hơn...       

Thả cho thị trường tự do, tự điều tiết, thiếu công cụ điều tiết phù hợp cũng dễ gây ra khủng hoảng kinh tế và khi có khủng hoảng thì rất khó giải quyết. Việc quá đề cao tự do cá nhân trong khi tính tự giác, ý thức của cá nhân chưa tốt sẽ tạo cơ hội cho sự ích kỷ cá nhân, ngăn cản những hành động chung của cộng đồng, nhất là trong những tình huống ngặt nghèo. Ví như dịch Covid-19 đã cho thấy những bất ổn trong cách thức vận hành xã hội phương Tây khi đối phó với dịch bệnh, thảm họa. Các cuộc khủng hoảng kinh tế, sự bất bình đẳng xã hội làm cho những nhà lãnh đạo cổ vũ một cách cực đoan cho KTTT tự do tại Mỹ và châu Âu vỡ mộng. Và hiện nay, các nước đều nhìn nhận ra vai trò thiết yếu của nhà nước trong việc điều hành nền kinh tế.
Thứ hai là mô hình KTTT-xã hội. Mô hình này được thực hiện thành công ở khá nhiều nước Tây-Bắc Âu, điển hình là Đức (quê hương của mô hình KTTT-xã hội), Thụy Điển, Na Uy và Phần Lan. Xét theo tính chất đặc trưng, mô hình này còn có mặt ở một số nước khác, như: Đan Mạch, Hà Lan, Pháp và Bỉ với những mức độ khác nhau.

Về nguyên tắc, mô hình KTTT-xã hội thừa nhận các yếu tố cơ bản phổ biến của KTTT. Tuy nhiên, so sánh với mô hình KTTT tự do, mô hình này có hai đặc trưng nổi bật: Một là, coi các mục tiêu xã hội và phát triển con người (công bằng xã hội, phúc lợi cho người nghèo và cho người lao động, quyền tự do phát triển của mọi người dân...) là mục tiêu của chính quá trình phát triển KTTT. Hai là, nhà nước dẫn dắt nền KTTT phát triển không chỉ nhằm mục tiêu tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mà cả mục tiêu phát triển và hiệu quả xã hội. Với những đặc trưng trên, tuy mô hình KTTT-xã hội là một biến thể của nền kinh tế TBCN, song nó phản ánh một xu thế tất yếu của sự phát triển. Đó là: Đến một trình độ phát triển nhất định, trong những điều kiện cụ thể, tự KTTT không thể giải quyết có hiệu quả tất cả các vấn đề phát triển, nhất là các mục tiêu phát triển xã hội và con người. Để đạt được điều đó, trong cơ chế vận hành của nền KTTT, cần có thêm “bánh lái” để định hướng “động cơ” thúc đẩy phát triển đi đúng quỹ đạo nhằm phục vụ tốt không chỉ nhiệm vụ tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mà cả nhiệm vụ phát triển xã hội và con người.
Việc triển khai mô hình KTTT-xã hội trên thực tế đã mang lại những kết quả phát triển tích cực, không chỉ ở một vài nước, tại một vài thời điểm riêng lẻ mà ở hàng loạt nước và kéo dài trong nhiều thập niên. Điều này xác nhận tính tất yếu của xu hướng phát triển mô hình KTTT-xã hội. Tính tất yếu đó cũng được thể hiện ở mô hình KTTT đang được triển khai ở Việt Nam và Trung Quốc.

Thứ ba là mô hình KTTT định hướng XHCN. Loại mô hình KTTT này đang được thực thi chỉ ở hai nước (Việt Nam-KTTT định hướng XHCN; Trung Quốc-KTTT XHCN) với thời gian khoảng 30-40 năm. Tuy vậy, các kết quả thực tế đã chứng tỏ đây là mô hình có sức sống mạnh mẽ và có triển vọng lịch sử to lớn. Sự ra đời của mô hình này gắn liền với sự sụp đổ của mô hình kinh tế tập trung bao cấp, vốn phủ nhận vai trò của KTTT trong quá trình phát triển ở các nước nghèo, lạc hậu tiến lên CNXH. Mô hình này đã chứng minh được tính hiệu quả, đồng thời, khẳng định tính tất yếu và phổ biến của KTTT với tư cách là một giai đoạn bắt buộc trong lịch sử phát triển của mọi nền kinh tế. Mô hình KTTT định hướng XHCN vẫn đang trong quá trình thử nghiệm, định hình cấu trúc và bản chất. Bản thân mô hình xây dựng KTTT của hai nước XHCN là Việt Nam và Trung Quốc cũng khác nhau.

Tại Trung Quốc, khung thể chế cơ bản của nền KTTT XHCN, bao gồm các yếu tố là: Nền KTTT XHCN mang tính đa dạng sở hữu, với các đặc trưng: 1) Chế độ kinh tế cơ bản lấy chế độ công hữu làm chủ thể và nhiều chế độ sở hữu khác cùng phát triển; 2) Hình thức cơ bản của chế độ công hữu là chế độ cổ phần. Người lao động tự chủ lựa chọn việc làm, thị trường điều tiết việc làm và chính phủ thúc đẩy việc làm. Nhà nước kiểm soát vĩ mô, chức năng quản lý kinh tế của chính phủ chủ yếu là phục vụ chủ thể thị trường và sáng tạo môi trường phát triển tốt đẹp. Phải dựa vào pháp luật để bảo vệ các quyền sở hữu tài sản, kiện toàn quy tắc giao dịch và chế độ giám sát quyền sở hữu tài sản. Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định muốn phát triển KTTT thì phải có kinh tế tư nhân, có chế độ sở hữu tư nhân. Nhưng để có nền kinh tế XHCN thì phải có kinh tế nhà nước và chế độ công hữu. Vì vậy, muốn có nền KTTT XHCN thì chế độ kinh tế cơ bản phải bao gồm chế độ công hữu và chế độ tư hữu (hay rộng hơn, kinh tế phi công hữu).
Thực tiễn phát triển và lý luận kinh điển của C.Mác đều khẳng định tính tất yếu và phổ biến của kinh tế hàng hóa hay KTTT trong quá trình phát triển của mọi quốc gia, dân tộc. Do vậy, đối với bất cứ quốc gia nào chưa trải qua KTTT, để giải quyết được vấn đề phát triển, trước hết phải phát triển KTTT theo đúng nghĩa; phải tạo điều kiện thuận lợi để nền kinh tế phát huy cao nhất năng lực phát triển của thị trường để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Chỉ trên cơ sở đó, xét theo mục tiêu chiến lược, mới thoát khỏi tình trạng lạc hậu, nhờ đó, có điều kiện vật chất và tinh thần để đáp ứng các mục tiêu xã hội và nhân văn.

Tuy nhiên, KTTT không phát triển theo một phương án duy nhất là phát triển thành kinh tế TBCN, cũng không theo một mô hình đơn nhất là thị trường tự do. Thực tiễn đã xác nhận những phương án và mô hình phát triển KTTT khác nhau mang tính đặc thù, phụ thuộc vào những điều kiện xác định, hoàn cảnh phát triển cụ thể của quốc gia-dân tộc. Một quốc gia đi sau không nhất thiết, và cũng không thể vận dụng cứng nhắc các nguyên lý; cũng không nhất thiết phải rập khuôn các mô hình KTTT có sẵn ở đâu đó, dù là mô hình hiệu quả, để giải quyết các vấn đề phát triển mang nhiều nét đặc thù của mình. Tại Việt Nam, xây dựng nền KTTT định hướng XHCN để giải quyết vấn đề phát triển trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Trong quá trình tiến hóa về mô hình của KTTT trên thế giới, các mô hình xuất hiện sau đều phản ánh một xu hướng chung trong sự phát triển của KTTT. Đó là, ngày càng nhấn mạnh các mục tiêu xã hội-con người; thừa nhận vai trò định hướng, tổ chức và điều tiết phát triển của nhà nước khi tính tự giác của xã hội chưa cao.

http://www.tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/bai-1-kinh-te-thi-truong-khong-phai-hang-doc-quyen-cua-chu-nghia-tu-ban-129098

XÂY DỰNG “THẾ TRẬN LÒNG DÂN” Ở KHU VỰC BIÊN GIỚI

 


Việt Nam có đường biên giới đất liền dài hơn 5.032 km, tiếp giáp với ba nước: Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và Vương quốc Cam-pu-chia; có bờ biển dài hơn 3.260 km, vùng biển rộng hơn 1 triệu km2; với 44 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 233 huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, 1.084 xã, phường, thị trấn có biên giới. 

Khu vực xã biên giới có khoảng 2,4 triệu hộ dân, với 9,8 triệu người đang sinh sống, địa hình đa dạng, phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, hạ tầng kinh tế - xã hội còn kém phát triển, đời sống của đồng bào các dân tộc còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao. Đồng bào các dân tộc vùng biên giới, hải đảo cần cù, chịu khó, đoàn kết, gắn bó, một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ, có nhiều cống hiến, hy sinh trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tích cực tham gia bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, góp phần xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển bền vững. 
Lịch sử đã khẳng định dân là chỗ dựa cơ bản, dân là tai mắt, là lực lượng tại chỗ cùng với các lực lượng đứng chân trên địa bàn tạo ra thế chiến lược, vừa xây dựng biên giới vững mạnh vừa bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc. Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới sẽ không thể hoàn thành nếu không dựa vào sức mạnh của “thế trận lòng dân”, “nếu biết dựa vào nhân dân thì việc gì cũng xong”. Những đóng góp của nhân dân các dân tộc ở biên giới trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước là rất to lớn, nhất là từ khi có Đảng lãnh đạo đã thể hiện rõ hình ảnh của “biên giới lòng dân” vững chắc.
Vì vậy, việc xây dựng “thế trận lòng dân” ở khu vực biên giới giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là nền tảng để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với thế trận quân sự, an ninh và đối ngoại tạo thành thế trận biên phòng toàn dân vững chắc, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng lần đầu tiên sử dụng cụm từ “thế trận lòng dân” và xác định: xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt. Để củng cố và tăng cường hơn nữa “thế trận lòng dân” đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng trong tình hình mới. Đại hội XI của Đảng tiếp tục chỉ rõ: Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Đại hội XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của khu vực biên giới, hải đảo, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành và tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, chính sách đặc thù nhằm hỗ trợ, phát triển vùng biên giới còn nhiều khó khăn, nhờ vậy, tình hình phát triển kinh tế - xã hội biên giới đã có nhiều chuyển biến tích cực, tăng trưởng kinh tế của các địa phương biên giới đạt tốc độ khá cao; hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước được đầu tư xây dựng; hoạt động thương mại biên giới tăng trưởng khá; các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác an sinh xã hội được quan tâm thực hiện tốt, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện và nâng cao; mối quan hệ Đảng, chính quyền với nhân dân và lực lượng vũ trang được tăng cường; chủ quyền biên giới, lãnh thổ quốc gia được giữ vững, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; quan hệ đối ngoại được mở rộng. Đó chính là cơ sở quan trọng để đồng bào đặt niềm tin vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới, tạo nền tảng xây dựng “thế trận lòng dân” trong thế trận biên phòng, bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới quốc gia.

Cùng với cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể, trong những năm qua, lực lượng Bộ đội Biên phòng luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, khắc phục mọi khó khăn, gắn bó máu thịt với đồng bào các dân tộc nơi biên giới, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Với phương châm “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt”, cán bộ, chiến sĩ biên phòng đã kiên trì thực hiện “ba bám” - bám đơn vị, bám địa bàn, bám chủ trương, chính sách, “bốn cùng” - cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc. Các phong trào thi đua yêu nước, các mô hình, chương trình tiêu biểu như: “Bộ đội Biên phòng chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Nâng bước em tới trường”, “Hãy làm sạch biển”, Chương trình “Đồng hành cùng phụ nữ biên cương”... đem lại kết quả cụ thể, thiết thực, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh; phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn biên giới, thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Hình ảnh người “Thầy thuốc quân hàm xanh”, “Thầy giáo quân hàm xanh”, cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng quên mình giúp dân trong phòng, chống lụt bão, cứu hộ, cứu nạn đã in đậm trong tâm trí nhân dân cả nước. Đặc biệt, trong thời gian vừa qua, cùng với các lực lượng chức năng, gần 7.000 cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng đã và đang ngủ lán, căng mình tại hơn 1.600 tổ, chốt biên giới để tăng cường tuần tra, kiểm soát, ngăn chặn xuất nhập cảnh trái phép; nhiều đơn vị đã chủ động nhường nơi ăn, chốn nghỉ, huy động lực lượng phục vụ, chăm sóc, bảo đảm điều kiện tốt nhất cho người nhập cảnh thực hiện cách ly, phòng, chống dịch Covid-19. Những việc làm đó đã góp phần củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và lực lượng vũ trang nhân dân, qua đó góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” đáp ứng yêu cầu sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, nhất là trong xu thế hội nhập đang đặt ra nhiều khó khăn thách thức đối với công tác xây dựng “thế trận lòng dân” ở khu vực biên giới, đó là: khoảng cách phát triển giữa vùng biên giới với các vùng khác trong cả nước có xu hướng gia tăng; các thế lực thù địch, phản động không ngừng lôi kéo, kích động, tăng cường hoạt động chống phá gây mất lòng tin của đồng bào đối với Đảng, chế độ, chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc; các hoạt động truyền đạo trái pháp luật, buôn lậu, gian lận thương mại, tội phạm ma túy, mua bán người qua biên giới... vẫn diễn biến rất phức tạp. Những thách thức nêu trên nếu không sớm được khắc phục sẽ làm giảm sức mạnh của “thế trận lòng dân” trong việc bảo vệ biên cương của Tổ quốc.

Để tiếp tục củng cố, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc ở khu vực biên giới, tạo nền tảng xây dựng thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh, thời gian tới, cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh khu vực biên giới, nhất là Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 28-9-2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Nghị quyết số 88-2019-QH14 của Quốc hội khóa XIV phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030. Kết hợp chặt chẽ chính sách phát triển kinh tế - xã hội gắn với giữ vững quốc phòng - an ninh, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo môi trường thuận lợi, ổn định dân cư lâu dài ở khu vực biên giới. Đây là nhân tố có tính chất quyết định trong việc xây dựng “thế trận lòng dân”, là mục tiêu của cách mạng, là động lực thúc đẩy sức mạnh của toàn dân.

Hai là, tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh cho toàn dân, trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên, các tổ chức đoàn thể và nhân dân các dân tộc trên địa bàn biên giới. Làm tốt công tác tuyên truyền để mọi người dân không chỉ nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, mà còn hiểu rõ, hiểu đúng tình hình thực tế, bản chất của các vấn đề nhạy cảm, phức tạp đang diễn ra, những thách thức về an ninh phi truyền thống khu vực biên giới, vạch rõ các quan điểm sai trái, luận điệu phản động, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch nhằm tạo nên sự đồng thuận “ý Đảng, lòng dân”. Trên cơ sở đó, mỗi người dân nhận thức đúng quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh ở địa phương, nâng cao cảnh giác cách mạng, tỉnh táo trước các thủ đoạn chống phá của kẻ xấu, tự giác tham gia cùng các cấp, các ngành, các lực lượng thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ biên giới quốc gia.

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Để xây dựng “thế trận lòng dân” ở khu vực biên giới thì trước hết phải xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, nhất là hệ thống chính trị ở cơ sở thật sự trong sạch, vững mạnh. Các cấp ủy đảng, chính quyền, đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng cường đối thoại, kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc của người dân với tinh thần “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Chú ý đẩy mạnh phong trào thi đua nhằm phát hiện, khen thưởng các điển hình tiên tiến về xây dựng “thế trận lòng dân” và nhân rộng trong toàn xã hội.  Thực tiễn đất nước qua gần 35 năm đổi mới, đặc biệt là những kết quả quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng; phòng, chống dịch Covid-19 vừa qua là minh chứng rõ nhất để không ngừng củng cố và tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. 

Bốn là, đổi mới toàn diện, đồng bộ các mặt công tác biên phòng, thường xuyên và chủ động nắm chắc tình hình, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống; đấu tranh khôn khéo, kiên quyết và có hiệu quả đối với tội phạm và các đối tượng vi phạm pháp luật, giữ vững ổn định chính trị, giữ gìn an ninh khu vực biên giới. Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác vận động quần chúng nhằm tăng cường đoàn kết quân dân ở khu vực biên giới trong tình hình mới. Bộ đội Biên phòng phải ra sức phấn đấu làm tròn vai trò nòng cốt trong xây dựng nền Biên phòng toàn dân; đồng thời có nhiều hình thức, phương pháp tiến hành công tác xây dựng khối đoàn kết quân dân; tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực biên giới, nhất là việc tuyên truyền, vận động, giáo dục hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, mỗi cán bộ, chiến sĩ phải thực hiện tốt phương châm: thận trọng, kiên nhẫn, kiên quyết, hiểu phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội của địa phương để nghe được dân nói, nói cho dân hiểu. Coi trọng “lời nói đi đôi với việc làm”, “làm trước, nói sau”, làm đến đâu, chắc đến đó, lấy hiệu quả công tác làm tiêu chí đánh giá hoàn thành nhiệm vụ của bộ đội trên từng cương vị được giao. Đồng thời bộ đội phải luôn có thái độ và ý thức chấp hành nghiêm túc 12 điều kỷ luật trong quan hệ quân dân; rèn luyện ý thức tự giác, tính độc lập tự chủ, nhất là trong điều kiện công tác xa đơn vị; tôn trọng, lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân dân; xây dựng đạo đức, lối sống giản dị, khiêm tốn, tâm huyết, trách nhiệm, nhiệt tình trong công việc tạo nên tình đoàn kết quân dân bền chặt, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia.

Nhân dịp Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng lần thứ 15 (nhiệm kỳ 2020 - 2025), chúc Bộ đội Biên phòng nói riêng và Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung luôn vượt qua mọi khó khăn và giành thắng lợi trên mọi nhiệm vụ mà nhân dân, Đảng, Nhà nước tin tưởng giao phó.

http://www.tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/xay-dung-the-tran-long-dan-o-khu-vuc-bien-gioi-129130

BÀI 2: NỀN KINH TẾ VIỆT NAM ĐANG ĐI ĐÚNG HƯỚNG (TIẾP THEO VÀ HẾT)

 


QĐND - Hiện nay, các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc, bóp méo, cho rằng nền kinh tế thị trường (KTTT) tại Việt Nam là một mô hình méo mó, “không giống ai”, đang thủ tiêu cạnh tranh khi Nhà nước vẫn o bế cho doanh nghiệp nhà nước, ngăn cản sự phát triển của kinh tế tư nhân (KTTN). Họ còn cho rằng khi xây dựng KTTT, Việt Nam thực chất đã chệch hướng, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Thực tế xây dựng đất nước trong gần 35 năm đổi mới vừa qua và định hướng trong thời gian tới đã vạch trần những sự xuyên tạc, những nhận thức sai lầm nói trên.

Không hề có chuyện nợ định nghĩa

Đầu tiên cần phải giải thích cho một số ý kiến gần đây nêu ra: “Nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam” là nền KTTT như thế nào? Liệu có hay không việc chưa có định nghĩa, nợ định nghĩa về KTTT định hướng XHCN?

Về vấn đề này, trong nhiều năm qua, Đảng ta liên tục hoàn thiện nhận thức về KTTT định hướng XHCN. Mới nhất, tại Nghị quyết số 11-NQ/TW về hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã nêu rõ: Nền KTTT định hướng XHCN mà nước ta xây dựng là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; là nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước (KTNN) giữ vai trò chủ đạo, KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của KTNN. KTNN, kinh tế tập thể cùng với KTTN là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển theo pháp luật.

Như vậy là định nghĩa đã khá rõ ràng, khá cụ thể, chứ không có chuyện mù mờ trong định nghĩa hay còn nợ định nghĩa. Tuy nhiên, KTTT định hướng XHCN là một mô hình mới, chưa có tiền lệ nên ngay trong Nghị quyết số 11-NQ/TW, Đảng ta xác định cần phải “vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm để tiếp tục hoàn thiện”.

Nền kinh tế hội nhập, hiệu quả cao

Thực tế cho thấy, việc phát triển KTTT định hướng XHCN tại Việt Nam đã mang lại hiệu quả cao. Qua gần 35 năm đổi mới, đất nước ta đã phát triển nhanh chóng. Từ chỗ nghèo nàn, lạc hậu do hậu quả của thời kỳ là thuộc địa, nông nghiệp lúa nước là chủ đạo, bị chiến tranh tàn phá mấy chục năm và một phần do những sai lầm của cơ chế quản lý kinh tế tập trung, bao cấp, hiện nay kinh tế nước ta đã vươn lên thành một trong những nền kinh tế năng động hàng đầu khu vực, có độ mở lớn hàng đầu thế giới và cũng có tốc độ tăng trưởng nhanh hàng đầu thế giới. Đáng chú ý là ngay cả khi kinh tế thế giới gặp khó khăn, thậm chí suy thoái, thì kinh tế Việt Nam vẫn nằm trong tốp những nước tăng trưởng tốt nhất. Trong hai năm 2018, 2019, mặc dù kinh tế thế giới bị ảnh hưởng nặng nề do căng thẳng thương mại Mỹ-Trung Quốc nhưng kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng hơn 7%. Cũng vì thế, Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra nhận định: “Mây đen phủ lên toàn cầu nhưng mặt trời vẫn đang tỏa sáng ở Việt Nam”. Hiện nay, khi kinh tế toàn cầu chao đảo vì Covid-19, các nền kinh tế nhìn chung đều suy thoái, tăng trưởng âm thì WB vẫn lạc quan dự báo kinh tế Việt Nam sẽ có tốc độ tăng trưởng đứng thứ 5 trên thế giới trong năm 2020 (tăng trưởng khoảng 2,8%) và có thể lên mức 6,8% trong năm 2021.

Nhờ những định hướng đúng đắn, sự chủ động, linh hoạt trong điều hành mà cơ hội phát triển cho nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới là rất lớn. Việt Nam đã tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, tham gia 13 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có những FTA thế hệ mới rất chất lượng với các khối kinh tế mạnh (các hiệp định CPTPP, EVFTA), nên thị trường của nền kinh tế Việt Nam được mở ra rất rộng lớn. Cả Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) đều coi Việt Nam là đối tác thương mại rất quan trọng ở châu Á-Thái Bình Dương. Các nhà đầu tư quốc tế đều thấy rằng Việt Nam là thị trường mới nổi hấp dẫn hàng đầu, là cánh cửa để vào nhiều thị trường lớn. Do đó, đang có một xu hướng dịch chuyển đầu tư quốc tế tới Việt Nam. Cũng vì sức đề kháng của nền kinh tế đã tốt hơn trước nhiều nên nhìn chung việc tham gia các FTA của Việt Nam đều đạt được hiệu quả tốt.

Tiếp thu tất cả thành tựu của kinh tế thị trường

Ý kiến cho rằng nền KTTT của Việt Nam không tôn trọng và không áp dụng các tính chất, quy luật khách quan của KTTT là ý kiến hoàn toàn sai lầm. Bởi tại Nghị quyết số 11-NQ/TW, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã khẳng định: “Hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN là quá trình phát triển liên tục; kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển KTTT của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta. Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của KTTT, thông lệ quốc tế, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước trong từng giai đoạn”.

Theo công bố của Chính phủ, vào tháng 2-2020, đã có 71 nước công nhận Việt Nam là một nền KTTT. Đây là minh chứng cho thấy, nền KTTT định hướng XHCN mà Việt Nam đang xây dựng là theo thông lệ quốc tế. Trong các quy luật KTTT mà Việt Nam tiếp thu có các quy luật về cạnh tranh, về lợi nhuận. Để bảo đảm có một môi trường cạnh tranh công bằng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XII của Đảng, Trung ương Đảng đã thông qua đồng thời 3 nghị quyết. Đó là, cùng với việc có Nghị quyết số 11-NQ/TW về hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 10-NQ/TW về phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN, Nghị quyết số 12-NQ/TW về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. 3 nghị quyết này đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng về việc xây dựng một nền KTTT mang tính cạnh tranh cao, cạnh tranh công bằng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp tư nhân được khuyến khích phát triển, được sản xuất, kinh doanh ở tất cả lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Đồng thời, doanh nghiệp nhà nước được định hướng hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Doanh nghiệp nhà nước được xác định “là một lực lượng vật chất quan trọng của KTNN, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”.

Chúng ta có thể thấy hiện nay các doanh nghiệp tư nhân phát triển rất nhanh, trở thành các tập đoàn kinh tế có nguồn lực mạnh, như: Vingroup, Sun Group, Vietjet Air, THACO Trường Hải, Hòa Phát, FPT... Nhà nước rất khuyến khích sự phát triển lành mạnh, đúng pháp luật của các doanh nghiệp tư nhân. Tại hội nghị Chính phủ với các địa phương ngày 30-12-2019, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng rút ra các bài học để kinh tế Việt Nam phát triển tốt trong thời gian qua, một trong số đó chính là: “Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho KTTN phát triển, thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế, cùng với KTNN và kinh tế tập thể trở thành lực lượng nòng cốt để nâng cao năng lực nội sinh, tính tự chủ của nền kinh tế và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”.

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trong phiên trả lời chất vấn tại Quốc hội ngày 8-11-2019 đã nhấn mạnh rằng: “Chúng ta không phân biệt KTTN, mà bình đẳng các thành phần kinh tế trong nền KTTT định hướng XHCN. Chính phủ yêu cầu các cấp, các ngành thực hiện tốt nghị quyết của Đảng về phát triển KTTN trong thời gian tới”. Lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã nhiều lần tổ chức các cuộc gặp đối với các doanh nghiệp tư nhân để lắng nghe ý kiến, nguyện vọng, từ đó áp dụng ngay các chính sách phù hợp để thúc đẩy sự phát triển của KTTN. Việc không phân biệt KTTN còn thể hiện ở chỗ lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã có chủ trương tặng thưởng huân chương đối với các lãnh đạo doanh nghiệp tư nhân có nhiều đóng góp tích cực; ví dụ như doanh nhân Đỗ Quang Hiển, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn T&T đã được trao Huân chương Lao động hạng Nhất.

Như vậy, trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay hoàn toàn không có sự kỳ thị, ngăn trở KTTN, mà ngược lại Đảng, Nhà nước ta còn đang khuyến khích KTTN phát triển, khuyến khích người dân làm giàu chính đáng, ích nước, lợi nhà. Theo công bố của Tạp chí Forbes ngày 7-4-2020, Việt Nam có 4 tỷ phú lọt vào danh sách các tỷ phú của thế giới, đó là: Ông Phạm Nhật Vượng, Chủ tịch Vingroup, với tài sản 5,6 tỷ USD, đứng thứ 286 trên bảng xếp hạng; bà Nguyễn Thị Phương Thảo, Tổng giám đốc Vietjet Air, cổ đông sáng lập Sovico Holdings, với tài sản 2,1 tỷ USD; ông Trần Bá Dương, Chủ tịch THACO Trường Hải, với tài sản 1,5 tỷ USD và ông Hồ Hùng Anh, Chủ tịch Techcombank, với tài sản 1 tỷ USD. Ngoài những người được vào danh sách tỷ phú của thế giới, các doanh nhân Việt Nam thành đạt, giàu có ngày càng nhiều, đời sống xã hội đi lên. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung năm 2011) nêu rõ 8 đặc trưng, trong đó đặc trưng số 1 của xã hội XHCN là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Như thế, làm sao để “dân giàu” là một trong những mục tiêu hàng đầu của đất nước ta, của việc xây dựng nền KTTT định hướng XHCN.

Luôn bám sát định hướng XHCN

Tuy nhiên, việc phát triển nền KTTT tại Việt Nam phải mang định hướng XHCN để xây dựng CNXH, chứ đây không phải là một nền KTTT theo kiểu tư bản, để xây dựng chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong nền KTTT mà chúng ta đang xây dựng, thì “định hướng xã hội chủ nghĩa” của nền kinh tế được nhất quán xác lập và tăng cường thông qua sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, lấy con người làm trung tâm, vì mọi người và do con người; phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, nền kinh tế của Việt Nam đã khắc phục được rất nhiều hạn chế của KTTT tự do. Kết quả phòng, chống dịch Covid-19 đã cho thấy rõ hiệu quả định hướng, điều hành của Nhà nước ta trong nền kinh tế-xã hội so với nhiều quốc gia khác.

Nền KTTT định hướng XHCN của Việt Nam là một nền kinh tế thượng tôn pháp luật. Những doanh nhân làm ăn đúng pháp luật, có nhiều người rất thành đạt như đã nêu ở trên. Nhưng những doanh nhân vi phạm pháp luật như Phạm Nhật Vũ (cựu Chủ tịch HĐQT AVG), Trầm Bê (cựu Phó chủ tịch HĐQT Sacombank)... những "đại ca" xã hội đen núp bóng doanh nhân như Đường "Nhuệ" ở Thái Bình đều bị xử lý nghiêm. Định hướng XHCN sẽ phải luôn bài trừ những biểu hiện sai phạm pháp luật và xã hội đen trong nền KTTT.

Hiện nay, nước ta không chỉ quan tâm đến tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn rất coi trọng chất lượng tăng trưởng, tăng trưởng theo chiều sâu, tăng trưởng bền vững. Động lực tăng trưởng kinh tế dần chuyển từ việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản thô sang các lĩnh vực kinh tế chất xám. Việt Nam đang đẩy mạnh theo hướng chọn lọc kỹ càng, chỉ đồng ý với những nhà đầu tư có công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, quan tâm tới người lao động, còn doanh nghiệp có công nghệ lạc hậu, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường sẽ dần bị thải loại. Đó chính là tính chất của một nền KTTT định hướng XHCN, hướng tới tính bền vững, chứ không vì lợi nhuận trước mắt.

Hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN là nhiệm vụ quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị. Chúng ta đang xây dựng một nền KTTT tiếp thu tinh hoa của nhân loại, nhưng mang đậm bản sắc chính trị, văn hóa của Việt Nam, phù hợp với Việt Nam. Do vậy, không lạ lẫm khi nền KTTT mà chúng ta đang xây dựng không hoàn toàn giống nền KTTT của bất kỳ nước nào. Nền kinh tế của chúng ta vẫn còn những mặt hạn chế cần sớm khắc phục. Tuy nhiên, với những thành tựu đã đạt được và những triển vọng đang mở ra, có thể khẳng định việc Việt Nam xây dựng nền KTTT định hướng XHCN là hoàn toàn đúng đắn trên con đường đi lên CNXH.

https://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/cong-cu-den-trong-tay-nhung-lai-buon-luong-tam-629107

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...