Ngày 25/02/2010, Bộ
Chính trị khóa X đã ban hành Quyết định số 290-QĐ/TW về Quy chế Công tác dân
vận của hệ thống chính trị (Quyết định số 290). Sau 10 năm thực hiện đã khẳng
định được ý nghĩa và tầm quan trọng của Quy chế. Trước yêu cầu, nhiệm vụ của
tình hình mới, toàn quân tiếp tục quán triệt, thực hiện Quy chế, nâng cao hiệu
quả công tác dân vận của Quân đội.
Ngay sau khi Bộ Chính trị ban hành Quyết định
số 290, Tổng cục Chính trị đã tham mưu với Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là
Quân ủy Trung ương) lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn cấp ủy các cấp trong toàn quân
tổ chức quán triệt, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhận thức sâu
sắc, đầy đủ về Quy chế này. Đồng thời, ban hành Quyết định số 03-QĐ/ĐU, ngày
04/01/2011 về “Quy chế Công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam” và
nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác dân vận trong Quân đội. Cùng
với đó, phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, người chỉ
huy, chính ủy, chính trị viên, cơ quan chính trị các cấp và các tổ chức quần
chúng, Hội đồng quân nhân trong các cơ quan, đơn vị để tiến hành công tác dân
vận. Sau 10 năm thực hiện Quy chế, công tác dân vận trong Quân đội đã đạt được
nhiều kết quả quan trọng, có chuyển biến tích cực, rõ nét.
Người đứng đầu cấp ủy đảng nhận rõ trách
nhiệm, phát huy vai trò, năng lực trong lãnh đạo; phân công cấp ủy viên phụ
trách công tác dân vận ở tất cả các cấp. Nội dung công tác dân vận và trách
nhiệm thực hiện công tác dân vận của các cấp ủy đảng được xác định rõ, gắn với
nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị, thể hiện bằng nghị quyết lãnh đạo
chuyên đề, nghị quyết lãnh đạo thường kỳ, quy chế công tác dân vận của cấp ủy
và các chương trình, kế hoạch thực hiện nghị quyết lãnh đạo hằng năm, từng giai
đoạn, tiến hành kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện.
Chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy và cơ
quan chính trị các cấp đã ý thức rõ vai trò, trách nhiệm trong xây dựng kế
hoạch, tổ chức thực hiện công tác dân vận ở cơ quan, đơn vị. Đẩy mạnh cải cách hành
chính quân sự, phát huy dân chủ ở cơ sở, giải quyết kịp thời khó khăn, tháo gỡ
vướng mắc từ cơ sở; thực hiện nghiêm túc, nền nếp, có hiệu quả công tác dân
vận, nhất là khi tiếp công dân. Đổi mới tác phong, phương pháp công tác, tạo
môi trường làm việc dân chủ, thân thiện, đoàn kết; xây dựng cơ quan, đơn vị có
môi trường văn hóa tốt, đẹp, lành mạnh, phong phú, văn minh, chính quy, cảnh
quan xanh, sạch, đẹp, là “điểm sáng” văn hóa trên địa bàn đóng quân.
Các tổ chức quần chúng, Hội đồng quân nhân
luôn chủ động, tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tập hợp đoàn
viên, hội viên tạo sức mạnh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn
vị. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội, góp phần tích cực trong công
tác xây dựng Đảng, nâng cao hiệu lực của người chỉ huy các cấp. Thường xuyên
phối hợp với tổ chức đoàn thể địa phương thực hiện các phong trào, cuộc vận
động, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, góp phần giữ vững an ninh chính
trị, trật tự, an toàn xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh trên từng địa bàn.
|
|
|
Người dân Bản Mu Chi, xã Pa Hủ được Bộ đội Biên phòng
hướng dẫn trồng cỏ voi tạo nguồn thức ăn chăn nuôi bò. Ảnh: TTXVN |
Đến nay, công tác dân vận của Quân đội đã đạt
được nhiều kết quả quan trọng. Với phương châm hướng mạnh về cơ sở, đa dạng hóa
nội dung, hình thức tiến hành dân vận, đã xuất hiện nhiều mô hình hay, cách làm
hiệu quả, làm lan tỏa phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong xã hội. Các cơ quan, đơn
vị trong toàn quân luôn thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân
chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, tạo sự đồng thuận xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tham
gia có hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, phối hợp với địa phương thực hiện
các chương trình, mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn
mới, đô thị văn minh. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với tăng cường quốc
phòng, an ninh. Tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở; phối hợp
với cấp ủy, chính quyền địa phương tham gia xử lý có hiệu quả những vụ việc
phức tạp, “điểm nóng”, góp phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã
hội trên địa bàn cả nước. Thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua, cuộc
vận động, xây dựng các mô hình, điển hình “Dân vận khéo” trên các lĩnh vực.
Quân đội thực hiện tốt chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội
quân lao động, sản xuất, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; là lực lượng nòng
cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, “thế trận lòng dân” vững
chắc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Bên cạnh những kết quả trên, việc thực hiện
Quy chế và công tác dân vận trong Quân đội thời gian qua, còn hạn chế,
thiếu sót. Việc quán triệt, thực hiện các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo
của trên ở một số cơ quan, đơn vị có nội dung thiếu cụ thể. Nội dung, hình thức
tiến hành công tác dân vận của một số đơn vị chậm được đổi mới. Kiến thức, kinh
nghiệm, phương pháp tác phong công tác của một số cán bộ, chiến sĩ trong tiến hành
công tác dân vận có mặt còn hạn chế, nhất là kiến thức về kinh tế, văn hóa, xã
hội, pháp luật, dân tộc, tôn giáo, phong tục tập quán và tiếng của dân tộc
thiểu số; còn cán bộ, chiến sĩ vi phạm kỷ luật khi làm công tác dân vận.
Những năm tới, hòa bình, hợp tác và phát triển
vẫn là xu thế chủ đạo, song tình hình thế giới có nhiều diễn biến nhanh chóng,
phức tạp, khó dự báo. Trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy
tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, đất nước phải đối
mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là khi nước ta hội nhập sâu rộng hơn;
tình hình Biển Đông, vùng biển Tây Nam và một số địa bàn chiến lược tiềm ẩn
nhân tố gây mất ổn định. Đời sống của một bộ phận nhân dân và lực lượng vũ trang
còn khó khăn. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn
biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ; lợi dụng vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân
chủ”, “nhân quyền”,… để kích động ly khai, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội với những thủ đoạn công
khai, trực diện hơn. Quân đội tiếp tục được đầu tư xây dựng, nâng cao sức mạnh
tổng hợp. Việc điều chỉnh tổ chức lực lượng tinh, gọn, mạnh đặt ra yêu cầu mới
đối với thực hiện nhiệm vụ và xây dựng Quân đội.
Trước tình hình đó, để tiếp tục nâng cao chất
lượng, hiệu quả thực hiện Quy chế Công tác dân vận của hệ thống chính trị, Quy
chế và công tác dân vận của Quân đội, cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chính trị các
cấp tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:
1. Thường xuyên giáo dục, tuyên truyền nâng cao
nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ, dân quân tự vệ về Quy chế Công tác
dân vận của hệ thống chính trị và công tác dân vận trong tình hình mới. Tiếp tục quán triệt sâu sắc Quyết định
số 290 của Bộ Chính trị và các văn bản của Đảng về công tác dân vận, nhất là
Nghị quyết số 25-QĐ/TW, ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XI, Nghị quyết số 49-NQ/QUTW, ngày 26/01/2015 của Quân ủy Trung ương, v.v. Qua
đó làm chuyển biến sâu sắc về nhận thức và hành động của cấp ủy, chỉ huy các
cấp và cán bộ, chiến sĩ về thực hiện Quy chế trong tiến hành công tác dân vận;
coi việc tiến hành công tác dân vận vừa là tình cảm vừa là trách nhiệm chính
trị của mỗi quân nhân. Chủ động đấu tranh, phản bác thông tin sai trái, bịa đặt
của các thế lực thù địch nhằm chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ
giữa Đảng, Nhà nước, Quân đội với Nhân dân.
2. Tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức đảng, trách
nhiệm của chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp
trong thực hiện Quy chế và công tác dân vận. Các cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo, chỉ đạo,
thường xuyên rà soát, điều chỉnh, bổ sung Quy chế Công tác dân vận bảo đảm phù
hợp với tình hình thực tiễn cơ quan, đơn vị. Xây dựng kế hoạch, hướng dẫn thực
hiện chặt chẽ, hiệu quả; huy động sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng
trong và ngoài Quân đội. Cơ quan chính trị và cán bộ chính trị các cấp làm tốt
vai trò tham mưu chỉ đạo, hướng dẫn, theo dõi tổ chức thực hiện nhiệm vụ công
tác dân vận của cơ quan, đơn vị; chỉ đạo các tổ chức quần chúng đổi mới nội
dung, hình thức hoạt động, phối hợp thực hiện hiệu quả các phong trào thi đua,
cuộc vận động của cơ quan, đơn vị và địa phương.
Cùng với đó, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc,
chấn chỉnh khắc phục những tồn tại, hạn chế; tiến hành sơ kết, tổng kết, rút
kinh nghiệm, xây dựng và nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến; kịp thời
biểu dương, khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện
Quy chế và công tác dân vận, kiên quyết xử lý những trường hợp vi phạm kỷ luật
công tác dân vận.
3. Tích cực đổi mới nội dung, đa dạng hình thức
phù hợp với tình hình thực tiễn, hướng mạnh về cơ sở. Trên cơ sở nội dung hoạt động công tác dân vận,
các cơ quan, đơn vị thường xuyên nắm chắc tình hình, xác định nội dung tiến
hành phù hợp với thực tiễn. Thực hiện có hiệu quả các hình thức công tác dân
vận, nhất là hình thức kết nghĩa, hành quân dã ngoại làm công tác dân vận, tổ,
đội công tác dân vận, cử cán bộ Bộ đội Biên phòng tăng cường cho cơ sở, v.v.
Tiếp tục thực hiện các chương trình phối hợp hoạt động với các ban, ngành, các
tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương và địa phương. Đẩy mạnh vận động các tổ
chức, cá nhân, doanh nghiệp trong và ngoài nước, phát huy vai trò của chức sắc,
chức việc, già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng để tiến hành
công tác dân vận.
Thực hiện tốt công tác dân vận trong xây dựng
các khu kinh tế - quốc phòng, địa bàn chiến lược, trọng điểm. Tích cực nghiên
cứu, giải quyết các vấn đề mới nảy sinh, nhất là địa bàn biên giới,
biển, đảo, các trung tâm đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số, vùng đồng bào tôn giáo và những vấn đề liên quan đến tranh
chấp đất đai, đền bù, giải tỏa, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh,… hoạt động của
các tổ chức bất hợp pháp, các đối tượng phản động, cơ hội chính trị và những
hiện tượng không lành mạnh của tín ngưỡng, tôn giáo. Phát huy tốt vai trò,
trách nhiệm của các cơ quan chức năng, các lực lượng, nâng cao hiệu quả các
hình thức tuyên truyền trong quá trình vận động nhân dân. Đa dạng hóa các hình
thức vận động nhân dân vùng biên giới và nhân dân các nước láng giềng, góp phần
hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị,
hợp tác cùng phát triển.
4. Chủ động nâng cao hiệu quả công tác tham mưu,
phối hợp với cấp ủy, chính quyền và các ban, ngành, đoàn thể ở Trung ương, địa
phương tạo sức mạnh tổng hợp trong tiến hành công tác dân vận. Trên từng địa bàn, các đơn vị phát huy tốt vai
trò phối hợp tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo
tiến hành hiệu quả công tác dân vận; thực hiện nghiêm túc Quy chế Công tác dân
vận của hệ thống chính trị, cơ chế lãnh đạo, phối hợp hoạt động trong tiến hành
công tác dân vận. Thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế hoạch ký kết giữa
cơ quan, đơn vị với các tổ chức ở địa phương. Thường xuyên nắm chắc tình tình,
chủ động xây dựng, bổ sung kế hoạch, phương án phối hợp xử trí tình huống, đặc
biệt khi xảy ra tình hình phức tạp, không để lan rộng, kéo dài.
Các tổ chức quần chúng phối hợp chặt chẽ với
đoàn thể địa phương, đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp nhân dân thực
hiện các phong trào thi đua, cuộc vận động, gắn phát triển kinh tế - xã hội với
tăng cường quốc phòng, an ninh. Xây dựng đơn vị an toàn gắn với địa bàn an
toàn.
5. Phát huy dân chủ rộng rãi; đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động của các tổ chức quần chúng và Hội đồng quân nhân, tạo sự
đoàn kết, thống nhất cao trong thực hiện nhiệm vụ. Duy trì nền nếp đối thoại của cấp ủy, chỉ huy
với cán bộ, chiến sĩ; lắng nghe, tiếp thu các ý kiến đóng góp của quần chúng
trong cơ quan, đơn vị; những vấn đề còn chưa thống nhất cần phản ánh, kịp thời
phúc đáp, giải trình tạo sự đoàn kết, thống nhất cao trong nội bộ, góp phần
nâng cao năng lực lãnh đạo, hiệu quả điều hành của cấp ủy, chỉ huy các cấp.
Tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động của các tổ chức quần chúng và Hội đồng quân nhân, bảo đảm sát thực, phù
hợp với thực tiễn. Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức quần chúng, đoàn thể địa
phương trong tiến hành công tác dân vận. Đa dạng hóa các hình thức vận động
đoàn viên, hội viên và nhân dân, quan tâm xây dựng lực lượng nòng cốt, nhất là
ở địa bàn trọng điểm. Phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội, hiến kế
của các tổ chức quần chúng trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy chế, quy định của cấp ủy, chỉ huy;
tích cực thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị.
6. Thường xuyên quan tâm xây dựng, củng cố tổ
chức cơ quan, đội ngũ cán bộ dân vận, bồi dưỡng nâng cao nhận thức, năng lực
công tác dân vận cho cán bộ, đảng viên; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tập
trung xây dựng cơ quan dân vận, cán bộ dân vận đảm bảo số lượng, chất lượng;
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân vận có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo
đức trong sáng, kiến thức, kinh nghiệm tiến hành công tác dân vận. Chủ động cập
nhật những nội dung mới, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ, kỹ năng xử lý
các tình huống cho cán bộ, chiến sĩ trực tiếp làm công tác dân vận. Chống biểu
hiện chủ quan, xem nhẹ công tác dân vận. Khắc phục hiện tượng đưa cán bộ dôi
dư, phẩm chất, năng lực yếu và không có uy tín về làm công tác dân vận. Quán
triệt, thực hiện phong cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân và có trách nhiệm với
dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Đẩy mạnh phong trào thi đua
“Văn hóa công sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam”. Phối hợp chặt chẽ với cấp
ủy, chính quyền địa phương phát hiện, bồi dưỡng kỹ năng vận động quần chúng cho
lực lượng cốt cán, những người có uy tín trong cộng đồng dân cư để không ngừng
nâng cao hiệu quả công tác dân vận.
Các học viện, nhà trường nghiên cứu, bổ sung
nội dung, chương trình đào tạo về công tác dân vận, công tác tuyên truyền đặc
biệt, công tác dân tộc, tôn giáo đưa vào giảng dạy cho các đối tượng. Tiếp tục
nghiên cứu những vấn đề về chế độ, chính sách và kinh phí bảo đảm cho công tác
dân vận đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình mới mới.
Dân vận và công tác dân vận là nhiệm vụ
có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước
ta; là điều kiện quan trọng đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng và
củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với
Nhân dân. Công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ
phận công tác dân vận của Đảng; một mặt hoạt động của công tác
chính trị trong Quân đội; là nhiệm vụ chính trị thường xuyên của cấp
ủy, chỉ huy các cấp, các cơ quan, đơn vị và mọi quân nhân, công nhân,
viên chức, lao động quốc phòng. Vì vậy, toàn quân tiếp tục quán triệt, xác
định rõ trách nhiệm và thực hiện có hiệu quả Quy chế Công tác dân vận của hệ
thống chính trị, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của Quân đội lên một tầm
cao mới.
Thượng tướng TRẦN
QUANG PHƯƠNG, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục
Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét