Thứ Hai, 7 tháng 10, 2019

SỰ THẬT VỀ ĐẠI HỘI GIỚI TRẺ THẾ GIỚI VÌ NHÂN QUYỀN VIỆT NAM




Cuối tháng 8-2019, nhiều trang mạng xã hội, blog hải ngoại cùng sự “hà hơi tiếp sức” của nhiều trang truyền thông của các tổ chức, cá nhân thù địch với Việt Nam truyền đi thông tin cái gọi là thông cáo báo chí về “Đại hội giới trẻ thế giới vì nhân quyền Việt Nam lần 2” được tổ chức vào tháng 4-2020 tại Nhật Bản. Vậy, thực chất đây là tổ chức gì và sự thật đằng sau Đại hội giới trẻ thế giới vì nhân quyền là gì?

Người đứng đầu phong trào Giới trẻ vì nhân quyền - luật sư Trần Kiều Ngọc là ai?
Trần Kiều Ngọc hay Teresa Trần Kiều Ngọc là người gốc Việt, hiện đang sinh sống và hành nghề luật sư tại Tiểu bang Nam Australia. Theo thông tin trên trang Đại hội giới trẻ thế giới vì nhân quyền, Trần Kiều Ngọc có cha là trưởng toán biệt kích chế độ cũ, sau năm 1975 vượt biên và định cư tại Australia. 
Sau khi tốt nghiệp tại đây, Trần Kiều Ngọc về nước và kết hợp với nhiều chức sắc tôn giáo tổ chức các hoạt động xã hội, nhất là những người bị bệnh phong đang điều trị tại các trung tâm, làng phong, cùi ở Việt Nam. Lưu giữ và mang trong mình tâm lý hằn học của gia đình vượt biên để tháo chạy khỏi quê hương, xứ sở; mang trong mình thái độ chống phá với chế độ XHCN, “tế thủy trường lưu” cùng năm tháng về Việt Nam kết nối với một số linh mục dòng Chúa cứu thế đã hình thành tư tưởng chống đối quyết liệt hơn. 
Sau này quay trở lại Australia, tháng 5-2016, Trần Kiều Ngọc sáng lập ra phong trào Giới trẻ thế giới vì nhân quyền (có văn phòng đại diện tại Sydney – Australia) và hiện nay là người đứng đầu của phong trào này. Tại Đại hội giới trẻ thế giới vì nhân quyền lần 1 với chủ đề “Việt Nam con đường nhân bản”, Trần Kiều Ngọc ngông nghênh ra cái gọi là “tuyên cáo” để xuyên tạc, vu cáo thể chế chính trị và tình hình Việt Nam. 
Thật trơ tráo và nực cười hết mức, sau khi viết những lời hằn học, cô ta quy kết và kêu gọi giới trẻ: “Còn Cộng sản thì nhân quyền bị mất, đất nước, biển đảo ngày càng bị mất và rơi vào tay của ngoại bang; vì thế chúng tôi đại diện cho các bạn trẻ Việt Nam từ Úc châu, Mỹ châu, Âu châu và Á châu không chấp nhận sự độc tài cộng sản và đòi hỏi cộng sản phải trả lại ngay toàn quyền lãnh đạo”…?
Có thể thấy, với mưu đồ đê hèn, thái độ trơ trẽn, thô thiển từ lời nói đến bài viết của Trần Kiều Ngọc đủ thấy bản chất xấu xa, phản động của Ngọc và những việc làm đen tối của cô ta.
Đại hội giới trẻ thế giới vì nhân quyền: “Đồng bạc đâm toạc tờ giấy”?
Sáng 7-9-2017, cái gọi là Đại hội giới trẻ thế giới vì nhân quyền năm 2017 được tổ chức tại Fairmont Resort Blue Mountains – ngoại ô Sydney - Australia. Đại hội này đã tập hợp được các hội đoàn chống cộng, hội người Việt Nam tị nạn, có sự tham gia của các thành viên tích cực chống Nhà nước Việt Nam từ nhiều nơi. Điều buồn cười đó là việc ban tổ chức đã kêu gọi mỗi người tham dự đóng tiền từ 500 đến 2.000 đô-la Úc. Ban tổ chức đại hội cũng “tha thiết” kêu gọi các bạn trẻ từ 18-45 tuổi tích cực tham gia. 
Các cá nhân tham gia đại hội có 2 giá vé tham dự khác nhau, loại bình thường 1.100 đô-la, loại thứ hai là 1.500 đô-la Úc. Đại hội còn sử dụng chiêu bài “kinh doanh đại hội” khi khuyến mại: 50 người ghi danh đầu tiên được bớt 100 đô-la Úc, kêu gọi các em học sinh đang học lớp 12 và những bạn đang học toàn thời, các tu sĩ tôn giáo và những người có quốc tịch Việt Nam sẽ được giảm 20%, được bớt thêm 100 đô-la Úc nếu ghi danh trước đó hai tháng.
Số tiền được ban tổ chức thu do Trần Kiều Ngọc phối hợp với số nhân vật chống Nhà nước Việt Nam như linh mục Nguyễn Văn Khải, Michael Kirby - Chu Văn Cương, Nancy Nguyễn, Đinh Kim Phúc, Trịnh Hội, Nguyễn Văn Long, một số cựu thẩm phán Australia có quan điểm chống Nhà nước Việt Nam. 
Với phương thức như vậy, nhiều người và ngay cả nhiều bà con cộng đồng người Việt hải ngoại đặt ra câu hỏi phải chăng đây là hoạt động núp bóng của các phần tử chống đối tụ tập vu cáo, xuyên tạc tình hình trong nước và tìm cách chống phá cách mạng Việt Nam?  Nhiều người thẳng thừng vạch mặt, thực chất “Đại hội giới trẻ thế giới vì nhân quyền” cờ dong trống mở là chiêu thức rẻ tiền, bản chất là “đồng bạc đâm toạc tờ giấy”, đồng thời cố tình “đâm bị thóc, chọc bị gạo” của những kẻ “không biết quay đầu là bờ” mà đi ngược lại với lợi ích của dân tộc, nhân dân.
Và âm mưu thủ đoạn cần nhận diện
Đại hội này quy tụ những thành viên chống đối tại các quốc gia và tiến hành hội luận về tình hình Việt Nam. Thực chất đây là nơi tập hợp số người chống đối và bàn luận, xuyên tạc về Việt Nam, nhất là xuyên tạc, vu cáo tình hình nhân quyền ở nước ta. 
Điểm qua danh sách tham dự chúng ta có thể thấy nhiều đối tượng đã từng về Việt Nam, bị bắt giữ xử lý; một số đối tượng trong các hội đoàn chống cộng, nhiều đối tượng bị bọn phản động Việt Tân mua chuộc để tiến hành các hoạt động chống phá. 
Qua nắm bắt thông tin cho thấy, Đại hội giới trẻ là nơi nuôi dưỡng các thành viên Việt Tân (Tổ chức đã được Bộ Công an xếp vào tổ chức khủng bố) trong và ngoài nước tìm cách chống đối Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Chủ trương của phong trào giới trẻ vì nhân quyền là làm sao gieo rắc ý thức, nhận thức sai lệch tình hình thực tiễn Việt Nam trong những người trẻ khắp nơi trên thế giới, từ đó lợi dụng vấn đề nhân quyền để “đấu tranh”, cơ hội chính trị. 
Để thu hút sự quan tâm của giới trẻ, sau những mỹ từ chúng đưa ra là “đánh động lên trên những tâm hồn thờ ơ và quy tụ những bạn trẻ Việt Nam còn tha thiết với tiền đồ của dân tộc đến với nhau để cùng chia sẻ, tìm ra con đường nhân bản cho Việt Nam, đồng thời góp một bàn tay trong những dự án giúp cho Việt Nam sớm có được tự do, dân chủ và nhân quyền". Từ đó, chúng kích động những người nhẹ dạ cả tin trở thành phần tử chống đối, thúc đẩy phong trào chống phá Việt Nam, với cái đích cuối cùng là lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng; thúc đẩy, lèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam chệch hướng XHCN.
Với bản chất, âm ưu, phương thức, thủ đoạn của phong trào Giới trẻ thế giới vì nhân quyền như đã phân tích ở trên, người dân, nhất là các bạn trẻ, người Việt ở nước ngoài cần tỉnh táo, không để những phần tử này lôi kéo, lợi dụng.



[1] Bài viết của Lê Vĩnh Bình đăng trên Báo Công an Nhân dân điện tử, ngày 09/09/2019

CẢNH GIÁC VỚI LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC MỤC TIÊU CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRƯỚC THỀM ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP


 

Vừa qua, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW, Về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Để công tác chuẩn bị chu đáo, việc tổ chức đại hội các cấp bảo đảm thành công tốt đẹp theo đúng tinh thần chỉ thị của Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã quán triệt: Kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội (CNXH) trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối, chủ trương của Đảng. Tuy nhiên các thế lực phản động, phần tử cơ hội chính trị lợi dụng thời điểm này để công kích, chống phá, xuyên tạc mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên XHCN ở Việt Nam.
Cứ “đến hẹn lại lên”, nhằm vào thời điểm đất nước chuẩn bị có những sự kiện trọng đại, các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị lại triệt để lợi dụng để đẩy mạnh các hoạt động công kích, chống phá cách mạng Việt Nam.
Lợi dụng thời điểm tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phương đang có những chuẩn bị bước đầu để tiến tới đại hội Đảng các cấp, “lộng giả thành chân”, các đối tượng này bắt đầu gia tăng các hoạt động tuyên truyền, chống phá.
Trên các trang điện tử, blog hải ngoại, họ vờ vịt tỏ thái độ ngạc nhiên, ra vẻ thông thái dạy đời: “Vì sao đến giờ này mà Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng CNXH”. Họ cho rằng: “Ai cũng thấy là CNXH đã ở vào giờ thứ 25 trên phạm vi toàn cầu, việc thực hiện XHCN tại Việt Nam đã hoàn toàn thất bại sau 10 năm thực hiện triệt để (1975-1985) dù cố gắng “Đổi mới” 10 năm sau đó (1985-1995) theo gương “cải tổ” của Liên Xô vẫn không cứu vãn được.
Chúng xuyên tạc: Để được cứu nguy, tránh sự sụp đổ như Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, đạt được nhiều thành tựu như hiện nay, thực tế Việt Nam đã thực hiện “Kinh tế thị trường theo định hướng tư bản chủ nghĩa”; nhờ đó, Việt Nam mới phát triển nhiều mặt để có bộ mặt phồn vinh như hôm nay về kinh tế, đời sống người dân ngày một được cải thiện và nâng cao, chứ không phải kinh tế thị trường định hướng XHCN…”.
Đây thực chất là những luận điệu phi lịch sử, phản khoa học và phản động. Mục đích của những kẻ tung ra luận điều này rất rõ ràng là muốn xóa bỏ CNXH, thay đổi thể chế chính trị, hướng lái nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa; bên cạnh đó là làm cho quần chúng nhân dân hoài nghi, bi quan, dao động, suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên CNXH mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Nói như vậy, luận điệu mà chúng nêu trên liệu có cần tranh luận? Chắc hẳn là không. Tuy nhiên cũng nên nói rõ để không “thật, giả, vàng, thau lẫn lộn”.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của dân tộc Việt Nam. Lịch sử dân tộc nửa cuối thế kỷ XIX và ngót nửa đầu thế kỷ XX, đất nước không được độc lập, nhân dân không được tự do. Các phong trào từ “Cần Vương”, “Khởi nghĩa nông dân”, đến phong trào “Đông Du”, phong trào “Giải phóng dân tộc theo khuynh hướng tư sản dân tộc”… đều thất bại, cách mạng Việt Nam lâm vào khủng hoảng về con đường giải phóng dân tộc.
Trong điều kiện đó, Nguyễn Ái Quốc đã đưa lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười, cách mạng vô sản về Việt Nam. Từ khi có Đảng, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành lại độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng đất nước theo con đường CNXH, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nói như thế để thấy, con đường cách mạng vô sản tiến bộ là phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, CNXH là sự lựa chọn của lịch sử dân tộc Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn của nhân dân ta. Nhân dân là cội nguồn sức mạnh, chủ thể quyết định vận mệnh của dân tộc và non sông đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam một lòng phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Ngoài lợi ích của dộc tộc, nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác.
Nhân dân một lòng theo Đảng. Lý tưởng cộng sản là sự lựa chọn của nhân dân. Kiên định con đường đi lên CNXH là sự kiên định con đường thực tiễn mà nhân dân ta đang đi, kiên định mục tiêu thực hiện mà chúng ta đang hướng tới, là tiếp nối thành quả cách mạng của nhân dân ta và nâng lên tầm cao mới phù hợp với điều kiện lịch sử.
Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng ta tiếp tục con đường đã lựa chọn, kiên định mục tiêu CNXH mà tính đúng đắn, khoa học, cách mạng đã được thực tiễn chứng minh để xây dựng nước ta thực sự giàu mạnh, dân chủ, văn minh, nhân dân ta thực sự có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Kiên định con đường đi lên CNXH là phù hợp với quy luật lịch sử, chứ không phải là “đi vào vết xe đổ của Liên Xô” như sự xuyên tạc của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. CNXH hiện thực sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 không chỉ có ảnh hưởng quốc tế sâu rộng mà còn làm thay đổi tiến trình lịch sử thế giới trong suốt thế kỷ XX và cho đến tận ngày nay.
CNXH từ lý luận khoa học đã trở thành hiện thực sinh động; từ một nước trở thành hệ thống XHCN thế giới, trở thành lực lượng cách mạng thúc đẩy nhân loại phát triển và phẩm giá con người trong lòng xã hội được thực thi… Liên Xô sụp đổ là sự kiện địa chính trị lớn nhất của thế kỷ XX làm đau đớn nhân loại tiến bộ. Song nó phản ánh sự sai lầm về một mô hình khi đã xa rời những vấn đề mang tính nguyên tắc của CNXH.
Bên cạnh đó cũng phải nói rõ, những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trong hơn 30 đổi mới đến nay mà nhân dân ta đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng, là thành tựu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chứ không phải là “kinh tế thị trường theo định hướng tư bản chủ nghĩa” như các thế lực thù địch xuyên tạc.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Đây là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, là thành quả phát triển, hoàn thiện về mặt tư duy lý luận của Đảng và thực tiễn phát triển kinh tế trong thời kỳ đổi mới. Kinh tế thị trường định hướng XHCN có đặc trưng mang tính đặc thù, khác căn bản về chất so với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mà đến những kẻ ngu ngơ nhất cũng không thể đánh đồng.
Thủ đoạn của thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, phản động là xuyên tạc về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên CNXH ở nước ta, xuyên tạc kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhằm mục đích hướng lái cách mạng Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa; tác động, tiêm nhiễm tạo nhận thức lệch lạc, hoài nghi, tư tưởng hoang mang, dao động, từ đó dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân cần nâng cao ý thức cảnh giác và tăng cường đấu tranh tranh phản bác, làm thất bại âm mưu phản cách mạng nguy hiểm này.





[1] Bài viết của Lê Thế Cương đăng trên Báo Công an Nhân dân điện tử, ngày 15/9/2019

KẺ ẤU TRĨ PHẢN BỘI TỔ QUỐC


                                                                        Trung Nguyễn

Với các luận điệu quen thuộc có hoa mỹ đến đâu các thế lực chống phá cũng không thể phủ nhận một thực tế rằng ở Việt Nam là một nước luôn tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do dân chủ, nhân quyền đã được Hiếp pháp quy định, tuy nhiên Hiếp pháp và pháp luật Việt Nam chỉ tôn trọng và bảo vệ đối với mọi người dân Việt Nam, sống và chấp hành tốt Hiến pháp, pháp luật.
Tại Chương II, Hiến pháp 2013 quy định: Điều 14. “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Điều 24, "1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật".
Ngày 19/9/2019 trên trang blog Tiếng Dân đối tượng Trung Nguyễn phát tán tài liệu: “Đảng Cộng sản phải chấm dứt vi phạm Hiến pháp và pháp luật để tránh nguy cơ khó lường” với nội dung xuyên tạc, chống phá tình hình pháp luật Việt Nam, vu cáo: “Việt Nam đàn áp các nhà hoạt động nhân quyền”... Bản chất nguy hiểm của âm mưu, thủ đoạn của đối tượng Trung Nguyễn phát tán biểu hiện ở chỗ, nhằm mục đích tạo nên sự nghi ngờ, ngộ nhận, mơ hồ, lẫn lộn trong nhận thức về giá trị tự do, dân chủ, qua đó gây nên sự dao động về tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trung Nguyễn cùng với các đối tượng khác  thường lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để xuyên tạc, vu cáo Nhà nước ta vi phạm quyền “tự do, dân chủ”, “nhân quyền”, chống phá Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam cùng như con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Để thực hiện âm mưu, thủ đoạn chính trị đó Trung Nguyễn cùng các thể lực không từ một thủ đoạn chống phá nào.
Những luận điệu Trung Nguyễn cùng các thế lực thù địch đưa ra là bịa đặt, bóp méo, xuyên tạc về sự thật về tự do, dân chủ, nhân quyền và xuyên tạc nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam qua đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội. Vì vậy, mỗi người dân cần nêu cao cảnh giác, vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam của các tổ chức, cá nhân thù địch./.


PHẢI CHĂNG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG KHÔNG THỂ “KẾT DUYÊN” ĐƯỢC VỚI ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA?



                                                                                         
                                                                 Khánh Anh
Có quan điểm cho rằng: “ Làm gì có cái gọi là kinh tế thị trường định hướng XHCN”, “kinh tế thị trường là gắn với chủ nghĩa tư bản”, “là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản”, đưa thêm đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” vào là một sự gán ghép khiên cưỡng, tiến tới bài xích, phủ nhận vấn đề này. Để chứng minh cho luận điệu này, “họ” đã đưa ra quan điểm: “kinh tế thị trường và CNXH là hai ý tưởng hoàn toàn mâu thuẫn nhau; kinh tế tư nhân lẫn kinh tế nhà nước gọi chung là kinh tế quốc dân không có kinh tế nào là chủ đạo cả…”.
 Xin thưa với “họ” rằng: kinh tế thị trường và CNXH hoàn toàn không mâu thuẫn nhau. Kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, mà là thành tựu chung của nhân loại, nó được tồn tại và phát triển qua các phương thức sản xuất khác nhau. Dưới chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường thì lợi nhuận được coi là mục tiêu và động lực của sự phát triển. Vì vậy, CNTB lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để bóc lột sức lao động của giai cấp công nhân phục vụ cho mục đích của giai cấp tư sản, chiếm đoạt lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Vai trò thống soái của chủ nghĩa tư bản trong cơn lốc tìm kiếm thị trường và toàn cầu hóa kinh tế đã đe dọa lợi ích đến tất cả các quốc gia dân tộc trên thế giới. Tự cho mình quyền tự do chiếm đoạt, tự do xâm lược, tự do bóc lột, tự do khủng bố, tự do phân biệt chủng tộc…Bất chấp tất cả miễn sao chiếm đoạt được nhiều lợi nhuận. Đối với chúng ta, kinh tế thị trường được coi là phương tiện, cách thức để xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH gắn chặt với việc không ngừng nâng cao đời sống toàn diện của nhân dân, tuyệt nhiên không phải là mục đích giành lấy lợi nhuận tối đa bằng mọi giá như CNTB đã làm. Vậy thì kinh tế thị trường và CNXH làm gì có mâu thuẫn.
Quan điểm của “họ” cho rằng: “kinh tế tư nhân lẫn kinh tế nhà nước gọi chung là kinh tế quốc dân không có kinh tế nào là chủ đạo cả”. Thực chất của quan điểm này chính là tìm mọi cách để phủ nhận vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, tuyệt đối hóa kinh tế tư nhân, xóa bỏ định hướng XHCN, tiến tới xóa bỏ CNXH ở nước ta. Xung quanh vấn đề này xin trả lời với “họ” rằng: nếu không có kinh tế Nhà nước đủ mạnh thì lấy gì để hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác vươn lên đứng vững trong cạnh tranh với các đối tác nước ngoài để xây dựng một nền kinh tế phát triển thống nhất trong đa dạng, hội nhập toàn cầu hiện nay ở nước ta. Những người có quan điểm trên cũng nên nhớ rằng: ngay cả các nước tư bản chủ nghĩa, kinh tế Nhà nước luôn đóng vai trò là “bà đỡ”, “người cứu tử” đối với các doanh nghiệp khi họ rơi vào tình trạng khó khăn, có nguy cơ sụp đổ, làm chao đảo nền kinh tế quốc dân như: (Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc…). Trong những năm gần đây, đã không dưới hai lần Nhà nước của các quốc gia này phải dùng sức mạnh kinh tế của mình để cứu lấy hàng trăm công ty trên các lĩnh vực kinh tế quan trọng của họ lâm vào cảnh phá sản, đổ vỡ trước “cơn bão tài chính” và các vụ thăng trầm của thị trường chứng khoán thế giới những năm qua. Đối với Việt Nam, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước luôn luôn khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế cùng phát triển, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng. Xin hỏi “Họ”: hãy đánh giá một cách vô tư xem đã có mấy doanh nghiệp tư nhân trong nước hay nước ngoài đầu tư vào phát triển các ngành kinh tế thuộc kết cấu hạ tầng quan trọng như các nhà máy thủy điện ở vùng sâu, vùng xa. Khi hàng loạt “cơn sốt ác tính” của thị trường bất động sản, xi măng, sắt thép… đồng loạt bùng phát, tưởng như không vượt qua, có nguy cơ tàn phá kinh tế đất nước, trước nguy cơ đó đã có mấy ông kinh tế tư nhân ra tay cứu trợ, nếu không phải là kinh tế Nhà nước gánh vác thành công trọng trách đầy cam go đó. Trong việc giải quyết những vấn đề xã hội ở tầm vĩ mô, có ông kinh tế tư nhân nào sẵn sàng vô tư nhảy vào làm những việc cứu hộ, cứu nạn, khắc phục sự tàn phá khốc liệt của thiên tai không? Trên thực tế, việc đó chỉ có thể được giải quyết tốt khi kinh tế Nhà nước chủ động ra tay giải quyết. Vậy thì tại sao “vai trò chủ đạo lại không thuộc về kinh tế Nhà nước”
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay của đất nước, kinh tế Nhà nước xứng đáng là chỗ dựa cho Nhà nước của dân, do dân, vì dân trong điều tiết, phát triển nền kinh tế, ngày càng chủ động trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, vì lợi ích của toàn dân, bảo đảm sự hài hòa, thống nhất giữa phát triển kinh tế với giải quyết những vấn đề xã hội, thực hiện dân chủ, công bằng xã hội (đây là một tiêu chí then chốt của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN) mà chúng ta đã và đang thực hiện. Kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước. Kinh tế ra khỏi tình trạng khủng hoảng, hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả. Của cải xã hội ngày càng nhiều, hàng hóa ngày càng phong phú. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Đất nước không những giữ vững được sự ổn định trước những chấn động kinh tế lớn trên thế giới mà còn có bước phát triển đi lên. Kinh tế tăng trưởng khá, chính trị – xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, văn hóa, xã hội được phát triển. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Vị thế uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Điều này minh chứng rõ ràng, KTTT không chỉ thích ứng với định hướng XHCN mà nó còn kết duyên “ngọt ngào”  với định hướng XHCN. Thế mà tại sao “họ” lại cho rằng: “Kinh tế thị trường không thể kết duyên được với định hướng chủ nghĩa xã hội”. Thật là sự hồ đồ hết chỗ nói.
Để thay cho lời kết tác giả xin mượn lời của bài báo đăng trên Mạng tin châu Âu (Europe Presse Image) ngày 26-9-2019 như sau: Diện mạo đất nước Việt Nam thay đổi gần như hoàn toàn, kinh tế tăng trưởng mạnh; công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển, nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy nhanh; mức sống của người dân được nâng lên rõ rệt, đưa Việt Nam ra khỏi nhóm các nước kém phát triển, trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình…

PHÊ PHÁN LUẬN ĐIỆU PHỦ NHẬN SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI LỰC LƯỢNG VŨ TRANG




Khánh Anh
"Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi "phi chính trị hóa" quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an" là một trong 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được nêu trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đây cũng chính là âm mưu thâm độc trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, vì vậy, chúng ta cần phê phán, đấu tranh, bác bỏ.
Các thế lực thù địch luôn công kích, phủ nhận nguyên tắc “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân; đề nghị “bỏ quy định lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam” (Điều 65, Chương IV) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Đi cùng với phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi “phi chính trị hóa” quân đội và công an, các thế lực thù địch còn xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an.
Đây là sự chống phá cực kỳ nguy hiểm và trên thực tế, các thế lực thù địch đã và đang đẩy mạnh xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác quốc phòng, an ninh, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Chúng ra sức xuyên tạc, bôi nhọ bản chất, truyền thống của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; làm giảm lòng tin của nhân dân đối với quân đội và công an; xuyên tạc các sự kiện lịch sử có ý nghĩa chính trị trọng đại của đất nước có lực lượng quân đội và công an tham gia, nhằm làm mất uy tín, vị thế, vai trò của hai lực lượng này trước nhân dân. Thâm độc hơn, chúng còn thực hiện các thủ đoạn tạo mối nghi ngờ, hiềm khích, gây ly gián Quân đội nhân dân với Công an nhân dân, lực lượng vũ trang và với các cơ quan Đảng, Nhà nước... 
Sự chống phá của các thế lực thù địch là vậy, nhưng một số cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân do thiếu hiểu biết, thiếu rèn luyện, học tập chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, đã bị dao động, bi quan, dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” như Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ ra. Đáng lưu ý, thông qua internet, các trang mạng xã hội, blog cá nhân... biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ngày càng rõ nét và bị các thế lực thù địch lợi dụng để thúc đẩy chiến lược “Diễn biến hòa bình” nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Có thể khẳng định, biểu hiện này trong một số cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân là rất nguy hiểm và cần phải kiên quyết loại trừ. Bởi thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chỉ rõ, bài học thành công của Đảng trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của giai cấp vô sản chính là xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cốt lõi là giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; chăm lo xây dựng bản chất giai cấp công nhân gắn với xây dựng tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. 
Chỉ dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất, với đường lối vũ trang cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng, lực lượng vũ trang mới tôi luyện được bản lĩnh chính trị vững vàng, nâng cao sức mạnh chiến đấu tổng hợp, thực sự là chỗ dựa tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong thực hiện các chủ trương, đường lối, chiến lược, sách lược bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Và trên thực tế, trong hơn 70 năm qua, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam luôn vượt qua những khó khăn trở ngại, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Đó là sự thật hiển nhiên không thể xuyên tạc, bóp méo.
Chúng ta cần phải đẩy mạnh đấu tranh phản bác lại những luận điệu chống phá của các thế lực thù địch, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đặc biệt là biểu hiện: “Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi “phi chính trị hóa” quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an”. Muốn làm được điều đó, cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, cần cung cấp thông tin chính thống về lĩnh vực quốc phòng - an ninh đến cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân một cách kịp thời, chính xác, khách quan, trung thực. Bởi quốc phòng - an ninh là lĩnh vực đặc thù, có liên quan trực tiếp đến sự an nguy của quốc gia, dân tộc. 
Tuy nhiên, trong thời đại bùng nổ thông tin, một sự kiện xảy ra chỉ trong thời gian rất ngắn đã lan khắp toàn cầu. Vì vậy, càng chủ động giữ vững trận địa thông tin, cung cấp thông tin chính thống, kịp thời và minh bạch, càng ngăn chặn được các luồng thông tin thất thiệt, thổi phồng, bóp méo, xuyên tạc sự việc hoặc suy diễn tiêu cực, gây hoang mang, lo lắng, bán tín bán nghi trong xã hội là hết sức cần thiết. 
Hơn nữa, khi cán bộ, đảng viên và nhân dân được cung cấp thông tin chính thống nhanh chóng và chính xác, các thế lực thù địch sẽ ít có cơ hội thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình”, đồng thời ngăn chặn hiệu quả những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Hai là, luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Đây vừa là nguyên tắc, vừa là quy luật cơ bản trong xây dựng quân đội và công an kiểu mới, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng chỉ rõ: “... phải tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”, làm cho quân đội và công an thật sự đoàn kết, gắn bó, là lực lượng xung kích đi đầu trong ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Ba là, tăng cường đấu tranh phòng chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch hòng làm cho Quân đội nhân dân Việt Nam, Công an nhân dân Việt Nam “tự diễn biến” theo khuynh hướng “phi chính trị hóa”. Theo đó, phải tăng cường xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vững mạnh về chính trị, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc; củng cố và tăng cường sức mạnh đoàn kết quân dân, góp phần giữ gìn và phát huy hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, người “Công an cách mạng”.
Bốn là, thường xuyên đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ quân đội và công an, tạo chuyển biến tích cực trong đời sống văn hóa tinh thần, khắc phục các biểu hiện tiêu cực trong đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ. Cùng với đó phải tích cực giáo dục cho mọi cán bộ, chiến sĩ có ý thức và hành động đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng với mọi biểu hiện dao động, giảm sút ý chí, niềm tin; mơ hồ, mất cảnh giác; cá nhân chủ nghĩa; suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; không tạo kẽ hở cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá nội bộ. 
Đồng thời, lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức cho các nhà khoa học, bằng cơ sở lý luận, thực tiễn sắc bén, có tính thuyết phục cao, tham mưu, đề xuất những biện pháp, cách thức đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội.




THÀNH QUẢ CỦA CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI DO ĐẢNG TA LÃNH ĐẠO LÀ KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN



Khánh Anh
Ra sức xuyên tạc, hạ thấp, phủ nhận những thành quả của công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo; thổi phồng khuyết điểm của Đảng và Nhà nước ta là một trong những âm mưu thủ đoạn mà các thế lực thù địch đang tiến hành. Vì vậy, phòng, chống, ngăn ngừa những biểu hiện đó là hết sức cấp thiết hiện nay, nếu không sẽ ảnh hưởng tới uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Sự cố tình xuyên tạc, phủ nhận của các thế lực thù địch

Qua 33 năm đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Từ một nước nghèo, trải qua hơn 30 năm chiến tranh, bị cấm vận, cho đến nay, Việt Nam đã trở thành nước có mức thu nhập trung bình, trở thành đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, bình đẳng với nhiều nước lớn, trong đó có Nga, Trung Quốc (đối tác chiến lược toàn diện) và Hoa Kỳ (đối tác toàn diện)... Đó là cố gắng to lớn, rất đáng tự hào của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, được nhân dân và cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá rất cao. Tuy nhiên, hiện nay kinh tế của đất nước còn tụt hậu, cuộc sống của đồng bào ta ở nhiều vùng và nhiều đối tượng còn thật sự khó khăn; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, cửa quyền, hách dịch với nhân dân, gây tổn thương, bất bình trong nhân dân... Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rất sâu sắc vấn đề này và quyết tâm đấu tranh, sửa chữa, khắc phục.

Tuy nhiên, để bôi nhọ và hạ thấp thành quả công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các thế lực thù địch không những đã cố tình đổi trắng, thay đen, xuyên tạc, bóp méo bản chất, tính chất và thành tựu to lớn của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, kháng chiến chống xâm lược của nhân dân ta, mà còn xuyên tạc, phủ nhận thành tựu của sự nghiệp đổi mới đất nước ta. “Họ” công kích, xuyên tạc thành tựu của đổi mới đất nước là do Đảng, Nhà nước Việt Nam “tự vẽ lên”, “tự mình khen mình”, chứ thực chất, theo “họ” là không có thật. Chúng còn nói xằng rằng, những thành tựu đổi mới nếu có là chỉ “chui vào túi của những kẻ độc tài”, bọn tham nhũng, tham quan; còn Việt Nam vẫn trong cảnh nghèo nàn, tụt hậu, đời sống của nhân dân còn rất nhiều khó khăn, thiếu thốn, người dân nghèo thì không được thụ hưởng...
Mặt khác, “họ” còn “tìm kiếm” và cố tình đưa ra những thông tin hằn học, nhai lại những luận điệu cũ rích nhằm hạ bệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phủ nhận công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh; vu cáo, bôi nhọ một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, hạ uy tín nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao, gây mất niềm tin trong nhân dân, làm cho dân xa Đảng, mất đoàn kết nội bộ, kích động tâm lý xã hội.
Không dừng lại ở đó, “họ” còn triệt để lợi dụng, khoét sâu những hạn chế, khuyết điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong thực hiện chủ trương, chính sách và thực thi pháp luật, nhất là lợi dụng việc Đảng đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham ô, tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên để xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; công kích Đảng, xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Đặc biệt, chúng cho “ra lò” những cuốn sách, tờ báo, tờ rơi, những “tâm thư”, “giác thư”, “thư ngỏ”, “tuyên cáo”, công khai nói rõ điều đó, công khai đòi đánh đổ, kêu gọi giải tán Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, xóa Điều 4 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam...
Cùng với sự chống phá của các thế lực thù địch, trong xã hội đã xuất hiện thêm nhiều luận điệu nhằm hạ thấp, phủ nhận thành quả cách mạng và sự nghiệp đổi mới đất nước của nhân dân ta; “cố tình” tạo dư luận để thổi phồng khuyết điểm của Đảng và Nhà nước ta của những kẻ suy thoái, biến chất. Dùng chiêu “mớm lời”, “rắc thính”, kích động để không chỉ gây hận thù dân tộc mà còn gây tâm lý hoang mang, nghi ngờ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái, dàn “đồng ca” của “họ” đã và đang làm cho những biểu hiện đó được “khuyếch trương” mạnh mẽ hơn bằng các thủ đoạn đặt câu hỏi như: nếu không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thì nước ta sẽ đi theo con đường nào? Và rồi, họ tự trả lời bằng cách “khuyên nhủ” chúng ta phải đi theo con đường của chủ nghĩa tư bản để được tự do,.v.v.. 
Ngoài ra, để phủ nhận những thành tựu về nhân quyền mà Việt Nam đạt được trong các năm qua, tổ chức khủng bố “Việt Tân”, “Ủy ban bảo vệ quyền làm người Việt Nam”, “Cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản tại Hà Lan”, “liên hội người Việt tị nạn tại Đức” với sự hà hơi, tiếp sức, phụ họa của BBC, VOA, RFA, RFI… đã khai thác, dựa trên các loại thông tin giả, cố tình bóp méo sự thật, đổi trắng thay đen, tảng lờ những thành tựu của sự nghiệp đổi mới nói chung, về nhân quyền mà Việt Nam đạt được nói riêng; đã đánh tráo khái niệm, để bảo vệ một số người vi phạm pháp luật, bị tòa án xét xử… nhằm kích động dư luận, gây hoài nghi, dao động, làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, với chế độ.
Một bộ phận phai nhạt lý tưởng cách mạng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” đã “phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái”; “nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Chúng bôi nhọ, hạ thấp và phủ nhận không chỉ thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ mà còn cố tình phủ nhận thành quả của công cuộc đổi mới hơn 30 năm qua. Chúng rêu rao và đổ lỗi cho sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đòi thay đổi con đường mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, từ đó, đòi thay đổi thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa, phủ nhận và từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng; tìm mọi cách cản trở công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước... 
Một số giải pháp phòng, chống và ngăn ngừa
Phòng, chống và ngăn ngừa những biểu hiện hạ thấp, phủ nhận thành quả đấu tranh cách mạng và thành tựu công cuộc đổi mới, thổi phồng khuyết điểm của Đảng và Nhà nước ta thực sự là yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, để xây dựng và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng vững mạnh, chắc chắn, xứng đáng với vai trò tiền phong. Để chủ động phòng, chống vấn đề này hiệu quả, phải thực hiện tổng hợp và đồng bộ nhiều giải pháp, cụ thể cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề cốt yếu sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống,v.v..; đồng thời, cảnh giác, nhận diện và đánh giá đúng thực chất và tác hại của những biểu hiện hạ thấp, phủ nhận thành quả cách mạng, thổi phồng khuyết điểm của Đảng và Nhà nước để kiên định lý tưởng cộng sản, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã lựa chọn. Trên cơ sở thấm nhuần lời dạy của V.I.Lênin: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ”, mỗi cấp ủy, cán bộ, đảng viên phải biết tự bảo vệ mình thông qua quá trình tự giác học tập và tu dưỡng để nâng cao trình độ lý luận chính trị, năng lực trí tuệ, tình cảm và lập trường cách mạng, bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng,v.v.. trước những diễn biến phức tạp khó lường và tác động mạnh mẽ của tình hình, trước sự chống phá của các thế lực thù địch cũng như tác động của những biểu hiện xấu, độc để nâng cao sức đề kháng, khả năng tự miễn dịch trước các quan điểm sai trái, thù địch về tư tưởng, lý luận.
Thứ hai, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng; tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” gắn với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” để “nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên”[1].
Thứ ba, nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển, để xây dựng đất nước ta “kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị - xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối đoàn kết thống nhất”. Trong quá trình đó, phải “xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa giàu - nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững”[2], tăng cường sự đồng thuận xã hội.
Thứ tư, tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế; đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, khẳng định những thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam, nhất là những thành tựu của nhân dân ta 33 năm đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, để những thông tin hạ thấp, bôi nhọ “cố tình xuyên tạc, phủ nhận” ấy chỉ là những “bàn tay không che nổi mặt trời” - không thể phủ nhận được sự thật đang hiện hữu sinh động hằng ngày trên đất nước Việt Nam./.




[1] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn qốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.199.
[2] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn qốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.135.


CẢNH GIÁC VỚI MƯU ĐỒ “GÁC TRANH CHẤP, CÙNG KHAI THÁC” Ở BIỂN ĐÔNG



                                                                                            
          Mới đây Philippines chấp nhận thỏa thuận tỉ lệ 60 -40 với Trung Quốc trong khai thác dầu khí ở vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) đã làm gia tăng mức độ nguy hiểm cho hòa bình trong khu vực. Biết rằng đó chỉ là quan điểm, cách thức giải quyết vấn đề “ gác tranh chấp, cùng khai thác” theo cách riêng của Philippines.
Công ước Luật Biển của Liên hợp quốc (UNCLOS) không có khái niệm, quy định về “khai thác chung” mà chỉ đề cập hợp tác bình đẳng trong hợp tác kinh tế của các quốc gia trên biển. Giữa các nước hợp tác khai thác chỉ thực hiện trong phạm vi lãnh thổ thuộc một quốc gia nào đó, tỉ lệ ăn chia thỏa thuận với nhau theo hợp đồng kinh tế, không phụ thuộc vấn đề chính trị hay tranh chấp. Chẳng hạn như Việt Nam đang hợp tác liên doanh thăm dò, khai thác dầu khí với các nước trong vùng biển của mình là như vậy. Có 2 trường hợp được gọi là khai thác chung: Một là, Khi có một nguồn tài nguyên vắt ngang qua biên giới biển của các quốc gia liên quan; Hai là, Khi nguồn tài nguyên nằm trong vùng chồng lấn mà giữa các nước chưa thể phân định rõ ràng hay đang tranh chấp (điều 74,83 Công ước unclos 1982). Lưu ý là khai thác chung chỉ thực hiện khi có một trong hai điều kiện đã nêu trên, không phải nằm trong phạm vi lãnh thổ EEZ của bất cứ quốc gia nào.
Cùng với âm mưu thực hiện đường 9 đoạn, Trung Quốc đã đưa ra phương thức “gác tranh chấp, cùng khai thác” từ tháng 10/1982 khi Đặng Tiểu Bình đưa ra tại Tokyo (Nhật Bản). Nội dung trong đó có 4 điểm chính: 1. Chủ quyền lãnh thổ là thuộc Trung quốc(vì nằm trong vùng 9 đoạn); 2. Điều kiện chưa thể giải quyết vấn đề lãnh thổ thì thảo luận về chủ quyền được tạm gác lại; 3. Lãnh thổ bị tranh chấp cùng nhau khai thác; 4. Tạo sự hiểu biết để giải quyết vấn đề lãnh thổ. Mặc dù vậy Trung Quốc vẫn tuyên bố đường 9 đoạn, “lãnh thổ không thể chối cãi” với quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa và các vùng khác . Trong khi đó các vùng đưa ra khai thác chung đều nằm trong vùng biển (EEZ) thuộc chủ quyền các nước, nổi lên nhất là Việt Nam, Philipin, Malaixia. Đặt ra như vậy Trung Quốc đạt được 2 mục tiêu: Biến vùng biển các nước thành vùng biển tranh chấp nhằm từng bước thực hiện đường 9 đoạn và biến tài nguyên riêng của các nước khác làm tài nguyên chung. Chỉ cần một trong các nước chấp nhận phương thức này là Trung Quốc đã đạt thành công bước đầu, các nước khác sẽ phải noi theo để được yên ổn. Trong khi đó UNCLOS quy định rõ tài nguyên trong vùng EEZ của các nước là tài sản riêng không thể chia sẻ cho bất cứ ai.
Nhìn lại vụ việc đã xảy ra ở vùng biển đá san hô Luconia mà Malaysia tuyên bố chủ quyền để thấy rõ hơn điều đó. Malaysia cấp phép thăm dò khai thác cho một công ty nước ngoài từ 2013 thì Trung Quốc gia tăng các hoạt động gây hấn, tạo bất ổn cho hoạt động bình thường ở đây. Tàu hải cảnh Trung Quốc tuần tra áp sát, ngăn cản hoạt động vận tải tiếp tế của tàu vận tải nước này, có những động thái gây nguy hiểm. Các hoạt động của Trung Quốc hiện nay tại bãi biển Tư chính không phải là ngoại lệ. Năm 2017,2018 Trung Quốc cũng đã thực hiện quấy rối ở vùng này đã làm cho một công ty thăm dò của Tây Ban Nha phải ngừng hợp tác với Việt Nam. Theo đà đó họ tiếp tục sử dụng con bài gây hấn, đe dọa với liên doanh của Việt Nam, Nga, Nhật Bản như đã thấy trong suốt gần 3 tháng qua. Nhưng xu thế bây giờ đã thay đổi, chúng ta tiếp tục gia hạn thời gian thăm dò và hạ đặt giàn khoan khổng lồ Sao vàng – Đại Nguyệt trong khi Trung Quốc đang tiếp tục các hoạt động ngăn cản. Bộ ngoại giao đã nhiều lần lên tiếng phản đối, kể cả đưa ra hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN và các nước. Các hoạt động của lực lượng chấp pháp trên biển đang kiên quyết thực thi nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền trên vùng biển đặc quyền kinh tế . Đó là lý do tại sao Trung Quốc tức tối gây sự và vấn đề này chưa có dấu hiệu thuyên giảm.
Trung Quốc chưa bao giờ có ý định từ bỏ đường 9 đoạn, biến vùng biển EEZ của các nước thành “vùng xám trên biển”(tranh chấp), thực chất là biến vùng biển các nước thành vùng tranh chấp để thực hiện ý đồ lâu dài độc chiếm Biển Đông. Đó cũng là lý do cho đến nay đã 17 năm đàm phán nhưng Trung Quốc tiếp tục trì hoãn ký kết COC với các nước ASEAN. Từ tạo bất ổn đến “gác tranh chấp, cùng khai thác” là từng bước tạo điều kiện cho những yêu sách có lợi cho Trung Quốc với các nước ASEAN. Philippines thỏa thuận với Trung Quốc trong chia lợi nhuận thăm dò khai thác tỉ lệ 60-40 dù nghiêng về Philippines không thể gọi là lợi thế, ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình đàm phán COC và cho hòa bình ổn định trong khu vực. Đó là việc riêng của Philippines chúng ta không thể can thiệp, nhưng sẽ gây bất lợi chung trong xử sự chủ quyền của các nước trên biển trong đó có Việt Nam. Vấn đề giải quyết sẽ còn phức tạp, lâu dài buộc nhà nước ta phải kiên định và kiên trì đường hướng theo nguyên tắc quan hệ quốc tế và Công ước UNCLOS 1982.
  An Nhiên    


Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...