Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2022

Ở VIỆT NAM, KHÔNG AI BỊ BẮT GIỮ, XÉT XỬ VÌ “BÀY TỎ CHÍNH KIẾN”

Quan tâm bảo vệ và thúc đẩy các quyền cơ bản của con người là mục tiêu mà Việt Nam luôn hướng tới. Điều đó đã được quy định cụ thể trong Hiến pháp 2013, các văn bản pháp luật liên quan và được tôn trọng, tổ chức triển khai trên thực tế, được khẳng định qua những thành tựu mà Việt Nam đạt được hằng năm. Thế nhưng một số tổ chức, cá nhân thù địch vẫn cố tình bóp méo, xuyên tạc, phủ nhận những thành tựu bảo đảm nhân quyền của Việt Nam.

Thế nhưng, một số tổ chức đội lốt “Mạng lưới nhân quyền”, “Theo dõi nhân quyền” vẫn cố tình đưa ra cái gọi là “báo cáo” về tình hình nhân quyền thế giới năm 2021, trong đó có nhiều nội dung không khách quan dựa trên những thông tin chưa được kiểm chứng, phản ánh không đúng thực tế về bảo đảm quyền con người tại Việt Nam.

Đáng lưu ý, họ phán rằng: “Năm 2021 chứng kiến sự đàn áp của chính quyền Hà Nội đối với giới bất đồng chính kiến mà giới hoạt động và theo dõi nhân quyền quốc tế cho là tồi tệ nhất trong những năm gần đây...”. Họ dẫn ra việc Nhà nước Việt Nam đã “tùy tiện bắt giữ hoặc truy tố ít nhất 28 người” vì vi phạm các tội danh “mơ hồ” như “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” hoặc “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước”.

Cần phải khẳng định mạnh mẽ rằng, tại Việt Nam, không ai bị bắt giữ, xét xử chỉ vì “bày tỏ chính kiến” hay “bảo vệ dân chủ”, “bảo vệ nhân quyền” theo đúng nghĩa. Nhà nước Việt Nam luôn nỗ lực để bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do dân chủ của người dân. Tuy nhiên, cũng như mọi quốc gia trên thế giới, Việt Nam kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để vi phạm pháp luật, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.

Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, Điều 117, Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cụ thể như sau: 1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm: a) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân; b) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; c) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm gây chiến tranh tâm lý. 2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm. 3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm".

Về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, Điều 331, Bộ luật Hình sự 2017 quy định cụ thể như sau: 1. Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. 2. Phạm tội gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Như vậy, các hành vi làm, tàng trữ, phát tán, tuyên truyền, xuyên tạc những nội dung lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chính sách pháp lý của Nhà nước hoặc phỉ báng chính quyền nhân dân, tuyên truyền bịa đặt gây hoang mang trong quần chúng nhân dân hoặc tạo ra, làm ra những tài liệu, văn hóa phẩm có nội dung chống phá Nhà nước; lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì đều có nguy cơ bị xử lý hình sự với các mức phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, phạt tù từ 05 năm đến 12 năm, trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng có thể bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.

Tương tự, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin là một quyền cơ bản của công dân Việt Nam. Quyền này đã được hiến định trong Hiến pháp năm 2013 “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Ngoài ra, quyền này còn được cụ thể trong nhiều đạo luật quan trọng như Luật Báo chí, Luật An ninh mạng...

Không chỉ được quy định trong Hiến pháp, pháp luật. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do thông tin ở Việt Nam được thể hiện rõ trong thực tiễn qua sự phát triển đa dạng về loại hình và phong phú, sinh động cả về nội dung, hình thức của báo chí Việt Nam. Đặc biệt, trong thời công nghệ 4.0 hiện nay hơn 70% dân số Việt Nam sử dụng mạng Internet và mạng xã hội. Qua các kênh thông tin, với tinh thần trách nhiệm và ý thức xã hội, công dân Việt Nam hoàn toàn có thể phản biện đường lối, chủ trương, chính sách; cung cấp thông tin, đóng góp ý kiến với Đảng, chính quyền; bày tỏ tâm tư, nguyện vọng... nhưng phải theo đúng quy định của pháp luật. Thực hiện chủ trương mở rộng dân chủ, các cấp ủy Đảng, chính quyền từ Trung ương tới cơ sở, ở Việt Nam luôn lắng nghe, tiếp thu và giải quyết kịp thời mọi ý kiến, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của công dân, nhằm phát huy trí tuệ, tâm huyết của toàn dân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Như vậy, có thể nói pháp luật Việt Nam quy định rất đầy đủ và rõ nét về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” và tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ… xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Ở đây hoàn toàn không có chuyện “mơ hồ” hay “mập mờ”… nào cả.

Hành vi vi phạm pháp luật của các đối tượng mà một số tổ chức, cá nhân dẫn ra rõ như ban ngày và ảnh hưởng rất nghiêm trọng đối với xã hội. Quá trình điều tra, xét xử và giam giữ đối với các loại tội phạm nêu trên được tiến hành theo đúng các quy định của pháp luật; quyền của người bị giam giữ được bảo đảm, không có ai bị đàn áp ở đây. Những bản án mà họ phải nhận là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại Việt Nam, không ai bị bắt giữ, xét xử vì “bày tỏ chính kiến” đúng pháp luật.

Chúng ta chẳng lạ gì chiêu trò lợi dụng các vụ việc để vu khống Nhà nước Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận, đàn áp, bắt bớ, giam giữ, xử tù những người “bày tỏ chính kiến”, mà các thế lực thù địch, phản động vẫn thường dùng. Có thể nói với sự rõ ràng, khách quan, minh bạch của pháp luật Việt Nam, các thế lực thù địch không thể trắng trợn dựng chuyện, đổi trắng thay đen, bóp méo, xuyên tạc hòng thay đổi bản chất của các vụ án được.

Bằng những hành động mạnh mẽ, thiết thực, nhất định chúng ta sẽ đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của một số tổ chức, cá nhân thù địch. Thanh danh của Đảng, uy tín của Nhà nước, bản chất ưu việt của chế độ XHCN là không thể xúc phạm, không thể bôi nhọ, đó là điều khẳng định./.             


BÁC BỎ QUAN ĐIỂM PHỦ NHẬN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM

 Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một mục tiêu quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tuy nhiên, các thế lực thù địch thường xuyên phủ nhận bằng các luận điệu xuyên tạc, mà Phạm Trần là một blogger tiêu biểu. Blogger này đã đăng tải bài viết “Nhà nước pháp quyền của ai?” trên trang https://danlambaovn.blogspot.com/ vào tháng 9 năm 2022, để đưa ra các quan điểm hết sức phản động, chứa đựng tư tưởng thù địch như: “Nhà nước ở Việt Nam thời Cộng sản không phải của dân, do dân và vì dân mà là “của đảng, do đảng và vì đảng”” và “Việt Nam sẽ thành “nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI”, hay năm 2050 là hão huyền”. Vậy ẩn ý gì của Phạm Trần khi công kích vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và mục tiêu phát triển của Việt Nam?

Thứ nhất, Phạm Trần chưa hiểu hoặc cố tình không hiểu để xuyên tạc Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không phải là của dân, do dân và vì dân mà là “của đảng, do đảng và vì đảng”. Khoa học chính trị pháp lý đã khẳng định thực chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là việc tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nguyên tắc này đã được hiến định ở khoản 3, Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Kể từ khi thuật ngữ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đề cập lần đầu tiên trong Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay, nguyên tắc phân công, phối hợp kiểm soát quyền lực nhà nước ngày càng hoàn thiện và nó bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Theo đó, nhân dân thông qua quy trình bầu cử để bầu ra các đại biểu đại diện cho ý chí, nguyện vọng của mình vào Quốc hội, qua đó trao quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, cho Chính phủ và các cơ quan tư pháp. Quyền lực nhà nước dẫu là quyền lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là ở nhân dân, đều do nhân dân ủy quyền, giao quyền. Do vậy, nói quyền lực nhà nước là thống nhất, trước tiên là sự thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội dung chính trị của nhà nước đó là xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa.

Bên cạnh đó, quan điểm quyền lực nhà nước là thống nhất nói trên còn là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước đề cao trách nhiệm trước nhân dân. Nhân dân chính là ông chủ của quyền lực nhà nước, nên tất yếu nhân dân phải phân công và kiểm soát quyền lực mà mình trao chuyển cho các cơ quan nhà nước. Đó cũng là cơ sở để không có chỗ cho các yếu tố cực đoan, đối lập, thiếu trách nhiệm trong mối quan hệ giữa các quyền, nhất là quyền lập pháp và quyền hành pháp. Đồng thời, đó cũng là điều kiện để hình thành cơ chế kiểm soát, nhận xét, đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của các quyền từ bên trong tổ chức quyền lực nhà nước cũng như từ bên ngoài nhà nước là nhân dân. Do đó, xét đến cùng thì mục tiêu nguồn cội của quan điểm thống nhất quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phục vụ nhân dân, thực hiện “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” chứ không phải để phân chia quyền lực theo kiểu kiềm chế, đối trọng như các thiết chế tam quyền phân lập. Trên cơ sở đó, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mới thực sự là bộ máy chuyên chính của nhân dân lao động vận hành trên cơ sở “thượng tôn pháp luật”, nhằm bảo đảm thực hiện quyền làm chủ thực sự của nhân dân, xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, luận điệu “Việt Nam sẽ thành “nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI”, hay năm 2050 là hão huyền” của Phạm Trần là vô căn cứ và thật sự hão huyền. Bởi vì, mục tiêu phấn đấu đến năm 2045 Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao được đề cập trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, được dựa trên cơ sở quy mô nền kinh tế, tiềm năng phát triển và sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mục tiêu này được các khà kinh tế học trong nước, quốc tế đánh giá khả thi dù thực hiện đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Song ngay từ khi triển khai thực hiện mục tiêu này đến nay, dù đối diện nhiều khó khăn, thách thức, song Việt Nam đang khẳng định là một điểm sáng lớn về phát triển kinh tế trong bức tranh kinh tế toàn cầu. WB, Moody và nhiều tổ chức tín dụng lớn của thế giới đều đánh giá triển vọng kinh tế của Việt Nam trong ngắn hạn và trung hạn đều khả quan do chính sách kinh tế linh hoạt và hội nhập kinh tế quốc tế với độ mở lớn, cho phép Việt Nam phát huy sức mạnh nguồn nhân lực, thu hút đầu tư và đẩy mạnh xuất khẩu. GDP năm 2022 của Việt Nam được dự báo trên 8% và nếu duy trì được mức tăng trưởng trên 7%/1 năm, Việt Nam thì mục tiêu trở thành nước phát triển năm 2045 là hoàn toàn khả thi.

Như vậy, các luận điệu mà blogger Phạm Trần nêu ra trong bài viết của mình trên trang blog của danlambao là vô căn cứ, mang tính suy diễn hết sức viển vông để chống phá quan điểm, đường lối phát triển của nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trước tình hình thực tế đang có những diễn biến phức tạp, khó lường hiện nay, danlambao và các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng tự do, dân chủ để tuyên truyền, xuyên tạc, gây mất ổn định chính trị, phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và mục tiêu phát triển của Việt Nam. Nhưng xét cả về lý luận và thực tiễn, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và mục tiêu phát triển thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng đến giữa thế kỉ XXI là hoàn toàn đúng đắn, khoa học./.

Làm sâu sắc quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Đức

Nhận lời mời của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Thủ tướng Cộng hòa Liên bang Đức Olaf Scholz bắt đầu chuyến thăm chính thức Việt Nam từ ngày 13 đến 14-11.

Đây là chuyến thăm Việt Nam đầu tiên của lãnh đạo cấp cao Đức trong hơn 10 năm qua với bối cảnh quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam-Đức tiếp tục phát triển tích cực trên nhiều lĩnh vực.

Kể từ khi Việt Nam và Đức thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 23-9-1975, quan hệ hữu nghị và hợp tác song phương phát triển tích cực, ngày càng sâu rộng, hiệu quả và toàn diện. Sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau giữa hai nước ngày càng được tăng cường thông qua duy trì trao đổi đoàn cấp cao và các cơ chế hợp tác.

Trong chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Đức Angela Merkel (tháng 10-2011), Thủ tướng hai nước đã ký Tuyên bố chung Hà Nội về việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, trong đó đề ra các mục tiêu và biện pháp cụ thể tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực ưu tiên.

Trong khi hợp tác trên các kênh Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội cũng như hợp tác trong các lĩnh vực chuyên ngành khác không ngừng được thúc đẩy thì hợp tác kinh tế là một điểm sáng tiêu biểu của quan hệ Việt-Đức. Hai nước đã ký nhiều hiệp định tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ hợp tác kinh tế như: Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư; các hiệp định hàng hải, hàng không...

Hiện nay, Đức là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam ở Liên minh châu Âu (EU) và cũng là cửa ngõ trung chuyển quan trọng của hàng hóa Việt Nam sang các thị trường khác ở châu Âu. Năm 2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu giữa hai nước đạt hơn 11 tỷ USD, tăng 11% so với năm 2020; trong 9 tháng năm 2022 đạt 9,45 tỷ USD, tăng 16,7% so với cùng kỳ năm 2021. Việt Nam xuất khẩu sang Đức chủ yếu là điện thoại và linh kiện máy tính, hàng dệt may, giày dép, cà phê, nông-thủy sản... và nhập từ Đức chủ yếu là máy móc, thiết bị, dược phẩm, hóa chất, ô tô và phụ tùng ô tô, phương tiện vận tải.

Theo số liệu của Cơ quan thống kê Đức, Việt Nam trở thành đối tác thương mại hàng đầu của Đức tại Đông Nam Á và đối tác lớn thứ 6 của Đức ở châu Á. Đức đóng vai trò tích cực trong quá trình đàm phán và phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam-EU (EVIPA) tại EU.

Về đầu tư, tính đến tháng 8-2022, Đức có 431 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 2,31 tỷ USD, đứng thứ 4/24 trong EU và thứ 18/141 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam có 36 dự án đầu tư còn hiệu lực tại Đức với tổng vốn đầu tư và qua điều chỉnh đạt hơn 283,3 triệu USD, đứng thứ 14/79 quốc gia và vùng lãnh thổ mà Việt Nam đầu tư ra bên ngoài.

Về hợp tác phát triển, Đức là một trong những nước viện trợ nhiều và thường xuyên ODA cho Việt Nam. Từ năm 1990 đến nay, Đức đã cung cấp hơn 2 tỷ USD để hỗ trợ Việt Nam trong công cuộc phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế.

Trong Chiến lược hợp tác phát triển đến năm 2030 (BMZ 2030), Đức xác định Việt Nam là “Đối tác toàn cầu”, tập trung ưu tiên hợp tác trong các lĩnh vực bảo vệ khí hậu và tài nguyên thiên nhiên, năng lượng tái tạo, đào tạo nghề và y tế. Trong giai đoạn dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, Đức viện trợ cho Việt Nam hơn 10 triệu liều vaccine cùng nhiều thiết bị y tế, góp phần hỗ trợ Việt Nam đẩy lùi dịch bệnh, khôi phục phát triển kinh tế-xã hội.

Trong sự phát triển chung của quan hệ hai nước Việt Nam-Đức, hợp tác quốc phòng song phương không ngừng được củng cố và phát triển. Từ năm 2003, Việt Nam cử Tùy viên Quốc phòng thường trú tại Berlin và Đức cử Tùy viên Quốc phòng tại Thái Lan kiêm nhiệm Việt Nam.

Trong chuyến thăm Đức của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phạm Văn Trà (tháng 10-2004), hai bên đã ký Bản ghi nhớ về hợp tác hỗ trợ đào tạo quân nhân Việt Nam tại Đức. Hai bên thường xuyên trao đổi chuyến thăm hoặc tiến hành các cuộc tham vấn chính sách; một số sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam đã tham gia các khóa huấn luyện tại các cơ sở đào tạo quốc phòng của Đức. Kể từ tháng 9-2019, Đức chính thức cử Tùy viên Quốc phòng thường trú tại Việt Nam.

Hai bên tích cực hợp tác triển khai các hoạt động trao đổi đoàn, chuyên gia, học viên và chia sẻ kinh nghiệm tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Lần đầu tiên trong lịch sử hai nước, Đức đã cử chiến hạm Bavaria thăm Bến cảng Nhà Rồng, TP Hồ Chí Minh trong hải trình tới khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương từ ngày 6 đến 9-1-2022.   

Hai nước còn tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực tư pháp-pháp luật, giáo dục-đào tạo, văn hóa, du lịch, khoa học-công nghệ..., trong đó, Trường Đại học Việt Đức tại TP Hồ Chí Minh được xem là dự án “hải đăng” trong lĩnh vực giáo dục-đào tạo.

Đóng vai trò là cầu nối quan trọng, cộng đồng người Việt Nam tại Đức với gần 200.000 người, sinh sống rộng khắp trên toàn lãnh thổ Đức. Nhìn chung, kiều bào ở Đức có cuộc sống tương đối ổn định, đa số theo diện làm công ăn lương hoặc buôn bán nhỏ. Thế hệ người Việt thứ hai ở Đức hội nhập khá thành công, được chính quyền sở tại đánh giá cao so với các cộng đồng nhập cư ở Đức.

Từng đi du lịch Việt Nam, Thủ tướng Olaf Scholz và Phu nhân yêu thích ẩm thực Việt. Trong các bài phát biểu nhậm chức (tháng 12-2021) và tại Hội nghị cấp cao G7 (tháng 6-2022), Thủ tướng Olaf Scholz đều nhắc đến Việt Nam như một đối tác quan trọng, giàu tiềm năng mà Đức muốn tăng cường hợp tác.

Với chuyến thăm chính thức Việt Nam lần này, Thủ tướng Olaf Scholz khẳng định sự coi trọng và mong muốn đẩy mạnh quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam.

Chúng ta tin tưởng rằng, chuyến thăm của Thủ tướng Olaf Scholz sẽ thành công tốt đẹp, góp phần làm sâu sắc quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam-Đức, đưa quan hệ hai nước sang giai đoạn mới vì lợi ích chung của hai nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển.

Nguồn: Báo QĐND

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp Thủ tướng Cộng hòa liên bang Đức Olaf Scholz

Chiều 13-11, tại trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tiếp Thủ tướng Cộng hòa liên bang Đức Olaf Scholz, nhân dịp Thủ tướng thăm chính thức Việt Nam.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hoan nghênh chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Olaf Scholz, nhấn mạnh chuyến thăm là dấu mốc quan trọng của quan hệ hai nước, diễn ra sau hơn 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược vào năm 2011, khi hai nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới trong bối cảnh tình hình quốc tế có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp.

Đánh giá cao kết quả tốt đẹp của cuộc hội đàm giữa Thủ tướng Olaf Scholz và Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, hoan nghênh các thỏa thuận hợp tác mà các bộ, ngành hai bên ký kết nhân chuyến thăm, Tổng Bí thư khẳng định Việt Nam coi trọng quan hệ Đối tác chiến lược với Đức, vui mừng trước những bước phát triển tích cực trong quan hệ song phương và đề nghị hai bên duy trì, phát huy những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua, tiếp tục đẩy mạnh hợp tác, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Tổng Bí thư trao đổi với Thủ tướng Olaf Scholz một số phương hướng, biện pháp lớn nhằm đẩy mạnh hợp tác trên tất cả các lĩnh vực, thúc đẩy quan hệ song phương phát triển hiệu quả, thực chất, đưa quan hệ hai nước sang giai đoạn phát triển mới tương xứng với mong muốn và tiềm năng của hai bên.

Tổng Bí thư trao đổi với Thủ tướng Olaf Scholz về những thành tựu to lớn, toàn diện, nổi bật của Việt Nam sau 35 năm Đổi mới, Việt Nam chưa bao giờ có cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày hôm nay, về những kết quả tích cực trong phòng, chống dịch bệnh, phục hồi phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ của Việt Nam. Nhân dịp này, Tổng Bí thư cảm ơn sự hợp tác, hỗ trợ của Đức với Việt Nam trong nhiều năm qua, trong đó có việc hỗ trợ vaccine phòng, chống Covid-19, góp phần giúp Việt Nam đẩy lùi dịch bệnh và sớm mở cửa, phục hồi kinh tế-xã hội.

Thủ tướng Olaf Scholz cảm ơn Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã dành thời gian tiếp đoàn, cũng như sự đón tiếp trọng thị của lãnh đạo và nhân dân Việt Nam dành cho đoàn. Chúc mừng những thành tựu ấn tượng của Việt Nam trong phát triển đất nước, Thủ tướng Olaf Scholz khẳng định, Đức coi trọng quan hệ đối tác chiến lược Đức-Việt Nam, cũng như coi trọng vai trò, vị thế quốc tế của Việt Nam, trong đó có vai trò của Việt Nam tại ASEAN. Thủ tướng Olaf Scholz chia sẻ đánh giá của Tổng Bí thư về những bước phát triển tích cực của quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước trong thời gian qua, đánh giá cao kết quả tốt đẹp của cuộc điện đàm giữa Thủ tướng và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào tháng 3-2022, nhất trí nâng cao quan hệ hai nước, nêu các kế hoạch thực hiện quan hệ đối tác chiến lược, tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực truyền thống và mở sang những lĩnh vực mới như chuyển đổi năng lượng, đa dạng hóa chuỗi cung ứng, hợp tác về quốc phòng - an ninh.

Hai nhà lãnh đạo cũng trao đổi về một số vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm, trong đó có việc thúc đẩy hợp tác giữa hai bên tại các diễn đàn quốc tế, phát huy vai trò của luật pháp quốc tế, củng cố hòa bình, phát triển ở các khu vực.

Nguồn: Báo QĐND

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...