Thứ Tư, 20 tháng 2, 2019

NHẬN DIỆN BẤT LIÊM ĐỂ "XÂY" ĐỨC LIÊM


NHẬN DIỆN BẤT LIÊM ĐỂ "XÂY" ĐỨC LIÊM
Cần, kiệm, liêm, chính được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong bốn bài báo đăng trên báo Cứu quốc tháng 5, 6 năm 1949(1). 70 năm đã qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về đức LIÊM vẫn nguyên giá trị. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng: “Liêm là trong sạch, không tham lam”; liêm ngày nay rộng hơn ngày xưa, không chỉ gồm những người làm quan không đục khoét dân mà “mọi người đều phải Liêm”. Người cán bộ, người buôn bán, người có tiền, người cày ruộng,… đều phải có đức liêm. 
Trái với đức liêm là bất liêm. “Tham địa vị, tham tiền của, tham danh tiếng, tham ăn ngon là BẤT LIÊM”. Người buôn bán mà mua gian, bán lận là bất liêm; người có tiền mà cho vay cắt cổ, bóp họng đồng bào là bất liêm; người làm nghề mà nhân lúc khó khăn bắt chẹt đồng bào là bất liêm; người làm ruộng mà lấy cắp nước của láng giềng là bất liêm;…
Đối với người cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút, trộm của công làm của tư là bất liêm; dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình, gặp việc phải mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm đều trái với LIÊM. Như thế, bất LIÊM của người cán bộ, theo tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung rộng, nó không chỉ là hành vi “đục khoét dân”, “ăn của đút lót”, “trộm của công” mà còn bao gồm các hành vi “lộng quyền”, “dìm người giỏi”, “háo danh”, “ngại khó ngại khổ” trong công việc. Hành vi bất liêm của người cán bộ là biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thói quan liêu, hách dịch, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái. Xem thế, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên là trái với liêm; sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên là bất liêm. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Do BẤT LIÊM mà đi đến tội ác trộm cắp. Công khai hay bí mật, trực tiếp hay gián tiếp, bất liêm tức là trộm cắp”. Người dẫn lời Khổng Tử: “Người mà không liêm, không bằng súc vật” và dẫn lời Mạnh Tử: “Ai cũng tham lợi, thì nước sẽ nguy”. Những cán bộ dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm để có dịp là đục khoét, ăn của đút, lộng quyền, “dĩ công vi tư” sẽ có hại cho Đảng, cho dân, cho nước. Hành vi của những cán bộ bất liêm làm suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng, với Nhà nước, với chế độ mà nhân dân ta đang xây dựng, theo đó việc khơi dựng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bị suy giảm.
Những cán bộ đục khoét của dân, tham ô, tham nhũng rất khó nhận diện nhưng không khó để vạch mặt chỉ tên, nếu thanh tra, kiểm tra được tiến hành tốt. Kết quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng thời gian vừa qua đã cho thấy rõ điều đó. Song những cán bộ ngại khó ngại khổ, thiếu trách nhiệm trong thực thi chức trách, tham danh tiếng (háo danh), không minh bạch trong công tác cán bộ,… sẽ khó nhận diện dẫn đến khó xử lý. “Ăn của đút lót” là một hành vi mà cho đến nay việc nhận diện, xử lý chưa cho kết quả nhiều. Cần nhận rõ rằng, những hành vi đó trái với đức LIÊM, những cán bộ đó là BẤT LIÊM nên cần phải đấu tranh như đấu tranh phòng, chống tham ô, tham nhũng và nên xác định nó là một nội dung quan trọng trong đấu tranh phòng chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. 
Để làm trong sạch đội ngũ, để làm lành mạnh nền hành chính quốc gia, để cho người dân “bớt khổ” trong quá trình làm ăn, sinh sống của mình. cần đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống “ăn của đút lót” - “tham nhũng vặt” Một nền hành chính minh bạch, với đội ngũ cán bộ thanh liêm, “không đòi bôi trơn” sẽ tạo ra môi trường xã hội thuận lợi cho việc phát huy mọi nguồn lực để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nếu “tham nhũng vặt” không được đấu tranh, ngăn chặn sẽ làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước.
XÂY ĐỨC LIÊM, ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG BẤT LIÊM
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng, để xây dựng đức liêm, phòng chống bất liêm, “cán bộ phải thực hành chữ LIÊM trước, để làm kiểu mẫu cho dân”. 
Nghĩa là, cán bộ phải gương mẫu, đi đầu trong việc tu dưỡng, rèn luyện và phát huy đức liêm ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi công việc. Cán bộ luôn liêm khiết sẽ là tấm gương sáng để mọi người noi theo tu dưỡng, rèn luyện đức liêm để cả xã hội đều liêm. “Cán bộ thi đua thực hành liêm khiết, thì sẽ gây nên tính liêm khiết trong nhân dân”. Lời chỉ dạy của Người về nêu gương trong thực hành đức liêm càng làm cho thấy tầm quan trọng của việc nêu gương đối với cán bộ, đảng viên mà Đảng ta đang khơi dựng hiện nay. Cán bộ, đảng viên cần nhận rõ trọng trách chính trị xã hội của mình để chú tâm gương mẫu tu dưỡng, rèn luyện đức liêm.
 Nhưng cũng có khi “quan tham vì dân dại”. Nếu dân hiểu biết, nêu cao liêm chính, không chịu đút lót, thì quan “dù không liêm cũng phải hóa ra LIÊM”. Như thế, góp phần để cán bộ liêm chính thì mỗi công dân phải thực hành chữ LIÊM, thực hành liêm chính trong thực hiện chức phận công dân, trong các quan hệ xã hội của mình, nhất là trong quan hệ với những người có chức quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “mọi người đều phải Liêm”, người buôn bán, người có tiền, người cày ruộng, người làm nghề, người cờ bạc,… đều phải có đức liêm. Người không tham lam thì mới có thể ngăn chặn người khác không tham, mình không liêm sao có thể đòi hỏi người khác phải liêm. Nếu mọi người làm việc gì cũng dùng phong bì, phong bao để nhanh được việc thì khó có thể loại bỏ được sự bất liêm trong cán bộ, công chức, viên chức. Vì thế, để cuộc đấu tranh phòng chống sự tha hóa về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên đạt hiệu quả cao, cần phải loại bỏ hành vi “đút lót”, “chạy chọt” trong đời sống xã hội nước ta hiện nay. Đây là một cuộc đấu tranh lâu dài, khó khăn, phức tạp bởi vì đút lót, bôi trơn đang như là một “thói quen” trong đời sống xã hội và những cán bộ suy thoái về đạo đức, lối sống đã, đang lợi dụng thói quen xã hội này để trục lợi, làm giàu. Người dân không đút lót sẽ góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ liêm chính và cán bộ thực hành liêm chính sẽ loại bỏ thói quen đút lót của người dân. Một nhà nước của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân, một chính phủ kiến tạo phải là một nhà nước, một chính phủ mà tất thảy mọi cán bộ, công chức phải liêm chính.
Để xây dựng đức LIÊM, đấu tranh phòng chống BẤT LIÊM, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra bốn biện pháp: Một là, cán bộ phải gương mẫu, tự mình liêm khiết để làm gương cho nhân dân noi theo. Hai là, nhân dân biết phát huy quyền hạn của mình để giúp cán bộ thực hiện đức liêm. Ba là, thực hành tuyên truyền giáo dục để mọi người nhận thức rằng bất liêm là điều xấu, có tội với dân với nước, từ đó mà tu dưỡng đức liêm. Bốn là, xử lý nghiêm minh với những con người bất liêm.
Để đấu tranh phòng chống sự bất liêm trong cán bộ, đảng viên phải dựa vào dân, phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm tra, giám sát, “phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM”. Muốn thế, cần không ngừng nâng cao ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, bồi dưỡng và phát huy năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội, ý thức dân chủ xã hội của nhân dân để trên cơ sở đó mà tổ chức và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đức liêm cho cán bộ. Để phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đức liêm cho cán bộ, đội ngũ cán bộ phải tin dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, trước hết cấp ủy đảng phải có những biện pháp cụ thể, phù hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến của mình. Gần dân, sát dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân về đức liêm của đội ngũ cán bộ là quán triệt quan điểm “dân là gốc”. 
Bên cạnh đó, chú trọng xử lý kịp thời, nghiêm minh những hành vi, những con người bất liêm, cho dù họ là ai. Qua đó, cảnh tỉnh mọi người tránh xa hành vi bất liêm, đồng thời tạo dựng niềm tin xã hội. Kết quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta thời gian gần đây đã làm gia tăng niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý xã hội của Nhà nước. Khi niềm tin được củng cố thì đồng thuận xã hội gia tăng, đó là một trong những điều kiện phát huy sức mạnh của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đồng thời, để mọi người đều liêm, trước hết cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục làm cho mọi người nhận thức rõ rằng bất liêm là “ăn cắp”, là xấu, để mà tránh xa nó. Bằng mọi cách làm cho mọi người dân, trong đó có cả cán bộ hiểu rõ rằng lòng tự hào, tự tôn dân tộc phải thể hiện ở sự liêm chính. Quá trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình từng bước loại bỏ hành vi trái với liêm, đấu tranh không khoan nhượng với những con người bất liêm như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ”.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t. 5, tr.631 - 645.
PGS.TS. Phạm Xuân Hảo
http://tuyengiao.vn/theo-guong-bac/nhan-dien-bat-liem-de-xay-duc-liem-118942

GÁC LẠI QUÁ KHỨ, HƯỚNG TỚI TƯƠNG LAI!


GÁC LẠI QUÁ KHỨ, HƯỚNG TỚI TƯƠNG LAI!
(TG)- Cách đây 40 năm, ngày 17-2-1979, Trung Quốc đã huy động 60 vạn quân, với 9 quân đoàn chủ lực và 32 sư đoàn bộ binh độc lập, 6 trung đoàn với 550 xe tăng, 4 sư đoàn và trung đoàn pháo binh, phòng không với 2.559 khẩu pháo, trong đó có nhiều dàn phóng hỏa tiễn bất ngờ tiến công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc của Việt Nam, gây ra cuộc chiến vô cùng tàn khốc và những xung đột quân sự dai dẳng suốt 10 năm sau đó. 
Quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc luôn là vấn đề nóng bỏng trong suốt mấy ngàn năm lịch sử của dân tộc Việt Nam; dù ở thời đại nào và chế độ nào, giống hay khác nhau đều mang tính thời sự, phức tạp và nhạy cảm. Điểm nổi bật xuyên suốt là “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”.
Trong thời hiện đại, qua gần 70 năm, kể từ khi nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam (18-1-1950 - 18-1-2019), quan hệ giữa hai nước cũng trải qua nhiều bước thăng trầm. Cách đây 40 năm, ngày 17-2-1979, Trung Quốc đã huy động hơn 60 vạn quân tiến công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc của Việt Nam, gây ra cuộc chiến vô cùng tàn khốc và những xung đột quân sự dai dẳng suốt 10 năm sau đó. Trước hành động quân sự của Trung Quốc, với truyền thống yêu nước và ý chí quật cường, cả dân tộc Việt Nam đã đoàn kết một lòng, kiên quyết đánh bại hành động gây chiến tranh, buộc quân Trung Quốc phải rút khỏi Việt Nam ngày 18-3-1979, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc.

Phát huy truyền thống nhân văn, nhân đạo, bang giao hòa hiếu, Việt Nam đã làm hết sức mình, thực hiện gác lại quá khứ, hướng tới tương lai, phấn đấu cho lợi ích của mỗi quốc gia và nguyện vọng nhân dân hai nước, ra sức xây dựng quan hệ Việt Nam - Trung Quốc ngày càng tốt đẹp. Bước ngoặt của việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc được đánh dấu bằng Hội nghị Thành Đô từ ngày 3 đến ngày 4-9-1990. Tại hội nghị này, lãnh đạo cao nhất của Đảng, Chính phủ Việt Nam và của phía Trung Quốc đã ký kết Kỷ yếu hội nghị đồng thuận bình thường hóa quan hệ hai nước.
Tiếp đó, vào tháng 11-1991, Trung Quốc và Việt Nam đã thực hiện bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Kể từ đây, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc phát triển nhanh chóng. Nhận thức về tầm quan trọng của mối quan hệ ổn định, hữu nghị giữa hai nước láng giềng xã hội chủ nghĩa và vận mệnh sống còn của hai đảng cầm quyền hai nước hết sức gần gũi, gắn bó: “Sơn thủy tương liên, lý tưởng tương thông, văn hóa tương đồng, vận mệnh tương quan”, lãnh đạo cấp cao hai bên đã thường xuyên tiếp xúc, trao đổi và liên tục củng cố trong khuôn khổ quan hệ hai nước. Hai nước đã xác định phát triển quan hệ theo phương châm 16 chữ vàng “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và nhất trí cùng nhau trở thành “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.
Đặc biệt, từ khi hai nước thiết lập quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện năm 2008, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã không ngừng mở rộng, ngày càng đi vào chiều sâu trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật, văn hóa. Hiếm có đối tác nào của Việt Nam có nhiều cơ chế giao lưu, hợp tác sâu rộng giữa hai Đảng, Chính phủ, Quốc hội và giữa các tổ chức chính trị xã hội, địa phương như Trung Quốc. Sau khi bình thường hóa quan hệ, hai nước đã nỗ lực đẩy mạnh quan hệ chính trị; gác lại và tránh nhắc tới những bất đồng, xung đột trong quá khứ để hướng đến tương lai.
Về ngoại giao chính thức, Việt Nam luôn cam kết tuân theo “phương châm 16 chữ vàng”, là láng giềng tốt của Trung Quốc. Việt Nam và Trung Quốc sẽ kiềm chế những xung đột, tranh chấp trên biển Đông, không để ảnh hưởng đến quan hệ giữa hai nước. Trong đó, thành tựu trong quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc là tiền đề cho quan hệ chính trị giữa hai nước được tiếp tục củng cố và duy trì đà phát triển tích cực. Các chuyến thăm và tiếp xúc cấp cao giữa hai Đảng, hai nước được duy trì thường xuyên. Qua đó, lãnh đạo cấp cao hai nước đạt được nhiều nhận thức chung quan trọng về việc làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc, tạo sự phát triển quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư của hai quốc gia.
Trên lĩnh vực kinh tế, quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Trung Quốc được khôi phục và phát triển nhanh chóng. Với nhiều hiệp định, thỏa thuận hợp tác đầu tư về kinh tế hoặc có liên quan đến kinh tế, quan hệ kinh tế Việt Nam - Trung Quốc tiếp tục có những bước phát triển mạnh mẽ. Trung Quốc trở thành một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam với kim ngạch hai chiều tăng mạnh; chênh lệch cán cân thương mại đang dần được cải thiện. Tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước từ 32 triệu USD năm 1991 lên 22,5 tỷ USD năm 2009; năm 2014, đạt hơn 55 tỷ USD; đặc biệt, năm 2018, đã đạt khoảng 100 tỷ USD (gấp gần 3.200 lần so với năm 1991). Đến đầu năm 2018, Trung Quốc đã trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam; vừa là nguồn nhập khẩu vừa là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp tăng mạnh và Trung Quốc vẫn là thị trường tiêu thụ rau quả lớn nhất của Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào thương mại song phương giữa hai nước.
Từ con số không, đầu tư của Trung Quốc đến năm 2014 đã đạt tổng số vốn đăng ký xấp xỉ 8 tỷ USD, đưa Trung Quốc lên vị trí thứ 9 trong tổng số 101 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Trong năm 2017, Trung Quốc vươn lên trở thành nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn thứ 4 vào Việt Nam, chưa kể nguồn đầu tư gián tiếp, thông qua trung gian.Các doanh nghiệp Trung Quốc tham gia đầu tư ngày càng nhiều tại Việt Nam.
Hợp tác về quân sự, quốc phòng và an ninh được đẩy mạnh. Hai bên phấn đấu cho sự thống nhất một cách đầy đủ, tự giác nhằm thực hiện phương châm chung của lãnh đạo hai Đảng là giải quyết mọi vấn đề bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế và các hiệp định khu vực đã ký như Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau. Riêng với hai quân đội, cam kết với nhau không sử dụng vũ lực quân sự để xử lý những gì còn khác biệt về vấn đề Biển Đông. Đây là nội dung không bao giờ thiếu và đều được nhất trí trong các cuộc gặp giữa lãnh đạo hai quân đội. Đó là nguyên tắc và chúng ta luôn luôn nỗ lực giữ gìn để Biển Đông sóng yên biển lặng, giữ vững chủ quyền và hòa bình bền vững cho đất nước. Hai bên đã phối hợp chặt chẽ triển khai thực hiện các văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, tăng cường quản lý an ninh, an toàn khu vực biên giới; đạt được những nhận thức chung về kiểm soát bất đồng, duy trì hòa bình, ổn định trên biển và đang tích cực thúc đẩy các cơ chế đàm phán về các vấn đề trên biển.
Trên lĩnh vực văn hóa, thể thao, y tế, khoa học kỹ thuật... giữa hai nước cũng đạt được nhiều thành quả đáng khích lệ. Hai nước đã triển khai nhiều hoạt động giao lưu hữu nghị giữa nhân dân hai nước, các cuộc gặp gỡ giữa các bộ, ngành và địa phương, nhất là giữa các địa phương khu vực biên giới, giữa các thế hệ trẻ hai nước được tổ chức thường xuyên với quy mô lớn, đã góp phần tăng cường sự hiểu biết và củng cố nền tảng hữu nghị giữa nhân dân hai nước.
Hợp tác văn hóa, du lịch, giáo dục và đào tạo tiếp tục được đẩy mạnh. Trung Quốc là quốc gia dẫn đầu về lượng du khách nước ngoài đến Việt Nam. Năm 2017, có hơn 4 triệu lượt du khách Trung Quốc, tăng 48,6%, chiếm hơn 30% tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam (riêng 10 tháng đầu năm 2018, đã có gần 4,2 triệu lượt khách Trung Quốc thăm Việt Nam, tăng 28,8% so với cùng kỳ năm trước). Trong khi đó, hằng năm có khoảng 3 triệu lượt du khách Việt Nam sang Trung Quốc. Việt Nam có hơn 13 nghìn sinh viên đang học tập tại Trung Quốc và Trung Quốc cũng có hàng nghìn sinh viên đang học tập tại Việt Nam.
Trên thực tế, chưa đầy 20 năm sau khi bình thường hóa quan hệ, với thiện chí gác lại quá khứ, hướng tới tương lai và xuất phát từ lợi ích lâu dài, hai nước đã giải quyết thành công 2 trong 3 vấn đề do lịch sử để lại hết sức phức tạp trong quan hệ hai nước. Đó là ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ (25-12-2000) và hoàn thành toàn bộ công tác phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền (31-12-2008). Còn vấn đề Biển Đông đòi hỏi cả hai nước cùng nỗ lực kiên trì tháo gỡ khó khăn. Những diễn biến trong những năm gần đây trên Biển Đông càng cho thấy sự cần thiết phải tôn trọng lợi ích chính đáng, giải quyết vấn đề bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Hai bên cần thực hiện có hiệu quả nhận thức chung quan trọng của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước và “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc”; thúc đẩy các cơ chế đàm phán về vấn đề trên biển trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
Hai bên cần tiếp tục thực hiện nghiêm túc, đầy đủ Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và thực hiện tiến trình quản lý, giải quyết tranh chấp, xung đột ở Biển Đông để hướng tới hoàn tất Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), góp phần thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Trung Quốc ngày càng phát triển cũng như bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không trên Biển Đông và ở khu vực.
Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, cả hai Đảng, hai nước Việt Nam và Trung Quốc đều đứng trước những thời cơ và thách thức mới trong công cuộc đổi mới, cải cách mở cửa và phát triển đất nước. Việt Nam đang ra sức nỗ lực thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trung Quốc đang đẩy mạnh triển khai mục tiêu xây dựng xã hội khá giả toàn diện vào năm 2020. Hơn bao giờ hết, hai bên đều cần môi trường hòa bình, ổn định, phục vụ mục tiêu chiến lược phát triển ở mỗi nước. Việt Nam chân thành mong muốn Trung Quốc phát triển thành công, có vai trò tích cực trong việc bảo vệ hòa bình, ổn định và thúc đẩy sự thịnh vượng ở khu vực châu Á nói riêng và trên phạm vi toàn cầu nói chung. 
Nhân 40 năm cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở vùng biên giới phía Bắc lùi vào lịch sử, chúng ta nhìn lại chặng đường đã qua và cùng gác lại quá khứ để hướng tới một chặng đường mới cho quan hệ hai nước. Trước sau như một, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn coi trọng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Trung Quốc; chân thành mong muốn quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc ngày càng phát triển đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững trong bối cảnh nhiều khu vực trên thế giới đang đầy rẫy phức tạp, diễn biến khó lường. Hai bên cần tiếp tục thúc đẩy hợp tác thực chất, tăng cường sự tin cậy chính trị giữa hai Đảng, hai nước. Cùng đó, các bộ, ngành và địa phương hai nước cần cùng nhau cố gắng thực hiện hiệu quả Chương trình hành động triển khai quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc, đáp ứng nguyện vọng và đem lại lợi ích cho nhân dân hai nước. Để củng cố nền tảng vững chắc cho quan hệ hai nước, hai bên cần tích cực có nhiều hoạt động thiết thực nhằm tăng cường tình cảm hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước, đặc biệt giữa thế hệ trẻ hai nước. Tương lai của mỗi nước cũng như hòa bình, ổn định và phồn vinh của khu vực đòi hỏi quan hệ Việt Nam - Trung Quốc phải phát triển ổn định, lành mạnh.
Tuy nhiên, cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở vùng biên giới phía Bắc năm 1979 cũng nhắc nhở chúng ta rằng: chỉ cho phép chúng ta “gác lại quá khứ”, để hướng tới tương lai mà không được phép “khép lại quá khứ”. Phải tiếp tục thấu suốt bài học đề cao cảnh giác, tự lực tự cường - bài học muôn thủa trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước của cha ông. Chúng ta phải “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc... bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hoá dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”(1). Đồng thời, tỉnh táo ngăn chặn và đẩy lùi những tư tưởng và hành động quá khích biểu tình, bạo loạn gây phương hại tới mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam - Trung Quốc, phá vỡ môi trường hoà bình, ảnh hưởng tới tiến trình phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” của đất nước./.
PGS. TS. Nguyễn Xuân Tú
 Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
------------------
1.                      Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự Thật, H, 2016, tr. 147-148.

http://tuyengiao.vn/dien-dan/van-de-quan-tam/gac-lai-qua-khu-huong-toi-tuong-lai-119017

RÈN LUYỆN BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ ĐỂ PHÒNG, CHỐNG "TỰ DIỄN BIẾN, TỰ CHUYỂN HÓA"


RÈN LUYỆN BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ ĐỂ PHÒNG, CHỐNG
"TỰ DIỄN BIẾN, TỰ CHUYỂN HÓA"
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay thực chất là quá trình biến đổi từ bên trong theo chiều hướng từ đúng sang sai, từ tốt sang xấu, từ tích cực sang tiêu cực, từ tiến bộ sang phản tiến bộ. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đến mức cao hơn là thay đổi lập trường, quan điểm chính trị, đạo đức, lối sống, đi ngược lại lợi ích của Đảng, Nhà nước và nhân dân; cổ súy, ủng hộ, tiếp tay cho các thế lực thù địch, phản động, thậm chí chuyển sang hàng ngũ kẻ thù, chống lại Đảng, Nhà nước và nhân dân.
 “TỰ DIỄN BIẾN” “TỰ CHUYỂN HÓA” LÀ SỰ SUY THOÁI
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên là hệ quả của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống theo chiều hướng ngày càng tăng, tính chất ngày càng nghiêm trọng. Điều đó khiến cho vai trò tiên phong, gương mẫu của họ ngày càng giảm, không đủ “sức miễn dịch”, thiếu “sức đề kháng” trước những tác động tiêu cực trong xã hội, đồng lõa với những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động đối với cách mạng Việt Nam. Đó còn là biểu hiện rõ nhất của bản lĩnh chính trị không vững vàng, từ chỗ ban đầu là mơ hồ ảo tưởng, hoang mang, dao động về tư tưởng chính trị, phai nhạt mục tiêu lý tưởng cách mạng dẫn đến hoài nghi về sự lãnh đạo của Đảng, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội…
Cụ thể hơn, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn biểu hiện ở những việc sẵn sàng tiếp nhận những thông tin trái chiều, những luận điệu ly khai, chống đối, lý luận phản động; phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, đòi thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”; nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ, phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; móc nối, câu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học - nghệ thuật…
Những biểu hiện trên cũng đã được V.I.Lênin chỉ ra từ những năm đầu của thế kỷ XX, dưới các biểu hiện khác nhau của những người đảng viên trong các Đảng dân chủ - xã hội Tây Âu như: tư tưởng cơ hội về chính trị, tư tưởng và tổ chức, khoác áo chủ nghĩa Mác nhưng chống chủ nghĩa Mác, đòi xét lại chủ nghĩa Mác, phủ nhận chủ nghĩa Mác… Đó chính là bọn cơ hội chủ nghĩa, tay sai của giai cấp tư sản.
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ những biểu hiện: “Thấp kém về tinh thần và đạo đức cách mạng… mang nặng chủ nghĩa cá nhân… không có dũng khí cách mạng, ít lo nghĩ về trách nhiệm của mình, không quyết tâm vươn lên phía trước… hững hờ như những người không có lý tưởng,… không có thái độ người làm chủ tập thể, dám nghĩ dám làm”(1); “ít gắn bó với tổ chức, không tin ở lực lượng và trí tuệ của tập thể. Họ sống và làm việc một cách riêng rẽ, không đoàn kết và hợp tác với người khác… tự cao tự đại, vênh vang kiêu ngạo, tự cho mình tài giỏi hơn người… coi thường những quyết định của tổ chức,… coi Đảng như một cái cầu thang để thăng quan phát tài… chỉ lo nghĩ đến lợi ích của riêng mình… phô trương, lãng phí… sống xa hoa hưởng lạc, từ đó mà đi đến tham ô, trụy lạc, thậm chí sa vào tội lỗi”(2), “biến thành người có tội với cách mạng” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái.
Để khắc phục các biểu hiện, hiện tượng đó, Người khẳng định phải: “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” và mỗi “người đảng viên chẳng những phải ra sức rèn luyện và tu dưỡng, trong lúc gian khổ khó khăn, trong lúc thất bại, mà còn và càng phải rèn luyện và tu dưỡng trong lúc thuận lợi, trong lúc thành công”(3).
BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ LÀ SỰ THỂ HIỆN “TÍNH ĐẢNG”
 Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, bản lĩnh chính trị là phẩm chất tuyệt đối cần thiết; là sự thể hiện “tính đảng”; là trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm đều phải: “Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”(4); “quyết tâm suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân…, đó là đạo đức cách mạng, đó là tính Đảng, tính giai cấp”(5). Bản lĩnh chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên thể hiện ở sự kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng - độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định đường lối đổi mới, các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ...
Bản lĩnh chính trị của Đảng còn được thể hiện trong nhận thức và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên; thể hiện ở sự vững vàng, kiên định, không dao động trước mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù; quyết tâm phấn đấu, vượt mọi khó khăn gian khổ để hoàn thành tốt nhiệm vụ, vì lợi ích của Đảng và của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chống phá chế độ của các thế lực thù địch, đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Bản lĩnh chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên không phải tự nhiên mà có. Đó là sản phẩm của quá trình giáo dục, bồi dưỡng, học tập và rèn luyện thường xuyên, kiên trì, bền bỉ trong thực tiễn phong trào cách mạng của mỗi người. Khi mỗi người, trong mọi thời điểm thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, luôn thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình, có tinh thần vững vàng, niềm tin chắc chắn và sự kiên định thì “phú quý không dụ dỗ được ta, nghèo khổ không lay động được ta, oai lực không dọa nạt được ta. Mà khó khăn gì chúng ta cũng vượt qua được, việc gì chúng ta cũng làm được”(6).
PHẢI RÈN LUYỆN BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ
  “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay là do sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, v.v.. Trong đó, có “không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””(7).
V.I.Lênin từng chỉ rõ, các thế lực thù địch không ai có thể đánh đổ được chúng ta, trừ chính những sai lầm của chúng ta và “không một ai trên thế giới này có thể làm mất được uy tín của những người Mácxít cách mạng nếu họ không tự làm mất uy tín của họ”(8). Vì vậy, phải rèn luyện bản lĩnh chính trị để phòng và chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
Theo đó, các cấp ủy cần tập trung thực hiện tốt các biện pháp căn cốt sau:
Một là, tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, lý luận cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông” dẫn tới khuyết điểm và trước hết, nguy hiểm nhất là “khuyết điểm về tư tưởng, tức là bệnh chủ quan” mà “nếu không chữa ngay, để nó lây ra, thì có hại vô cùng”(9). Vì thế, học tập lý luận chính trị, đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị là công việc quan trọng, cần thiết, cấp bách, thường xuyên và lâu dài của mỗi tổ chức, cán bộ, đảng viên. Trau dồi, bồi dưỡng về lý luận chính trị; khắc phục những hạn chế trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng; giảng dạy và học tập nghị quyết của Đảng... sẽ giúp cán bộ, đảng viên hiểu sâu sắc bản chất cách mạng, khoa học; những nguyên lý, quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cộng sản, đạo đức cách mạng; thấu suốt đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Từ đó có nhận thức chính trị, tình cảm chính trị đúng đắn, có thế giới quan, phương pháp luận khoa học. Trong học tập, phải gắn lý luận với thực tiễn, phục vụ nhu cầu công tác, phát huy tính độc lập, tích cực, chủ động, sáng tạo, “học đi đôi với hành”. Đa dạng hóa các phương thức giáo dục lý luận chính trị theo hướng thiết thực, hiệu quả nhằm nâng cao khả năng “tự miễn dịch, tự đề kháng” trước những tác động tiêu cực, trái chiều.
Hai là, thường xuyên giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, phòng và chống chủ nghĩa cá nhân.
Giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, phát huy vai trò nêu gương, thống nhất giữa nói và làm của mỗi cán bộ, đảng viên nhằm tăng cường “sức đề kháng” chống lại “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị phải luôn gắn với “nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” theo phương châm mọi tổ chức, cán bộ, đảng viên phải tự giáo dục và rèn luyện hằng ngày.
Trong đó, gắn thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng và chỉnh đốn Đảng và Quy định số 08-QĐi/TW về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”… Thực hiện tốt chương trình kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đối với việc thực hiện chỉ thị, nghị quyết và đưa vào tiêu chí thi đua, đánh giá xếp loại đảng viên, tổ chức đảng hằng năm.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền; kịp thời nêu gương người tốt, việc tốt, nhân rộng các tập thể, cá nhân tiêu biểu đi liền với nghiêm túc phê phán những biểu hiện tiêu cực, lệch lạc. Tạo không khí thi đua thiết thực trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động ở từng cơ quan, địa phương, đơn vị.
Ba là, đổi mới công tác cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4, 6, 7 khóa XII.
Bố trí, sử dụng cán bộ đúng chỗ, đúng lúc, đúng năng lực, sở trường, đúng việc, đúng người. Lựa chọn và tìm được người tài đức xứng đáng với sự tin tưởng của tập thể và niềm tin nhân dân. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đánh giá, luân chuyển, bố trí cán bộ. Thực hiện chính sách phát triển và trọng dụng nhân tài gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, với đổi mới cơ cấu, chức năng của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể trong hệ thống chính trị. Tiếp tục đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại theo hướng thiếu cái gì đào tạo, bồi dưỡng cái ấy nhằm nâng cao trình độ, năng lực, kỹ năng của cán bộ, đảng viên để làm việc tốt hơn, hiệu quả hơn.
Tăng cường luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý; tăng cường cán bộ cho các lĩnh vực và địa bàn cần thiết. Khắc phục tình trạng cục bộ, lợi ích nhóm trong công tác cán bộ và sự khép kín trong từng vùng, ngành, từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Tạo điều kiện để cán bộ trẻ, có triển vọng, cán bộ trong quy hoạch được rèn luyện trong thực tiễn. Hoàn thiện chính sách phát triển và trọng dụng nhân tài, thu hút nhân tài vào những lĩnh vực quan trọng, không phân biệt những người trong Đảng hay ngoài Đảng, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của tất cả các cấp, ngành trong hệ thống chính trị.
Bốn là, nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng.
Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng - nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị ở cơ sở - để mỗi tổ chức cơ sở đảng, mỗi cán bộ, đảng viên xứng đáng là “người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Cán bộ, đảng viên phải tiên phong gương mẫu, vững vàng trước mọi biến động của tình hình chính trị - xã hội.
Nâng cao chất lượng sinh hoạt của chi bộ, chăm lo xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh; gắn nâng cao chất lượng ra nghị quyết với tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát. Chủ động khắc phục những biểu hiện tiêu cực, sai trái, hạn chế, khuyết điểm. Kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm, hành động thù địch để bảo vệ nền tảng, đường lối, quan điểm của Đảng.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đảng viên chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước; thực hiện Điều lệ Đảng và quy định về những điều đảng viên không được làm; tự soi, tự sửa các biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Có cơ chế để nhân dân tham gia vào công tác xây dựng Đảng; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí truyền thông... trong kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên.
Gắn kiểm tra, giám sát với thi hành kỷ luật Đảng; kiên quyết, nghiêm minh xử lý đối với những cán bộ, đảng viên vi phạm và những tổ chức đảng yếu kém.
Tăng cường kiểm tra trách nhiệm chính trị, vai trò nêu gương của người đứng đầu trong đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và lợi ích nhóm.
Năm là, tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
Chủ động triển khai các biện pháp, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị chức năng thực hiện có hiệu quả công tác phòng ngừa, ngăn chặn, vô hiệu hóa những hoạt động phá hoại chính trị nội bộ. Cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì các cấp luôn nắm vững và thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị, quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ; đồng thời, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo về công tác này. Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho mọi cán bộ, đảng viên; gắn công tác bảo vệ chính trị nội bộ với xây dựng cơ quan, đơn vị, địa bàn cơ sở an toàn, vững chắc về mọi mặt...
 (1), (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, H, 2011, t.14, tr. 468, 469.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.296.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.354.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr.611.
(6), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.538, 273.
(7) Ban Chấp hành Trung ương: Nghị quyết 26-NQ/TW về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2018, tr. 47.
(8) V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, t.44, tr.132.
 Thiếu tướng, PGS.TS. Nguyễn Văn Thế
Phó Giám đốc Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
http://tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/ren-luyen-ban-linh-chinh-tri-de-phong-chong-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa-118589

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...