BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ CỦA ĐẢNG TRƯỚC NHỮNG KHÓ KHĂN, THỬ THÁCH
Gần 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân
ta đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Quá trình Đảng
lãnh đạo cách mạng không phải lúc nào cũng thuận lợi mà là cả một chặng đường dài
phải vượt qua nhiều thách thức, khó khăn. Có những thời điểm lịch sử đặt ra thử
thách “ngặt nghèo”, thậm chí có lúc vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi
tóc”. Lãnh đạo đất nướcvượt qua thử thách trong những thời điểm khó khăn đó là
minh chứng cho bản lĩnh, trí tuệ và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Ngay sau khi ra đời, Đảng đã tổ chức và
lãnh đạo một phong trào quần chúng lớn mạnh, tuy bị đàn áp đẫm máu nhưng đã
“khẳng định trong thực tế quyền lãnh đạo và năng lực lãnh đạo cách mạng của
giai cấp vô sản mà đại biểu là Đảng ta”(1). Trước phong trào cách
mạng, thực dân Pháp đã thi hành chính sách khủng bố hết sức dã man. Nhiều đồng
chí lãnh đạo và hàng nghìnchiến sỹ cộng sản bị bắt, cơ sở Đảng ở Trung ương và
địa phương lần lượt bị phá vỡ. Trước tình hình đó, tâm lý bi quan, dao động
không chỉ xuất hiện trong quần chúng nhân dân mà còn xuất hiện trong hàng ngũ
của những người cách mạng. Tuy nhiên, với bản lĩnh, trí tuệ của mình,Đảng luôn
giữ vững niềm tin tất thắng, ý chí kiên cường bất khuất, giữ vững ý thức tổ
chức và kỷ luật, sắc bén và kịp thời trong công tác tư tưởng để lãnh đạo đưa
cách mạng vượt qua khó khăn, thử thách. Năm 1932 “Chương trình hành động” được
công bố; đến năm 1935, sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất, cơ quan
lãnh đạo Trung ương được khôi phục, tạo điều kiện khôi phục hệ thống tổ chức
Đảng ở địa phương, quy tụ các phong trào, các tổ chức hoạt động phân tán trong
toàn quốc, tạo điều kiện để đưa cách mạng bước vào một giai đoạn mới.
Nhạy bén trước những tác động của cuộc
chiến tranh đế quốc phát xít, nắm vững lý luận khởi nghĩa vũ trang của chủ
nghĩa Mác và nguyên lý “Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng” của
V.I.Lênin, ngay sau khi chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, Hội nghị
Trung ương tháng 11-1939 đã kịp thời có sự phân tích toàn diện, khoa học nguyên
nhân, tác động, các khả năng diễn biến của chiến tranh và quyết định chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược. Sự sắc sảo, nhạy bén chính trị của Trung ương thể
hiện rõ trong kết luận: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không
có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống lại tất ách
ngoại xâm... để tranh lấy giải phóng dân tộc”(2). Như vậy, khi những
điều kiện cho đấu tranh dân sinh dân chủ không còn nữa, Đảng đã kịp thời đưa ra
định hướng chính trị, định hướng tư tưởng cho toàn Đảng, toàn dân phù hợp với
giai đoạn đấu tranh giành chính quyền, đặt nền móng cho quá trình bổ sung, hoàn
chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc. Kết luận này chứng minh sự trưởng
thành trong nhận thức các quy luật khách quan, bản lĩnh vững vàng và tinh thần
chủ động sáng tạo của Trung ương Đảng. Nó chấm dứt tình trạng lúng túng do sự
chuyển biến nhanh chóng và tác động phức tạp của tình hình khi chiến tranh thế
giới bùng nổ, bọn phản động thuộc địa trở mặt đàn áp phong trào cách mạng, ban
bố sắc lệnh giải tán Đảng Cộng sản và các tổ chức quần chúng của Đảng.
Nắm vững thời cơ và chớp thời cơ là điều
kiện hết sức quan trọng để tiến hành một cuộc cách mạng thành công. Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 là một trong những sự kiện thể hiện đầy đủ bản lĩnh, trí tuệ
của Đảng, một mẫu mực trong nghệ thuật lãnh đạo và chớp thời cơ khởi nghĩa.
Cuối năm 1944 đầu 1945, trước những diễn biến mau lẹ của tình hình thế giới và
trong nước, đòi hỏi Đảng với tư cách là lực lượng lãnh đạo duy nhất phải đưa ra
được quyết định đối với vận mệnh dân tộc. Trong lúc này, nếu không có trí tuệ
và bản lĩnh chính trị vững vàng, chắc chắn sẽ rơi vào lúng túng, do dự. Thấm
nhuần lời dạy của V.I.Lênin: “Lịch sử sẽ không tha thứ cho những người cách
mạng có thể thắng lợi hôm nay (và chắc chắn sẽ thắng lợi hôm nay) mà lại để
chậm trễ; vì để đến ngày mai, không khéo họ sẽ mất nhiều, không khéo họ sẽ mất
tất cả”(3). Sau khi phân tích tình hình, Hội nghị toàn quốc của Đảng
(13-8-1945) đã nhận định: “cơ hội tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết
định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền ngay sau khi phát xít Nhật đầu
hàng và trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Dự báo đúng thời cơ, kịp thời
phát động toàn dân khởi nghĩa, kiên quyết trong những giờ phút quyết định của
lịch sử là một trong những đỉnh cao của nghệ thuật lãnh đạo cách mạng của Đảng
trong Cách mạng Tháng Tám. Nhờ vậy cách mạng đã giành được thắng lợi trong thời
gian ngắn và ít tổn thất, đồng thời đã thay đổi vị thế đất nước khi tiếp quân
Đồng minh - một trong những nhân tố quan trọng góp phần hạn chế và đi đến đập
tan âm mưu, thủ đoạn của các lực lượng dưới danh nghĩa quân Đồng minh vào Việt Nam
để giải giáp quân phát xít Nhật.
Sau Cách mạng Tháng Tám, bên
cạnh những thuận lợi căn bản, nền độc lập non trẻ phải đương đầu với muôn vàn
khó khăn, thử thách, nhất là những âm mưu, toan tính đen tối của thù trong,
giặc ngoài, vận mệnh dân tộc lúc này như “ngàn cân treo sợi tóc”. Một lần nữa
bản lĩnh, trí tuệ của Đảng lại được thể hiện trước những thử thách hiểm nghèo
của lịch sử. Xuất phát từ đặc điểm, tính chất và điều kiện lịch sử cụ thể của
thời kỳ 1945-1946, việc kiên quyết giữ vững nguyên tắc chiến lược, nhưng mềm
dẻo, linh hoạt trong sách lược trở thành vấn đề sống còn đối với chính quyền
cách mạng. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về sự thống nhất giữa chiến lược và
sách lược, trong đó sách lược phải phụ thuộc vào chiến lược, là những bước
trung gian, quá độ, để chuyển hóa lực lượng, giành thắng lợi từng bước để hướng
tới giành thắng lợi cuối cùng, Đảng chủ trương lúc thì tạm thời “hòa hoãn” với
quân đội Tưởng Giới Thạch để tập trung đối phó với thực dân Pháp; lúc lại
chuyển sang “hòa hoãn” với thực dân Pháp để gạt gần 20 vạn quân Tưởng về nước.
Trong cuộc đấu tranh chính trị, khi kẻ thù đông mạnh hơn ta nhiều mặt, bên cạnh
việc nhường một số ghế trong Quốc hội và Chính phủ cho các đảng phái đối lập
thì việc tuyên bố “tự giải tán” của Đảng ta ngày 11-11-1945 (thực chất là rút
vào hoạt động bí mật) là một sách lược phù hợp với sự lãnh đạo trong thời kỳ
đất nước đang diễn ra cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp vô cùng gay
gắt. Do đó đã hạn chế tới mức thấp nhất sự phá hoại của các lực lượng phản
động, giữ vững chính quyền cách mạng non trẻ trước cơn sóng gió.
Dã tâm xâm lược của thực dân Pháp đã đặt
dân tộc ta trước thử thách mới: hoặc chiến đấu để giữ vững nền độc lập, hoặc
trở lại kiếp nô lệ một lần nữa. Khi mà thiện chí hòabình và mọi sự nhân nhượng
của Đảng không được thực dân Pháp đáp lại, khi mà lực lượng kháng chiến đã được
chuẩn bị về căn bản và chúng ta không thể tiếp tục nhân nhượng, ngày
19-12-1946, Đảng phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đây là
một quyết định hết sức đúng đắn và kịp thời, thể hiện sự bình tĩnh, tự tin và
chủ động của Đảng. Với bản lĩnh chính trị vững vàng, niềm tin sắt đá vào sức
mạnh của cả dân tộc và quyết tâm “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm
hoạch định được đường lối kháng chiến độc lập, sáng tạo, khơi dậy sức mạnh của
toàn dân tộc, khai thác và động viên được sự ủng hộ và giúp đỡ của quốc tế. Đó
là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính. Đường lối trên đã xử lý đúng đắn mối quan hệ dân tộc và giai cấp, giữa
chiến tranh và cách mạng, giữa dân tộc và quốc tế; không rập khuôn, giáo điều
và không ngừng được bổ sung, phát triển tại các thời điểm quan trọng, tạo ra
những bước chuyển lớn, đưa kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng diễn ra trong một bối cảnh quốc tế và
trong nước cực kỳ phức tạp. Ở trong nước, sau năm 1954, đất nước tạm thời bị
chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Trong 4 năm từ 1955
đến 1958, cách mạng miền Nam tổn thất đến 9/10 số cán bộ,đảng viên do chính
sách khủng bố của kẻ thù. Cách mạng Việt Nam phải đương đầu với đế quốc Mỹ, một
kẻ thù giàu mạnh; mặt khác, sự bất đồng trong phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế ngày càng sâu sắc dẫn đến sự phân liệt giữa các đảng... Tình hình đó đã
ảnh hưởng trực tiếp đến việc hoạch định đường lối cho cách mạng Việt Nam. Đấu
tranh bằng phương pháp nào để đưa cách mạng miền Nam thoát ra khỏi cảnh “nước
sôi lửa bỏng” nhưng không đi ngược lại xu thế giải quyết mâu thuẫn của thế
giới, góp phần giải quyết những bất đồng và tranh thủ sự giúp đỡ của các nước
xã hội chủ nghĩa... đó là những câu hỏi khó mà thực tiễn đặt ra. Trải qua một
quá trình tìm tòi, đúc rút kinh nghiệm lịch sử,Đảng đã trả lời câu hỏi đó tại
Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (1959) với việc quyết định đường lối và phương
pháp cách mạng miền Nam. Quyết định lịch sử đó đánh dấu một bước nhảy vọt quan
trọng của cách mạng miền Nam, từ giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công,
mở đầu bằng phong trào Đồng khởi. Thắng lợi của phong trào Đồng khởi đã chứng
minh một thành công điển hình của Đảng về phương pháp tiến hành bạo lực cách
mạng, về nghệ thuật khởi đầu cuộc chiến tranh cách mạng một cách độc đáo, khéo
léo, phù hợp với năng lực cách mạng và làm yên lòng bạn bè quốc tế. Một lần nữa
trí tuệ và bản lĩnh chính trị của Đảng lại được lịch sử ghi nhận ở một trong
những khúc quanh khó khăn, phức tạp nhất.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do lạc hậu
về nhận thức lý luận, sai lầm vừa “tả” khuynh, vừa “hữu”khuynh trong tổ chức
thực hiện, nên sau hàng chục năm xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư duy cũ xơ cứng,
giáo điều, đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Khủng hoảng kinh
tế - xã hội lên đến đỉnh điểm, giá cả tăng hơn 300%, lạm phát đạt mức kỷ lục
774,4%, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Tuy nhiên, với trí tuệ và bản lĩnh
chính trị vững vàng, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986)
đã khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện đất nước, từng bước hình thành tư duy
mới, quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
trên đất nước ta. Ngay sau Đại hội VI, cách mạng lại phải đối mặt với những khó
khăn, thách thức tưởng chừng không thể vượt qua. Nhiều nước xã hội chủ nghĩa
lâm vào khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng. Việt Nam không còn sự ủng hộ
truyền thống, lại chịu sự bao vây, cấm vận, chống phá của các thế lực thù địch.
Lúc này trong Đảng và ngoài xã hội xuất hiện nhiều luồng tư tưởng khác nhau,
thậm chí đối lập nhau về đổi mới hay không đổi mới, đổi mới bằng con đường
nào... Trong hoàn cảnh đó, nếu thiếu bản lĩnh, trí tuệ chỉ một quyết định sai
lầm cũng có thể đưa đến những nguy cơ đối với vận mệnh của Đảng, của dân tộc.
Trước tình hình phức tạp đó, Hội nghị Trung ương 6 khóaVI (3-1989) đã kịp thời
đề ra những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo đổi mới, kiên quyết thực hiện đường lối
đổi mới. Có thể thấy rằng, những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo đổi mới thể hiện rõ
trí tuệ và bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng ta, bảo đảm cho sự nghiệp đổi
mới thành công, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội,
xét lại, bảo vệ và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin.
Từ cuối năm 2007,thế giới diễn ra khủng
hoảng tài chính dẫn tới suy thoái kinh tế toàn cầu. Ở nước ta, lạm phát gia
tăng, giá cả leo thang, chỉ số tăng giá tiêu dùng năm 2008 lên tới 22,97%.
Trước những khó khăn, thách thức mới, Đảng kịp thời đưa ra những chủ trương,
giải pháp nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, chủ động phòng ngừa lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng hợp lý, nâng cao chất lượng nền kinh
tế, bảo đảm an sinh xã hội, đẩy mạnh xóađói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bản lĩnh, trí tuệ của Đảng còn được thể
hiện ở thái độ dám thừa nhận và kiên quyết sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm.
Trong 88năm lãnh đạo cách mạng, đã có lúc do ấu trĩ, nóng vội, “tả” khuynh, dẫn
đến việc Đảng phạm sai lầm, khuyết điểm. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Một
Đảng mà giấu giếm khuyết điểm là một Đảng hỏng, nếu Đảng phạm sai lầm thì phải
công khai thừa nhận sai lầm, tìm nguyên nhân sai lầm, đề ra biện pháp sửa chữa
thì đó là dấu hiệu của một Đảng chân chính”(4)Thực tiễn chứng minh,
Ðảng không che giấu những khuyết điểm, không sợ phê bình, rất nhiều lần Đảng tự
phê bình về khuyết điểm của mình để quyết tâm sửa chữa và sửa chữa thành công:
Tháng 5-1931,Đảng đã có Chỉ thị phê bình những quan điểm sai lầm “tả” khuynh
của Xứ ủyTrung Kỳ trong chủ trương về vấn đề thanh Đảng; trong giai đoạn
1936-1939, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã viết tác phẩm “Tự chỉ trích”
về khuyết điểm của Đảng trong nhận thức và vận dụng lý luận chủ nghĩa
Mác-Lênin, về thái độ của đảng viên trong đấu tranh tự phê bình và phê bình...
Năm 1947, khi nhìn thấy những nguy cơ Đảng cầm quyền dễ phạm sai lầm, Chủ tịch
Hồ Chí Minh viết tác phẩm“Sửa đổi lối làm việc”;năm 1952,Đảng thực hiện cuộc chỉnh
quân, chỉnh huấn ngay trong kháng chiến; năm 1956, Đảng đã nhận lỗi trước nhân
dân về sai lầm trong cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức, rồi kiên quyết sửa
sai, biết cách sửa sai có hiệu quả; năm 1961,tiếp tục thực hiện chỉnh huấn khi
miền Bắc đang xây dựng chủ nghĩa xã hội; năm 1963 là cuộc vận động lớn“3 xây, 3
chống”; năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài: “Nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân”;đến Đại hội VI, Đảng dũng cảm nhìn thẳng vào sự
thật, nói rõ sự thật về thực trạng đất nước và khuyết điểm trong lãnh đạo kinh
tế, rồi kiên quyết, dũng cảm tiến hành công cuộc đổi mới.
Bản lĩnh, trí tuệ của Đảng được hình
thành, tôi luyện và thử thách qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng. Vì
vậy, nó phải không ngừng được củng cố, bồi đắp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng. Hiện tại, bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước
đang đặt Đảng ta đứng trước nhiều vấn đề mới và hết sức phức tạp. Không ít vấn
đề lý luận và thực tiễn chưa đủ sáng tỏ; trình độ nhận thức, trí tuệ có mặt còn
hạn chế;công tác xây dựng Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên còn những yếu kém;
các thế lực thù địch đang tìm mọi cách tiến công phá hoại sự nghiệp cách mạng,
ra sức xuyên tạc, vu cáo, kích động chia rẽ nội bộ Đảng, hòng làm tan rã Đảng
từ bên trong. Bên cạnh đó, thực tiễn 30 năm đổi mới và phát triển cũng làm xuất
hiện những mối quan hệ lớn đòi hỏi Đảng phải nắm vững và giải quyết. Trong tình
hình ấy, nếu Đảng không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng; không thống nhất
cao về ý chí, hành động; không gương mẫu, trong sạch về đạo đức, lối sống;
không chặt chẽ về tổ chức; không được nhân dân ủng hộ; không có cơ sở chính trị
- xã hội vững chắc thì không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Với
phương châm: “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, khách quan, không
nể nang, né tránh”, Hội nghị Trung ương 4 khóaXI đã ra Nghị quyết số 12-NQ/TW
về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay”; Hội nghị
Trung ương 4 khóaXI đã ra Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ nhằm tiếp
tục xây dựng Đảng ta thật sự vững vàng về chính trị và tư tưởng, thống nhất cao
về ý chí và hành động, trong sạch về đạo đức và lối sống, chặt chẽ về tổ chức,
đủ sức lãnh đạo đưa đất nước ngày càng phát triển, xứng đáng với lòng tin yêu
của Nhân dân.
_______________
(1) Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang
của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi
mới, NxbSự thật, Hà Nội, 1975, tr.386
(2)Văn kiện ĐảngToàn tập, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.6, tr.536
(3)V.I.LêninToàn tập, Nxb
Tiến bộ, Mátxcơva,1976, t.34, tr.571.
(4)Hồ Chí MinhToàn tập, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.5, tr.261.
TS
Nguyễn Quang Ngọc
Trưởng
khoa Xây dựng Đảng,
Trường
Chính trị Trần Phú Hà Tĩnh
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-dan/item/2756-ban-linh-chinh-tri-cua-dang-truoc-nhung-kho-khan-thu-thach.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét