Thứ Năm, 12 tháng 11, 2020

QUYỀN CON NGƯỜI TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG Ở VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI CHUẨN MỰC QUỐC TẾ

 


Hiện nay, có một số người lợi dụng không gian mạng, thường xuyên phát tán thông tin sai trái, nhằm chống phá Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Khi bị các cơ quan chức năng nhắc nhở, bắt giữ, xử lý theo quy định của pháp luật, lập tức họ lu loa rằng, Luật An ninh mạng của Việt Nam hà khắc, bóp chết tự do, dân chủ. Nhưng họ đã nhầm! Quyền con người trên không gian mạng ở Việt Nam hoàn toàn phù hợp với chuẩn mực quốc tế về nhân quyền.

1. Không gian mạng

Hiện nay, có nhiều quan niệm, cách tiếp cận khác nhau về không gian mạng hay còn gọi là không gian ảo. Đây là môi trường nhân tạo, con người không trực tiếp gặp nhau, nhưng lại có thể trao đổi thông tin, liên lạc với nhau qua một hệ thống mạng, được kết nối toàn cầu - mạng toàn cầu, trên cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước, các vùng, khu vực và toàn cầu. Khoản 3, Điều 1, Luật An ninh mạng năm 2018 của nước ta xác định: “Không gian mạng là mạng lưới kết nối của cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu; là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời gian”.

Nghiên cứu về không gian mạng và môi trường mạng ở nước ta cho thấy, hai quan niệm này rất gần nhau. Khoản 3, Điều 4, Luật Công nghệ thông tin năm 2006 quan niệm: “Môi trường mạng là môi trường trong đó thông tin được cung cấp, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông qua cơ sở hạ tầng thông tin”. Mà “Cơ sở hạ tầng thông tin là hệ thống trang thiết bị phục vụ cho việc sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số, bao gồm mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính và cơ sở dữ liệu” (Khoản 4, Điều 4, Luật Công nghệ thông tin).

Như vậy, không gian mạng hay môi trường mạng, cách nói khác nhau, nhưng về bản chất không khác nhau vì đều là không gian ảo, nơi con người có thể liên lạc, kết nối, trao đổi, giao tiếp với nhau. Sự phát triển không gian mạng (môi trường mạng) phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng thông tin ở mỗi quốc gia. Hiện nay, ở Việt Nam nói riêng, thế giới nói chung, không gian mạng rất rộng lớn, hệ thống các mạng đang được sử dụng bao gồm: trình duyệt web (Google, Chrome, Mozilla Firefox , Opera, Safari...); trang web tin tức (VnExpress, Tin tức, Zing news, VTC News...); mạng xã hội (Facebook, Twitter, YuMe, Instagram, Zing me, Youtube, Skype, WeChat, Google Plus, Go.vn...); tìm kiếm, tra cứu (Google map, Bing, Google Docs...); tiện ích (chuyển tiền, việc làm, email, thiệp điện tử...); trang mạng mua bán, kinh doanh, học tập, âm nhạc, giải trí1.

2. Quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và việc hạn chế quyền của cá nhân, công dân trên không gian mạng

Quyền của công dân trên không gian mạng. Môi trường mạng là không gian rộng lớn, cá nhân, công dân và bất kỳ cơ quan, tổ chức nào cũng đều có thể tự do bày tỏ quan điểm chính kiến, kết nối trao đổi với nhau. Đó là quyền tự do của cá nhân: quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin (tự do tìm kiếm, tiếp nhận và trao đổi thông tin) trên môi trường mạng. Đây là quyền tự do cơ bản của công dân được pháp luật quốc tế, Hiến pháp, pháp luật Việt Nam tôn trọng và bảo vệ.

Điều 11, Luật Báo chí năm 2016 quy định quyền tự do ngôn luận trên báo chí (báo giấy, báo hình, báo nói, báo chí điện tử - không gian mạng). Các quyền này của công dân bao gồm: (1). Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; (2). Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; (3). Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác.

Tương tự quyền tự do bày tỏ quan điểm, chính kiến của công dân trên không gian mạng, công dân có quyền tiếp cận thông tin từ chính môi trường mạng. Luật Tiếp cận thông tin quy định, quyền của công dân được cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời; khiếu nại, khởi kiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về tiếp cận thông tin. Luật An ninh mạng quy định một trong những nguyên tắc bảo vệ an ninh mạng là “bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo điều kiện cho cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trên không gian mạng” (Khoản 3, Điều 4, Luật An ninh mạng).

Như vậy, với hành lang pháp lý hiện nay, cá nhân, công dân có quyền tự do được sử dụng không gian mạng vì lợi ích cá nhân; có quyền được bảo vệ các quyền và tự do của mình từ phía các cơ quan công quyền và chủ động tự thực hiện (thực hành) quyền tự do cá nhân trên không gian mạng.

Nghĩa vụ, trách nhiệm công dân trên không gian mạng. Phù hợp với chuẩn mực quốc tế, mỗi cá nhân, công dân trong khi sử dụng, thực hiện các quyền và tự do của mình thì phải có nghĩa vụ, trách nhiệm đối với cộng đồng, xã hội, đối với quốc gia, dân tộc mà mình đang sống. Nghĩa là khi sử dụng, thực hiện quyền và tự do cá nhân không được làm ảnh hưởng hay xâm phạm an ninh quốc gia; trật tự công cộng, đạo đức xã hội; quyền và tự do của người khác. Vấn đề này theo chuẩn mực quốc tế được gọi là hạn chế quyền con người để bảo đảm vì lợi ích chung của xã hội, vì lợi ích cộng đồng trong một xã hội dân chủ; vì các lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức xã hội, vì quyền và tự do của người khác.

Cụ thể hóa nguyên tắc hạn chế thực hiện quyền và tự do cá nhân, Luật An ninh mạng và các luật khác có liên quan đã quy định bằng các hành vi bị nghiêm cấm. Trong đó, Luật An ninh mạng quy định 6 nhóm hành vi bị nghiêm cấm (Điều 8) bao gồm:

Thứ nhất: - Sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, gồm: (1). Đăng tải, phát tán thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 16 Luật An ninh mạng) và hành vi gián điệp mạng; xâm phạm bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trên không gian mạng (quy định tại khoản 1, Điều 17 Luật An ninh mạng); (2). Chiếm đoạt tài sản; tổ chức đánh bạc, đánh bạc qua mạng internet; trộm cắp cước viễn thông quốc tế trên nền internet; vi phạm bản quyền và sở hữu trí tuệ trên không gian mạng; (3). Giả mạo trang thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức, cá nhân; làm giả, lưu hành, trộm cắp, mua bán, thu thập, trao đổi trái phép thông tin thẻ tín dụng, tài khoản ngân hàng của người khác; phát hành, cung cấp, sử dụng trái phép các phương tiện thanh toán; (4). Tuyên truyền, quảng cáo, mua bán hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục cấm theo quy định của pháp luật; (5). Hướng dẫn người khác thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; (6). Hành vi khác sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội;

- Tổ chức, hoạt động, câu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

- Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc;

- Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác;

- Hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng;

- Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội.

Thứ hai: Thực hiện tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm mạng; gây sự cố, tấn công, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, làm sai lệch, gián đoạn, ngưng trệ, tê liệt hoặc phá hoại hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.

Thứ ba: Sản xuất, đưa vào sử dụng công cụ, phương tiện, phần mềm hoặc có hành vi cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện điện tử; phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện điện tử; xâm nhập trái phép vào mạng viễn thông, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu, phương tiện điện tử của người khác.

Thứ tư: Chống lại hoặc cản trở hoạt động của lực lượng bảo vệ an ninh mạng; tấn công, vô hiệu hóa trái pháp luật làm mất tác dụng biện pháp bảo vệ an ninh mạng.

Thứ năm: Lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi.

Thứ sáu: Hành vi khác vi phạm quy định của Luật này.

3. Luật pháp quốc tế về nhân quyền

Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người năm 1948 và hai Công ước quốc tế về quyền con người năm 1966 (Công ước về quyền dân sự và chính trị - ICCPR; Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa - ICESCR), cùng các nghị định thư bổ sung tạo thành Bộ luật quốc tế về quyền con người - là nền tảng của hệ thống pháp luật quốc tế về quyền con người hiện nay. Điều 2 của bản Tuyên ngôn năm 1948 quy định quyền con người: “không phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay các quan điểm khác, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội…”2. Đồng thời, quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của cá nhân: “1. Mọi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng là nơi duy nhất mà ở đó nhân cách của bản thân họ có thể phát triển tự do và đầy đủ. 2. Trong khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”3.

Từ nguyên tắc quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm nêu trong bản Tuyên ngôn, hai Công ước năm 1966 đã phát triển và cụ thể hóa bằng các quy định cụ thể theo hướng xác định những quyền nào phải được thực hiện ngay. Đó là các quyền đòi hỏi nhà nư­ớc phải bảo đảm thực hiện ngay lập tức. Vì đấy là ranh giới, là “ngư­ỡng” của sự có hay không có quyền con ng­ười - quyền tuyệt đối. Quyền cần được thực hiện dần dần, từng bước, là các quyền đòi hỏi nhà nước từng bước có chính sách cụ thể để nâng cao đời sống, cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân - quyền tương đối và các quyền có thể bị hạn chế - hạn chế quyền.

Nguyên tắc hạn chế quyền được quy định trong cả hai Công ước năm 1966 như sau:

Điều 4, ICECSR quy định nguyên tắc các quốc gia thành viên có thể đặt ra những giới hạn trong việc thực hiện quyền con người, với các điều kiện: Những hạn chế đó phải được quy định trong luật; không được trái với bản chất của các quyền có liên quan và vì lý do duy nhất nhằm thúc đẩy lợi ích chung trong một xã hội dân chủ. ICCPR quy định cụ thể các quyền con người có thể bị hạn chế và các lý do cho việc có thể áp đặt các hạn chế bao gồm: An ninh quốc gia; Trật tự công cộng; Đạo đức và sức khỏe cộng đồng; Quyền và tự do của người khác.

Trên cơ sở các nguyên tắc chung như trên, cả hai Công ước quy định cụ thể một số quyền bị hạn chế; trong đó, có quyền tự do ngôn luận (Khoản 2, 3, Điều 19 ICCPR) quy định: “2. Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tùy theo sự lựa chọn của họ.

3. Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để:

a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác,

b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”.

4. Sự phù hợp giữa quyền con người trên không gian mạng ở Việt Nam với chuẩn mực quốc tế về nhân quyền

Viện dẫn nội dung cơ bản trên cho thấy, giữa luật pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế về quyền con người cho thấy, cả hai đều có những điều khoản quy định quyền con người gồm: quyền tuyệt đối, quyền tương đối và quyền bị hạn chế. Những quyền bị hạn chế của Việt Nam được luật pháp quy định đều vì: An ninh quốc gia; Trật tự công cộng; Đạo đức và sức khỏe cộng đồng; Quyền và tự do của người khác nên phù hợp với luật pháp quốc tế về nhân quyền.

Vậy nên, không có bất cứ lý do gì, những kẻ vi phạm pháp luật Việt Nam trên không gian mạng lại lu loa, lớn tiếng rằng, Việt Nam vi phạm tự do ngôn luận, vi phạm dân chủ, nhân quyền, “bóp chết” những tiếng nói “dân chủ” hay cái gọi là “tù nhân lương tâm”. Thực chất, đây là những người vi phạm pháp luật Việt Nam nên họ phải chịu hình phạt theo quy định của pháp luật. Trong một xã hội dân chủ thì pháp luật phải được thượng tôn, điều đó đúng với mọi quốc gia dân chủ, không riêng gì Việt Nam.

_____________

1 - http://tuyengiao.vn -  Nâng cao ý thức làm chủ và bảo vệ không gian mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

2 - Viện nghiên cứu quyền con người - Một số văn kiện của Liên hợp quốc về quyền con người trong quản lý tư pháp, Nxb CAND, H. 2009, tr. 14.

3 - Sđd, tr. 14.

http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/quyen-con-nguoi-tren-khong-gian-mang-o-viet-nam-phu-hop-voi-chuan-muc-quoc-te/15853.html

NHỐT QUYỀN LỰC TRONG “LỒNG CƠ CHẾ”

 


I. Quyền lực và sự tha hóa quyền lực

II. Quan điểm của Đảng ta về kiểm soát quyền lực và những hiệu ứng tích cực

III. Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực đủ mạnh

Phải nhốt quyền lực vào trong cái “lồng cơ chế”. Cái “lồng cơ chế” đó chính là kỷ luật của Đảng, hệ thống pháp luật của Nhà nước. Đó là quốc pháp. Trong Đảng, thì Cương lĩnh, đường lối, điều lệ Đảng; ngoài xã hội thì quốc pháp; trung tâm là lòng dân và sự tín nhiệm của Nhân dân đối với đội ngũ công bộc của dân. Như vậy thì không ai, không gì sai phạm có thể lọt được cả.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, thời gian qua, cả hệ thống chính trị tham gia cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thực thi quyền lực Nhà nước, để “nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế, luật pháp” nhằm bảo đảm cho quyền lực Nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Tuy nhiên, việc chống tham nhũng, tha hóa quyền lực ở nước ta còn tồn tại những hạn chế nhất định. Để khắc phục, cần phải xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực đủ mạnh, với những chủ trương, giải pháp toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế, pháp luật”, bảo đảm cho quyền lực Nhà nước được thực thi theo Hiến pháp, pháp luật; theo đó, cần tập trung thực hiện tốt những giải pháp trọng tâm sau:

Một là, trên cơ sở quyền lực Nhà nước là thống nhất, cần xác định rõ hơn cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực Nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp bằng việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền, bảo đảm cho mô hình tổ chức công quyền trong Nhà nước pháp quyền có sự phân cấp, phân quyền của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quy định rõ hơn cơ chế phối hợp trong việc thực hiện và kiểm soát các quyền ở các cấp chính quyền, phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương.

Nói Nhà nước pháp quyền mà không đề cập quan hệ chế ước lẫn nhau giữa ba quyền thì chỉ là nửa vời; nếu còn né tránh thì sẽ tồn tại loại quyền lực không bị kiểm soát, dẫn đến sự tha hóa quyền lực. Do vậy, xây dựng phương thức kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước với nhau, gắn kết chặt chẽ với nhau hợp thành một chỉnh thể thống nhất là nhằm ngăn ngừa, loại bỏ và triệt tiêu mọi sự tha hóa và thoái hóa quyền lực, bảo đảm các cơ quan quyền lực Nhà nước, hoặc thực thi quyền lực Nhà nước vừa thống nhất phối hợp hành động, vừa kiểm soát lẫn nhau để không một cơ quan nào có thể lạm quyền. Thực tiễn tình hình tha hóa quyền lực, tham nhũng ở nhiều nước, kể cả Việt Nam, chủ yếu rơi vào quan chức hành pháp, vậy mà ở nước ta (có giai đoạn) người đứng đầu cơ quan hành chính của từng cấp chính là người đứng đầu cơ quan chống tham nhũng ở cấp đó. Để khắc phục sự bất cập này, cần đẩy mạnh xây dựng một Chính phủ liêm chính, kiến tạo, phát triển và có cơ chế đối thoại của người đứng đầu các cơ quan nhà nước với người dân, “để lắng nghe lòng dân, kịp thời sửa sang chính sách và điều chỉnh phương pháp quản lý, điều hành”; không cho phép ai, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng nào đứng trên, đứng ngoài Hiến pháp và pháp luật.

Hai là, tiếp tục nghiên cứu, xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và thực hiện tốt cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật nói chung và pháp luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí nói riêng, nhất là trong công tác cán bộ, lĩnh vực quản lý đất đai, kinh tế, tài chính, thanh tra, kiểm tra,... theo phương châm: không thể tham nhũng, không dám tham nhũng, không muốn tham nhũng. Để “không muốn tham nhũng” phải cải cách tiền lương, “không dám tham nhũng” phải tăng nặng chế tài, “không thể tham nhũng” phải bịt kín các kẽ hở của luật, công khai, minh bạch, kiểm soát được tài sản của cán bộ, công chức. Bởi, nếu bị trừng trị nặng thì sẽ không dám tham nhũng. Lương cao thì sẽ không muốn tham nhũng vì có thể mất cả sự nghiệp. Nhưng lương thấp, không đủ nuôi gia đình, trong khi lại có người đưa hối lộ, muốn đấu tranh vượt qua cũng khó. Nên muốn phòng, chống tham nhũng hiệu quả cần có chế độ thỏa đáng cho cán bộ công quyền. Do đó, phải tiến hành đồng bộ, giải quyết triệt để những vấn đề còn tồn đọng, không chỉ trong Luật Phòng, chống tham nhũng mà cả các luật liên quan, nếu không thay đổi thì chắc chắn tình trạng tha hóa, tham nhũng sẽ tiếp tục gia tăng. Trong thời gian tới, cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, đẩy mạnh cải cách hành chính, sắp xếp bộ máy gọn nhẹ và công khai, minh bạch các hoạt động trong cơ quan, đơn vị. Hoàn thiện tổ chức và triển khai có hiệu quả hoạt động của cơ quan phòng, chống tham nhũng từ Trung ương đến địa phương. Các ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị phải xây dựng và thực hiện hiệu quả chương trình hành động phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở ngay cơ quan, đơn vị mình. Trong thực hiện, cần xác định công khai, minh bạch trong các cơ quan công quyền; giám sát, kiểm soát chặt chẽ thu nhập và tài sản của tổ chức, cá nhân. Đẩy mạnh phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh các vụ án liên quan đến tham nhũng, trên tinh thần không có vùng cấm; không để dư luận cho rằng chúng ta làm chưa nghiêm, chưa đến nơi đến chốn những cán bộ tha hóa, phạm tội tham nhũng. Đồng thời, cải cách tiền lương gắn với khoán chi hành chính, xây dựng cơ chế giám sát bên trong bên ngoài để cán bộ, công chức không thể, không dám và không muốn tham nhũng.

Ba là, thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, của nhân dân và cơ quan truyền thông trong giám sát quyền lực. Đảng, Nhà nước cần tiếp tục sửa đổi và hoàn thiện cơ chế, pháp luật và chính sách, đáp ứng các điều kiện để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân tham gia phản biện xã hội trong việc giám sát quyền lực. Phát huy tốt vai trò của báo chí và truyền thông, các thiết chế Quy chế Dân chủ cơ sở, bảo đảm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân biết sử dụng quyền lực của mình một cách hiệu quả, từ việc lựa chọn người đại diện cho mình đến giám sát, phản biện xã hội; từ việc khiếu nại, tố cáo đến biểu thị ý kiến đúng pháp luật. Nhà nước kiểm soát các biểu hiện dân chủ quá trớn, tự do vô lối bằng các chính sách, pháp luật nhằm hạn chế tính tự phát, tâm lý đám đông tiêu cực trong các xung đột xã hội. Thực hiện quyền của mình, nhân dân kiểm soát Nhà nước thông qua hệ thống bầu cử, sử dụng các công cụ giám sát khác, như: giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, quyền khiếu nại, tố cáo, công tác thanh tra, kiểm toán,… để kiểm soát quyền lực nhà nước. Tận dụng thế mạnh của các kênh và hình thức thông tin đa dạng, phong phú nhằm đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền đối nội và đối ngoại về quan điểm, chính sách và thành tựu đã đạt được trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tha hóa quyền lực. Từ đó, nâng cao trách nhiệm, củng cố quyết tâm, phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, xây dựng và thực hiện những biện pháp hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống sự tha hóa quyền lực, “lợi ích nhóm”, “nhóm lợi ích” tiêu cực; đồng thời, phản bác có hiệu quả các luận điệu vu cáo, xuyên tạc vấn đề này đối với nước ta.

Bốn là, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ liêm chính, thực sự là công bộc của nhân dân. Đây là nội dung quan trọng nhất, bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” và “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Do vậy, phải quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là người đứng đầu, không để xảy ra tha hóa quyền lực, tham nhũng, “lợi ích nhóm”. Việc kiểm soát quyền lực trước tiên thuộc về cơ chế tự kiểm soát của mỗi cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Họ phải tự thấy rõ đó là quyền lực của nhân dân trao cho, ủy quyền cho họ thực hiện vì mục đích chung, vì lợi ích của nhân dân; không phải là quyền lực riêng của họ, nên phải thực hiện đúng, đủ quyền lực, thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ được trao, không được lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân. Từ đó, tích cực tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu để trở thành người thực sự có “tâm”, có “tầm”, vượt lên chính mình và ma lực cám dỗ của quyền lực, đồng tiền. Đặc biệt, các cấp ủy, chi bộ cần phát huy dân chủ, đề cao tinh thần tự phê bình và phê bình đấu tranh kiên quyết với mọi biểu hiện tha hóa quyền lực, tham nhũng của cán bộ, đảng viên. Bởi, chi bộ là nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, sàng lọc đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.

Thực tế, những cán bộ tha hóa biến chất không chỉ là “những bầy sâu” xuất hiện ở hầu hết các lĩnh vực, “ăn không từ thứ gì”, mà ở một số lĩnh vực, nó còn thao túng cả chính sách, thậm chí cả công tác cán bộ; để vợ, chồng, con cái, người thân nhúng tay, can thiệp, điều hành “ghế” quyền lực của mình. Điều đáng sợ và cực kỳ nguy hiểm cho Đảng là: những cán bộ tha hóa, biến chất không chỉ vi phạm pháp luật một thời gian dài nhưng vẫn được cất nhắc lên vị trí cao hơn, mà họ còn có thể cất nhắc đệ tử ruột của mình “nối ngôi”. Và câu chuyện “cả họ làm quan” vẫn chưa có hồi kết dẫu thời gian qua đã có nhiều bài học, nhiều gương soi nhỡn tiền. Do đó, phải thay đổi cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ thì mới hy vọng chấm dứt được vấn nạn này để người hiền tài có đất dụng võ. Với những chức danh do bầu cử thì phải có chương trình, hành động cụ thể. Với những chức danh do bổ nhiệm thì phải thi tuyển nghiêm ngặt. Phải ban hành bộ tiêu chí đánh giá theo từng hành vi công vụ để trên cơ sở đó loại bỏ những cán bộ không có năng lực, không xứng đáng ra khỏi bộ máy.

Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh, gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; lựa chọn, bố trí những cán bộ, đảng viên có đức, có tài, thực sự vì Đảng, vì dân vào làm việc trong bộ máy nhà nước. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo cơ chế, môi trường, điều kiện để khuyến khích đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Tăng cường kiểm soát chặt chẽ việc thực thi quyền lực; xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lạm dụng, lợi dụng quyền lực, vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết loại ra khỏi bộ máy những cán bộ tham vọng quyền lực, tham nhũng, cơ hội, vụ lợi, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trong thực hiện phải gắn chặt với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu từ trong Đảng, xây dựng hình ảnh mẫu mực về Đảng cầm quyền. Đồng thời, có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; biểu dương và nhân rộng những tấm gương điển hình về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

Năm là, thực hiện tốt công tác kiểm tra, thanh tra, điều tra, phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong một số lĩnh vực trọng điểm, như quản lý đất đai, xây dựng cơ bản, quản lý tài chính trong doanh nghiệp nhà nước; thu, chi ngân sách nhà nước; quản lý tài sản công; công tác quy hoạch, tuyển dụng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Coi trọng công tác kiểm tra, thanh tra phòng, chống tham nhũng, lãng phí, “lợi ích nhóm”, “nhóm lợi ích” tiêu cực trong chính các cơ quan kiểm tra, thanh tra. Đồng thời, tích cực giám sát, phát hiện, triệt tiêu các biểu hiện móc nối, hình thành “nhóm lợi ích” giữa các đối tượng phải thanh tra, kiểm tra với cán bộ, công chức thoái hóa, biến chất trong các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra, từ đó mới có thể chống được hiện tượng che chắn khuyết điểm, làm nhẹ tội, chạy tội của các đối tượng này.

Vừa qua, chúng ta đã xử lý một loạt quan chức bị kỷ luật Đảng, cách hết chức danh nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bộ trưởng, thậm chí bị xử lý hình sự. Đáng chú ý là, nhiều người trong số đó bị kỷ luật, bị hầu tòa không phải vì chức vụ hiện tại đang giữ mà là những sai phạm từ trước. Điều đó cũng đồng nghĩa, tuy quy trình công tác cán bộ của chúng ta rất chặt, nhưng vẫn “lọt lưới” những đối tượng biến chất, họ vẫn tiếp tục lên chức. Đây là bài toán cần giải trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Vì vậy, cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước để có cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ và có chế tài xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực, “lợi ích nhóm” tiêu cực. Những người đứng đầu cơ quan, đơn vị để xảy ra tiêu cực “lợi ích nhóm”, “nhóm lợi ích” phải chịu trách nhiệm liên đới và xử lý đúng quy định của pháp luật. Cần phải luật hóa để tiến tới kiên quyết tịch thu, sung công tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng; xử lý nghiêm những người bao che tham nhũng, hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống, làm hại người khác.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần chỉ rõ: “Phải nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế, phải thiết lập cho được một cơ chế kiểm soát việc thực thi quyền lực đối với người có chức vụ, quyền hạn theo nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ; quyền hạn phải được ràng buộc với trách nhiệm, quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền hạn càng cao, trách nhiệm càng lớn; ngăn ngừa tận gốc những sai phạm, khuyết điểm một cách căn cơ, bài bản bằng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước”. Dù còn những khó khăn, hạn chế nhất định, nhưng với thành tựu đã đạt được trong đấu tranh, xử lý tham nhũng, tha hóa quyền lực thời gian qua, chúng ta có quyền tự hào và tin tưởng rằng, với sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta sẽ thực hiện thành công mục tiêu đảm bảo tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.

http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/nhot-quyen-luc-trong-long-co-che/16012.html

NHẬN DIỆN, ĐẤU TRANH VỚI THÔNG TIN XẤU ĐỘC TRƯỚC THỀM ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

 


Đấu tranh với thủ đoạn bôi nhọ, hạ thấp uy tín cán bộ trước thềm Đại hội XIII của Đảng là nhiệm vụ quan trọng hiện nay. Vì thế, mỗi người, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên cần đề cao cảnh giác, sáng suốt trong việc tiếp nhận thông tin; đồng thời, chủ động đấu tranh, đẩy lùi thông tin xuyên tạc, bịa đặt, kiên quyết không để các thế lực thù địch, phần tử cơ hội gây nhiễu loạn, chia rẽ nội bộ, phá hoại sự thành công của Đại hội.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng dự kiến tổ chức vào quý I năm 2021. Đây là sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại của đất nước. Cùng với đề ra chủ trương, đường lối lãnh đạo phát triển toàn diện đất nước, Đại hội còn thực hiện nội dung đặc biệt quan trọng là bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhiệm kỳ 2021 - 2026. Việc chuẩn bị nhân sự được tiến hành nghiêm túc, với quy trình đồng bộ, chặt chẽ, công khai, minh bạch theo tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018 và tiêu chuẩn cán bộ theo Quy định số 89-QĐ/TW, Quy định số 90-QĐ/TW, ngày 04/8/2017 của Bộ Chính trị khóa XII. Bên cạnh đó, công tác phòng, chống tham nhũng tiếp tục được đẩy mạnh với quyết tâm chính trị rất cao của Đảng, nhằm “làm trong sạch” đội ngũ cán bộ và chuẩn bị nhân sự tốt nhất cho nhiệm kỳ mới theo tinh thần không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không “chững lại”, “không chùng xuống”, mà “ngày càng quyết liệt, bài bản và hiệu quả hơn”.

Tuy vậy, các thế lực thù địch đã lợi dụng việc chuẩn bị nhân sự cho Đại hội để đẩy mạnh chống phá bằng nhiều thủ đoạn, hình thức tinh vi, xảo quyệt; trong đó, chúng đặc biệt chú trọng sử dụng các phương tiện thông tin truyền thông, mạng xã hội để kích động, bôi nhọ, hạ thấp uy tín cán bộ lãnh đạo, nhằm gây chia rẽ nội bộ, nghi kỵ lẫn nhau trong cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Những ngày gần đây, đài BBC, RFI, trang mạng “Tivi tuần san”, “Tiếng dân”, “KTV”,… với danh nghĩa tự do, bình luận sâu, chúng tung tin về tình hình nhân sự Đại hội XIII của Đảng, như: “Bộ tứ của Đại hội tới gồm những ai”, “Ai sẽ nghỉ trong nhiệm kỳ tới”, v.v. Chúng còn xuyên tạc rằng: “Trước thềm Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, một bầu không khí ngột ngạt lan tràn khắp cả nước”; “Cứ đến đại hội thì Đảng Cộng sản Việt Nam lại gia tăng bắt bớ, đàn áp”. Mặc dù công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, xây dựng, chỉnh đốn Đảng do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo luôn được tiến hành nghiêm túc, công khai, minh bạch, nhưng chúng lại xuyên tạc, bóp méo, vu khống, suy diễn, cho rằng: Đảng đang lợi dụng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để bắt bớ, trấn áp, khai trừ, loại khỏi hàng ngũ những đảng viên “không thuộc phe nhóm”, đảng viên có tư tưởng cấp tiến, đổi mới, “các phe cánh trong Đảng đang thanh trừng lẫn nhau”, “Đại hội là nơi diễn ra sự đấu đá quyết liệt giữa các cá nhân, phe, nhóm lợi ích”, v.v.

Bên cạnh đó, một số cán bộ, đảng viên do hạn chế về nhận thức, non nớt về chính trị đã sử dụng Facebook, Zalo hùa theo để đưa tin, bình luận; trong đó, không ít người đã thể hiện cách nhìn phiến diện, một chiều, vô tình bóp méo, làm thay đổi bản chất của vụ việc mà điển hình là một cán bộ ở Trường đảng Hà Tĩnh đã đưa những thông tin sai lệch về sức khỏe cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước lên Facebook. Thêm vào đó, một số tờ báo, tạp chí điện tử, với mục đích thu hút độc giả, “câu view”, “câu like”, giật tít theo kiểu giật gân, lập lờ,... tác động xấu đến dư luận xã hội, tạo tâm lý hoài nghi về đường lối, chủ trương, công tác nhân sự của Đảng.

Một hình thức khác là, thông qua “hội nghị bàn trà”, “hội nghị vỉa hè”, một số người phát ngôn thiếu ý thức xây dựng, sai sự thật. Họ tự suy đoán rồi sắp xếp nhân sự, người này sẽ ở vị trí này, người kia vào vị trí khác, người này được vào Bộ Chính trị, người kia không; ông lãnh đạo này có công ty “sân sau”; phe nhóm này đang đấu phe nhóm kia, v.v. Họ còn bình phẩm, phán xét về trình độ, năng lực, đạo đức, lối sống, đời tư của cán bộ cao cấp, nhất là những đồng chí nằm trong quy hoạch nhân sự vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, v.v.

Việt Nam luôn bảo đảm quyền tự do ngôn luận của công dân, nhưng phải trong khuôn khổ pháp luật. Đó cũng là bình thường như tất cả các nước trên thế giới, không thể có tự do vô lối, ngoài pháp luật. Việc các thế lực thù địch và một số người lợi dụng tự do ngôn luận để xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, bịa đặt, bôi nhọ, hạ thấp uy tín của cán bộ lãnh đạo đều phải bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Vì thế, để góp phần đấu tranh hiệu quả với các thủ đoạn, hành động xấu xa đó trước thềm Đại hội XIII của Đảng, cần thực hiện tốt một số nội dung, giải pháp sau:

Trước hết, tập trung chuẩn bị nhân sự Đại hội chu đáo, toàn diện. Đây là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bảo đảm cho thành công của Đại hội và góp phần củng cố uy tín của Đảng, không tạo kẽ hở cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Ngày 15/8/2019, Ban Bí thư đã ban hành Kết luận số 55-KL/TW về việc tiếp tục chấn chỉnh công tác cán bộ để chuẩn bị tốt nhân sự đại hội đảng các cấp và Đại hội XIII của Đảng; trong đó, yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chu đáo, toàn diện. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, cảnh giác, ngăn chặn, đấu tranh, không để công tác chuẩn bị nhân sự bị tác động, chi phối bởi những thông tin giả, thông tin không chính thức, xấu độc, có dụng ý xấu, bịa đặt, xuyên tạc trên internet, mạng xã hội.

Vấn đề quan trọng là, cấp ủy các cấp cần bám sát tiêu chuẩn, điều kiện, nguyên tắc, quy trình theo quy định; bảo đảm dân chủ, công khai, khách quan, minh bạch về nhân sự Đại hội. Tránh biểu hiện “tư duy nhiệm kỳ”, “cục bộ”, “lợi ích nhóm”, mất dân chủ, thiếu gương mẫu, “nể nang, dễ dãi”, “chạy chọt, vận động” trong quy hoạch. Thực tế đại hội các cấp cho thấy, vẫn còn những biểu hiện không trong sáng, không minh bạch trong bố trí cán bộ và việc lợi dụng “quy trình” để đưa người nhà, người cùng phe cánh vào các vị trí lãnh đạo, v.v. Điều đó đã tạo thành kẽ hở cho các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá. Mặt khác, cần kiên quyết loại bỏ, không để lọt vào cấp ủy khóa mới những người bản lĩnh chính trị không vững vàng; tham vọng quyền lực, phẩm chất, năng lực, uy tín giảm sút; thiếu gương mẫu, mất đoàn kết, xu nịnh, cục bộ, bè phái, cơ hội; có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, v.v.

Hai là, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao “sức đề kháng” cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trước thông tin xấu, độc, vu khống, bịa đặt. Trên cơ sở nhận thức đúng, đầy đủ, có ý thức chính trị tốt thì mọi người sẽ có khả năng tự đề kháng, tự phòng vệ, không tiếp tay, làm lan truyền; thậm chí biết phát hiện và chủ động đấu tranh với những thông tin xấu độc, không có lợi. Muốn vậy, cần phát huy vai trò của cơ quan chức năng, đặc biệt là cơ quan báo chí, truyền thông trong tuyên truyền quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Kịp thời thông tin định hướng dư luận, nhất là trước những vấn đề phức tạp, nhạy cảm, những vấn đề xã hội quan tâm, đáp ứng nhu cầu của cán bộ, đảng viên và nhân dân, kể cả thông tin liên quan đến công tác nhân sự của Đảng theo quy định, tránh để thông tin giả, thông tin không chính thống lan truyền, để mạng xã hội dẫn dắt dư luận như trong một số trường hợp thời gian qua. Các cơ quan chức năng, báo chí cần thực hiện nghiêm quy chế quản lý báo chí, quy chế phát ngôn, cung cấp thông tin chính thống, nhanh, chính xác, có tính định hướng cao, tạo thế chủ động đấu tranh với thông tin giả trên internet, mạng xã hội. Chủ động đấu tranh “phản thông tin”, đa dạng hình thức đấu tranh theo hướng: thiết lập và sử dụng nhiều diễn đàn trên mạng để đăng tải các bài viết với nội dung tuyên truyền các quan điểm chính thống, định hướng dư luận, đấu tranh phản bác trực diện với các trang mạng “độc hại”, phản động, không để họ xuyên tạc bản chất vụ việc và làm cho dư luận xã hội trượt theo hướng tiêu cực.

Ba là, thường xuyên giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý “vừa hồng, vừa chuyên”, có bản lĩnh chính trị vững vàng, lập trường quan điểm đúng đắn. Nếu cán bộ không vi phạm những điều đảng viên không được làm, không tham nhũng, lãng phí, không vi phạm đạo đức,… thì các thế lực thù địch không thể lợi dụng để xuyên tạc, nói xấu. Vì thế, cùng với thực hiện tốt công tác giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng thì cán bộ lãnh đạo, quản lý phải tự giác học tập, trau dồi đạo đức cánh mạng, để mỗi người không chỉ có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu, mà còn phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, thực sự đi đầu, gương mẫu trong mọi hành động. Trong công tác cán bộ, cần thực hiện công khai kết quả đánh giá, xếp loại cán bộ theo tinh thần Nghị định số 90/2020/NĐ-CP, ngày 13/8/2020 của Chính phủ về đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức. Cấp có thẩm quyền đánh giá, xếp loại, đồng thời thông báo rõ kết quả đánh giá, xếp loại chất lượng và quyết định hình thức công khai trong cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi họ công tác.

Bốn là, tăng cường các biện pháp kỹ thuật để quản lý, sử dụng, ngăn chặn các trang mạng “độc hại” và việc truy cập vào các trang mạng “độc hại” đó. Trên cơ sở luật pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế, các cơ quan chức năng cần chủ động phối hợp với đơn vị cung cấp dịch vụ (cả ở trong và ngoài nước) sử dụng các giải pháp kỹ thuật, công nghệ để quản lý, kiểm soát các trang mạng xã hội, chủ động phát hiện, ngăn chặn, bóc gỡ, vô hiệu hóa tin giả, xấu độc. Mặt khác, cần quản lý, ngăn chặn kịp thời những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị ở trong nước đưa ra thông tin xuyên tạc, sai sự thật, ảnh hưởng đến cán bộ lãnh đạo của Đảng và ổn định chính trị xã hội.

Càng gần thời điểm diễn ra Đại hội lần thứ XIII của Đảng, các đối tượng cơ hội chính trị, thù địch càng gia tăng công kích, chống phá vấn đề nhân sự Đại hội. Do đó, hơn lúc nào hết, chúng ta phải tỉnh táo nhận diện, kiên quyết đấu tranh làm thất bại thủ đoạn xuyên tạc, kích động gây nhiễu loạn thông tin, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần vào thành công của Đại hội.

http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/nhan-dien-dau-tranh-voi-thong-tin-xau-doc-truoc-them-dai-hoi-xiii-cua-dang/16219.html

“CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA LÀ MỘT SAI LẦM CỦA LỊCH SỬ” - LUẬN ĐIỆU LỐ BỊCH


Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng vĩ đại, có tầm vóc lịch sử và hiệu ứng xã hội rộng lớn, sâu sắc nhất trong đời sống nhân loại hơn 100 năm qua. Vậy mà, có một số người lại không ngừng tung ra các chiêu trò hòng phủ nhận lịch sử và giá trị của cuộc Cách mạng này. Đó là luận điệu lố bịch, cần kiên quyết phê phán, bác bỏ.

Họ cho rằng: “Cách mạng Tháng Mười Nga là một sai lầm của lịch sử”(!). Để tăng tính thuyết phục cho luận điệu này, các luận cứ được họ tung ra là: Cách mạng Tháng Mười Nga chỉ là “cuộc nổi dậy mang tính chất Nga thuần túy”; “một cuộc bạo động phản dân chủ”; một “cuộc đảo chính” nhằm “tiếm quyền” lãnh đạo của giai cấp tư sản và việc thiết lập Nhà nước công - nông Xô viết là “đi chệch” quy luật phát triển chung của xã hội loài người; Cách mạng Tháng Mười Nga chỉ là “quái thai của lịch sử”, là một sự “đẻ non”, v.v. Vậy sự thật là như thế nào?

Trước hết, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là kết quả hợp quy luật của sự phát triển tư tưởng và thực tiễn đấu tranh trong suốt quá trình lịch sử của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. “Sai lầm của lịch sử” mà họ gán cho Cách mạng Tháng Mười là ngay từ đầu, nó đã không đúng với lý luận của Mác - Ăngghen, thể hiện qua nhận thức của V.I. Lênin và Đảng Bônsêvích, nên nó là “quái thai” của tiến trình lịch sử nước Nga và thế giới. Cả lý luận và thực tiễn đều bác bỏ luận điệu này.

Về mặt lý luận, bất cứ một cuộc cách mạng nào muốn nổ ra thành công đều phải xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan; giữa tình thế và thời cơ cách mạng. Trong quá trình nghiên cứu sự vận động, phát triển của xã hội tư bản ở giai đoạn tự do cạnh tranh, C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, cách mạng vô sản “sẽ đồng thời xảy ra ở trong tất cả các nước văn minh, tức là ít nhất, ở: Anh, Mỹ, Pháp và Đức”1. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I. Lênin đã phân tích bản chất của chủ nghĩa đế quốc, phát hiện quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản và dự báo: “chủ nghĩa xã hội có thể thắng lợi trước hết là trong một số ít nước tư bản chủ nghĩa hoặc thậm chí chỉ trong một nước tư bản chủ nghĩa”2. Thực tiễn lịch sử cho thấy, Cánh mạng Tháng Mười Nga nổ ra trong điều kiện khác với điều kiện C. Mác đã dự báo, nhưng lại nổ ra ở nơi mà giai cấp công nhân và Đảng Bônsêvích Nga đã chuẩn bị đầy đủ lực lượng và là nơi tình thế cách mạng đã chín muồi. Điều này không phải sai với lý luận chủ nghĩa Mác, mà chỉ là sự phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới.

Về mặt thực tiễn, Cách mạng Tháng Mười Nga đã diễn tiến đúng với quá trình vận động tự nhiên của lịch sử. Song, tình thế và thời cơ để cách mạng nổ ra và giành thắng lợi là vô cùng ngắn ngủi, chỉ trong đêm 24 rạng ngày 25 tháng Mười năm 1917. Đây là thời điểm vô cùng quan trọng và nhạy cảm về phương diện chính trị pháp lý. Bởi, sau Cách mạng dân chủ tư sản Tháng Hai 1917, nước Nga xuất hiện hai chính quyền song song tồn tại: Chính phủ lâm thời tư sản và Xô viết các đại biểu công nhân, binh sĩ, đứng đầu là Xô viết Petrograd. Ngày 24 tháng Mười, Chính phủ lâm thời tư sản tuyên bố sẽ áp dụng mọi biện pháp để tiêu diệt cuộc khởi nghĩa ở Petrograd. Trước tình hình cực kỳ khẩn trương và nghiêm trọng đó, V.I. Lênin chủ trương phải tiến hành khởi nghĩa ngay trong đêm ngày 24 tháng Mười, lật đổ Chính phủ lâm thời tư sản, bảo vệ các Xô viết đại diện. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa đã chứng minh sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác về cách mạng vô sản của V.I. Lênin và Đảng Bônsêvích Nga vào thực tiễn nước Nga lúc đó; về nghệ thuật chớp thời cơ tài tình của  V.I. Lênin và Đảng Bônsêvích Nga.

Thứ hai, Cách mạng Tháng Mười Nga mở ra trang sử mới đối với nước Nga và mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Trên bình diện giai cấp, Cách mạng Tháng Mười Nga thuộc phạm trù cách mạng vô sản, được dẫn dắt bởi hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga là thắng lợi của hệ tư tưởng giai cấp công nhân trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Với thắng lợi này, Nhà nước Xô viết - Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới được lập ra; đưa nhân dân Nga từ thân phận nô lệ thành người làm chủ; mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử nước Nga - kỷ nguyên độc lập, tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, nó còn mở ra thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, cổ vũ các cuộc cách mạng trên thế giới đi vào con đường cách mạng vô sản. Giai cấp công nhân bước lên vũ đài chính trị với tư cách là giai cấp trung tâm của thời đại, “hạt nhân” của phong trào cách mạng thế giới.

Trên bình diện dân tộc, Cách mạng Tháng Mười Nga mở ra và tạo động lực mạnh mẽ cho phong trào giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới; giải phóng các dân tộc phụ thuộc đế quốc Nga, biến nước Nga Sa hoàng từ chỗ là “nhà tù của các dân tộc” trở thành một liên bang mà ở đó các dân tộc đều bình đẳng, hợp tác và cùng tiến bộ. Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là động lực cổ vũ các dân tộc thuộc địa đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc mình, mà còn thúc đẩy phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ cũng như phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Tiếp theo tinh thần của Cách mạng Tháng Mười Nga, nhiều dân tộc trên thế giới đã vùng lên giải phóng khỏi chế độ quân chủ, phát xít, thực dân, đế quốc, phá vỡ từng mảng lớn và tiến tới làm sụp đổ hoàn toàn hệ thống thuộc địa do chủ nghĩa thực dân, đế quốc thiết lập; xây dựng chế độ xã hội mới do người lao động làm chủ. Với Cánh mạng Tháng Mười Nga, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, quyền tự quyết của các dân tộc được thực hiện.

Trên bình diện quốc tế, Cách mạng Tháng Mười Nga đã vượt ra ngoài biên giới nước Nga, làm “rung chuyển thế giới”. V.I. Lênin khẳng định: “Tấm gương Nga chỉ ra cho tất cả các nước thấy một cái gì hoàn toàn căn bản về tương lai tất yếu và gần đây của họ”3, “một số đặc điểm cơ bản của cuộc cách mạng của ta không phải ở ý nghĩa địa phương, ý nghĩa đặc biệt - dân tộc, ý nghĩa riêng cho nước Nga mà có ý nghĩa quốc tế,... nó có tính tất yếu lịch sử là sẽ tái diễn trong phạm vi quốc tế”4. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga cùng với sự lớn mạnh của Liên Xô, đã phá vỡ thế độc tôn của chủ nghĩa tư bản, làm cho nó không còn là hệ thống duy nhất trên thế giới. Đặc biệt, sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa được hình thành, đã làm thay đổi căn bản cục diện thế giới, mở ra thời kỳ đấu tranh với những mục tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Một trật tự thế giới “hai cực” được hình thành với một bên là hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu đã tạo thế cân bằng giữa các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới với các thế lực đế quốc; chấm dứt thời kỳ “làm mưa làm gió” của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc khác.

Rõ ràng, Cách mạng Tháng Mười Nga không phải là một hiện tượng thuần Nga, càng không phải là sản phẩm được tạo ra từ “sự cuồng nhiệt của ý chí chủ quan, không tưởng” của một cá nhân nào đó như các thế lực thù địch thường rêu rao, xuyên tạc, bóp méo lịch sử, mưu toan xóa bỏ ảnh hưởng và tầm vóc vĩ đại của cuộc Cách mạng này. Đúng như Chủ tịch Thượng viện Nga, Sergei Mironov, viết trên tờ Nước Nga, ngày 31/10/2007, rằng: khi đánh giá Cách mạng Tháng Mười Nga, nếu “bỏ định ngữ “vĩ đại” là không đúng, vì Cách mạng Tháng Mười Nga, xét theo cả về quy mô và tầm ảnh hưởng đối với các tiến trình trên thế giới, là một cuộc cách mạng vĩ đại”.

Thứ ba, ngày nay, mặc dù thế giới có nhiều biến động, đổi thay, nhưng Cách mạng Tháng Mười Nga vẫn giữ nguyên giá trị “vạch thời đại”, vẫn là niềm cổ vũ cho những người có lương tri với khát vọng về một thế giới tươi đẹp. Trong thế kỷ XX, lịch sử loài người đã trải qua hai sự kiện chấn động tại nước Nga, có liên quan trực tiếp tới chủ nghĩa xã hội: (1). Cách mạng Tháng Mười Nga; (2). Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, Liên Xô tan rã. Chúng ta vui mừng trước sự kiện thứ nhất bao nhiêu, thì lại càng đau buồn cho sự kiện thứ hai bấy nhiêu.

Năm 2005, trong Thông điệp Liên bang, Tổng thống Nga V. Putin khẳng định: “Liên Xô tan rã là tai họa chính trị nghiêm trọng nhất của thế kỷ XX. Đối với nhân dân Nga, đó là một bi kịch thực sự”. Lợi dụng “tai họa” và “bi kịch” này, các thế lực thù địch lại tấu lên điệp khúc phủ nhận “Bài ca Tháng Mười” với những tuyên bố về sự “kết thúc lịch sử” của chủ nghĩa Mác - Lênin, “sự cáo chung” của chủ nghĩa xã hội hiện thực; phủ nhận nội dung và tính chất của thời đại từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; cổ xúy cho chế độ tư bản là sự phát triển “tận cùng của lịch sử”, v.v. Song, sức sống của Cách mạng Tháng Mười Nga vẫn còn nguyên giá trị. Giá trị, sức sống đó vẫn tiếp tục được khẳng định qua sự nghiệp đổi mới, cải cách và phát triển ở các nước như Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cuba; qua sự phục hồi và hoạt động của phong trào cộng sản quốc tế. Tiêu biểu cho phong trào này là phong trào cách tả ở Mỹ La tinh - khu vực được coi là “sân sau” của Mỹ, đã tuyên bố quyết tâm “vượt qua chủ nghĩa tư bản”, xây dựng đất nước theo mô hình “chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI”.

Cách mạng Tháng Mười Nga có ý nghĩa lịch sử, nó cung cấp những giá trị to lớn định hướng cho quá trình hiện thực hóa lý tưởng cộng sản trên thế giới. Theo đó, “Tất cả các dân tộc đều đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều không tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ”5. Hiện nay: “Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”6. Những luận cứ khoa học này góp phần bác bỏ những luận điệu sai lầm về tính “vĩnh hằng” của chủ nghĩa tư bản và phủ nhận Cách mạng Tháng Mười Nga.

_________________

1 - C. Mác và Ph. Ăngghen  – Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 472.

2 - V.I. Lênin – Toàn tập, Tập 26, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 447.

3 - V.I. Lênin – Toàn tập, Tập 41, Nxb CTQG, H. 2005, tr. 04.

4 - Sđd, tr. 03.

5 - V.I. Lênin – Toàn tập, Tập 30, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 160.

6 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 69.

http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/cach-mang-thang-muoi-nga-la-mot-sai-lam-cua-lich-su-luan-dieu-lo-bich/16246.html 

ĐỂ ĐẢNG MÃI TRƯỜNG TỒN CÙNG DÂN TỘC

 


I. Sứ mệnh và thành tựu vĩ đại của Đảng

II. Những thách thức đối với sứ mệnh lãnh đạo của Đảng

III. Quyết tâm và hành động của chúng ta

Thực tiễn đã khẳng định, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vì thế, để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc càng phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt, trước bối cảnh tình hình quốc tế, trong nước có những thuận lợi, khó khăn, thời cơ và thách thức đan xen hiện nay đặt ra nhiều vấn đề mới, phức tạp đòi hỏi Đảng cần phải xử lý, vượt qua. Công tác xây dựng Đảng trong những năm qua đã đạt được kết quả quan trọng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; phương thức lãnh đạo của Đảng có nhiều đổi mới, hiệu lực, hiệu quả; công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng được nâng cao, v.v. Nhưng bên cạnh đó, vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm, làm cho Đảng ta chưa thật sự trong sạch, vững mạnh, làm giảm lòng tin, tạo ra nỗi niềm băn khoăn, trăn trở của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ. Do đó, thời gian tới, không có cách nào khác, Đảng ta phải tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện trên các mặt với tinh thần chủ động, tích cực và kiên quyết, mạnh mẽ hơn nữa; thực hiện tốt phương châm “gắn xây với chống, lấy xây là chính, chống là quan trọng, xây làm tiền đề cho chống và chống tạo cơ sở để xây tốt hơn”, coi đây là nhiệm vụ then chốt, vấn đề sống còn đối với Đảng ta, chế độ ta. Trong đó, tập trung thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau.

1. Tiếp tục quán triệt, thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, quyết định về công tác xây dựng Đảng

Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta:“Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”1. Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Người và sớm nhận ra những nguy cơ làm xói mòn bản chất cách mạng, giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đó là kết tinh trí tuệ tập thể, thể hiện quyết tâm chính trị rất cao của Đảng ta trong việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo đưa đất nước phát triển, đi lên. Do đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải luôn quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm túc, đồng bộ, có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết, chủ trương về công tác then chốt, đặc biệt quan trọng này, trọng tâm là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đồng thời, tổ chức những đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong các cấp ủy, tổ chức đảng, trong đó, chú trọng phát huy vai trò nêu gương của cán bộ lãnh đạo, chủ trì các cấp. Quá trình thực hiện, cần làm triệt để, làm trên trước, dưới sau, cấp ủy trước, đảng viên sau; gắn kết chặt chẽ giữa thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 với Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện, rút ra những bài học kinh nghiệm, khắc phục tình trạng “đánh trống, bỏ dùi”, “phát nhưng không động”, “trên nóng, dưới lạnh”. Cùng với đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, phát triển tư duy lý luận phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng; chủ động nắm bắt diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên để có chủ trương, giải pháp xử lý kịp thời, hiệu quả.

2. Thực hiện tốt công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự là “công bộc” của nhân dân

Đây là “khâu then chốt của then chốt” trong công tác xây dựng Đảng và là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, công việc hệ trọng của Đảng. Những năm qua, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp về công tác cán bộ và được thể chế, cụ thể hóa bằng quy chế, quy định, quy trình, bảo đảm dân chủ, chặt chẽ nhằm lựa chọn những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất, đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo, nhất là người đứng đầu. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn những thiếu sót cần khắc phục. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp chưa được ngăn chặn, đẩy lùi một cách hiệu quả. Việc sắp xếp, bố trí, bổ nhiệm cán bộ ở nhiều nơi vẫn đảm bảo “đúng quy trình” nhưng chưa đúng người, đúng việc. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất, dẫn đến có cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao thuộc diện Trung ương quản lý, không những không hoàn thành nhiệm vụ mà còn vi phạm pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng, phải thi hành kỷ luật2. Đây là thực tế hết sức đau lòng, vừa mất cán bộ, vừa ảnh hưởng đến uy tín, thanh danh của Đảng, đúng như lời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Thật đau xót, nhưng không thể không làm, không có cách nào khác! Tất cả là vì sự nghiệp chung của Đảng, của đất nước, của nhân dân. Đây là bài học sâu sắc, bài học đắt giá cho tất cả chúng ta”.

Để khắc phục tình trạng này, trước hết, cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Một trong những nguyên nhân của nạn chạy chức, chạy quyền,... là do cơ chế chưa đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực, nhất là đối với người đứng đầu, dẫn đến tha hóa về quyền lực, thoái hóa, biến chất, thao túng tổ chức, tạo “đất tốt” cho những “hạt giống kém” nảy nở. Vì thế, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp từ Trung ương đến địa phương, cơ sở phải nắm chắc tình hình, kịp thời có giải pháp hữu hiệu để kiểm soát quyền lực, “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế, luật pháp”, bảo đảm mọi quyền lực đều phải được kiểm soát bằng cơ chế, quyền hạn phải gắn với trách nhiệm. Thực hiện tốt việc kiểm soát bằng thể chế kết hợp với kiểm soát bằng đạo đức; đề cao dân chủ, công khai, minh bạch, xóa bỏ quan niệm xem công tác cán bộ là “bí mật, nhạy cảm” mà cần thực hiện nghiêm quy định về tiêu chuẩn chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý. Tiếp tục hoàn thiện quy chế, quy định ràng buộc chặt chẽ trách nhiệm cá nhân, tập thể trong việc giới thiệu, tiến cử nhân sự cán bộ. Khi đã dân chủ, công khai, minh bạch sẽ không còn cửa nào để “chạy” và sẽ hạn chế tiêu cực, tham nhũng trong công tác cán bộ. Đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát công tác cán bộ, kiên quyết xử lý sai phạm, không có “vùng cấm”. Cấp ủy, người đứng đầu phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác cán bộ của cơ quan, đơn vị thuộc quyền. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cần nêu cao trách nhiệm, thực hiện tốt quyền giám sát, phản biện xã hội. Đặc biệt, cần có cơ chế để nhân dân tham gia giám sát, phản biện, góp ý kiến xây dựng hệ thống chính trị các cấp, nhất là trong công tác cán bộ.

Cùng với tăng cường công tác giáo dục, quản lý, rèn luyện, kiểm tra, giám sát, làm tốt khâu quy hoạch, đánh giá, sàng lọc cán bộ của cấp ủy, tổ chức đảng, bản thân mỗi cán bộ, đảng viên, công chức phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, đề cao tính nêu gương, “tự soi, tự sửa”, tránh xa cám dỗ vật chất, tham vọng quyền lực, thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”3.

3. Tăng cường quan hệ mật thiết với nhân dân, có cơ chế phù hợp phát huy vai trò của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng

Giữ mối liên hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với quần chúng nhân dân là một nguyên tắc trong xây dựng Đảng. Đó cũng là nguồn gốc chủ yếu tạo nên sức mạnh của Đảng, của dân tộc, một trong những điều kiện quan trọng để Đảng giữ vững sứ mệnh lãnh đạo dân tộc. Thực tiễn lịch sử hơn 90 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã chứng minh điều đó. Hiện nay, đã và đang xuất hiện nhiều yếu tố tiêu cực tác động đến mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân, nhất là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện quan liêu, cửa quyền, hách dịch, xa dân,... làm giảm niềm tin của Nhân dân với Đảng. Do đó, hơn bao giờ hết phải coi trọng xây dựng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân. Trước hết, phải dựa vào dân, phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng hệ thống chính trị, nhất là công tác xây dựng Đảng. Thực tế cho thấy, có nhiều vụ việc tham nhũng, tiêu cực, sai phạm của cán bộ là do nhân dân phát hiện. Cho nên cần phải dựa vào nhân dân, phát huy vai trò của nhân dân trong mọi hoạt động của cấp ủy đảng, chính quyền, đặc biệt là trong công tác xây dựng Đảng. Những nhận thức cho rằng: xây dựng Đảng là công việc của riêng Đảng, trực tiếp là của tổ chức đảng, đảng viên, chứ không phải của quần chúng,…là nhận thức lệch lạc, thiển cận. Với lối tư duy, tầm nhìn hạn hẹp, họ đã không thấy được vai trò của quần chúng nhân dân trong công việc hệ trọng này của Đảng. Tuy nhiên, chỉ dựa vào nhân dân thôi chưa đủ, mà phải có cách dựa - tức là cơ chế phù hợp thì mới hiệu quả. Không ít người dân có thông tin, có khả năng tham gia đóng góp vào công tác xây dựng Đảng, nhưng họ không có điều kiện hoặc vì lý do nào đó mà không thể tham gia. Do đó, phải tạo điều kiện để họ có thể tham gia, hay nói cách khác là phải có cơ chế phù hợp để khuyến khích, động viên nhân dân tham gia. Cùng với cơ chế, cần phải tiếp tục thực hiện tốt “Quy chế Dân chủ cơ sở”. Đặc biệt, phải quán triệt, thực hiện nghiêm Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Đồng thời, hoàn thiện cơ chế, quy chế và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc tự phê bình, phê bình, chất vấn, báo cáo giải trình trong các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Bên cạnh đó, cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền cần tăng cường triển khai công tác dân vận, phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, của nhân dân, báo chí và công luận với phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền các cấp phải thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc tiếp công dân để tiếp nhận thông tin, lắng nghe, đối thoại trực tiếp và xử lý những phản ánh, kiến nghị của nhân dân, nhất là những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong cán bộ, đảng viên. Xây dựng và thực hiện quy định về việc lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân đối với cơ quan, cán bộ, công chức trực tiếp giải quyết công việc của người dân, doanh nghiệp; có hình thức xử lý đối với những tổ chức, cá nhân có chỉ số hài lòng thấp.

4. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch gắn với phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

“Diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau. Trong đó, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vừa là thủ đoạn, vừa là mục tiêu của chiến lược “Diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch đang đẩy mạnh thực hiện ở nước ta. Vì thế, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” gắn với ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ không chỉ là nhiệm vụ thường xuyên cấp bách, mà còn là giải pháp chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng nói chung, công tác xây dựng Đảng nói riêng. Theo đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải không ngừng nâng cao nhận thức, xác định quá trình đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” phải được tiến hành thường xuyên, liên tục với tinh thần tích cực, chủ động, quyết liệt để vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, định hướng nhận thức, tư tưởng, hành động đúng đắn cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, cần phải quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về đối tác, đối tượng, nhất là tính chất đan xen, phức tạp của nó để có sự nhận biết đúng đắn, đảm bảo vừa hợp tác, vừa đấu tranh một cách hiệu quả nhất.

Cùng với đó, thường xuyên nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng; phát huy vai trò của các đoàn thể chính trị - xã hội, quần chúng nhân dân; đẩy mạnh hoạt động đấu tranh của các lực lượng, bằng nhiều biện pháp, cách làm sáng tạo, hiệu quả, tạo nên sức mạnh tổng hợp làm thất bại âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, giữ vững “trận địa” tư tưởng của Đảng. Cần nhận thức rõ cuộc đấu tranh này càng phức tạp hơn khi các thế lực thù địch gắn với thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta. Do đó, chúng ta không được lơi lỏng, xem nhẹ việc phát hiện những biểu hiện “không bình thường” để kịp thời đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong thực tiễn đã có những trường hợp sai phạm được phát hiện, xử lý theo đúng quy định của pháp luật và Điều lệ Đảng. Nhưng cũng còn không ít những sai phạm đang tiếp tục được kiểm tra, xử lý nhằm đảm bảo sự vững mạnh của Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu khách quan, gắn liền với sứ mệnh lịch sử của dân tộc Việt Nam. Điều đó đã được khẳng định trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Bởi, Đảng ta luôn biết tự đổi mới, tự chỉnh đốn và chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh để mãi mãi trường tồn cùng dân tộc, như lời di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”4Thành công của sự nghiệp đổi mới nói chung, công tác xây dựng Đảng nói riêng là điều chúng ta luôn hướng tới. Dẫu biết rằng, để đạt được mục tiêu đó không hề dễ dàng, thậm chí có vô vàn khó khăn, phức tạp phải vượt qua. Nhưng với niềm tự hào dân tộc, về Đảng quang vinh; sự quyết tâm cao, thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, chúng ta tin tưởng rằng, Đảng ta sẽ hoàn thành vẻ vang sứ mệnh cao cả của mình, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

 

1 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 15, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 622.

2 - Kể từ đầu nhiệm kỳ khóa XII đến tháng 01/2020, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 1.111 tổ chức đảng, 18.265 cấp ủy viên các cấp và 54.573 đảng viên. Trong đó, có 92 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, gồm: 02 ủy viên Bộ Chính trị, 21 ủy viên và nguyên ủy viên Trung ương Đảng, 38 sĩ quan trong lực lượng công an, quân đội (cấp tướng là 23 người).

3 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 11, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 612.

4 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 15, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 616.

http://tapchiqptd.vn/vi/bao-ve-to-quoc/de-dang-mai-truong-ton-cung-dan-toc/16064.html_____________         

 

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...