I. Sứ mệnh và thành tựu vĩ đại của Đảng
II. Những thách thức đối với sứ mệnh lãnh đạo của
Đảng
III.
Quyết tâm và hành động của chúng ta
Thực tiễn đã khẳng định, sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Vì thế, để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc càng phải tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng. Đặc biệt, trước bối cảnh tình hình quốc tế, trong nước có những thuận
lợi, khó khăn, thời cơ và thách thức đan xen hiện nay đặt ra nhiều vấn đề mới,
phức tạp đòi hỏi Đảng cần phải xử lý, vượt qua. Công tác xây dựng Đảng trong
những năm qua đã đạt được kết quả quan trọng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức
và đạo đức; phương thức lãnh đạo của Đảng có nhiều đổi mới, hiệu lực, hiệu quả;
công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng được nâng cao, v.v. Nhưng bên cạnh
đó, vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm, làm cho Đảng ta chưa thật sự trong
sạch, vững mạnh, làm giảm lòng tin, tạo ra nỗi niềm băn khoăn, trăn trở của đội
ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ. Do đó, thời
gian tới, không có cách nào khác, Đảng ta phải tiếp tục đẩy mạnh xây dựng,
chỉnh đốn Đảng toàn diện trên các mặt với tinh thần chủ động, tích cực và kiên
quyết, mạnh mẽ hơn nữa; thực hiện tốt phương châm “gắn xây với chống,
lấy xây là chính, chống là quan trọng, xây làm tiền đề cho chống và chống tạo
cơ sở để xây tốt hơn”, coi đây là nhiệm vụ then chốt, vấn đề sống còn đối
với Đảng ta, chế độ ta. Trong đó, tập trung thực hiện tốt một số giải pháp chủ
yếu sau.
1.
Tiếp tục quán triệt, thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, quyết định
về công tác xây dựng Đảng
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã căn dặn toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta:“Phải giữ gìn Đảng
ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật
trung thành của nhân dân”1. Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của
Người và sớm nhận ra những nguy cơ làm xói mòn bản chất cách mạng, giảm sút
lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đó là
kết tinh trí tuệ tập thể, thể hiện quyết tâm chính trị rất cao của Đảng ta
trong việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo đưa đất nước
phát triển, đi lên. Do đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải luôn quán triệt,
tổ chức thực hiện nghiêm túc, đồng bộ, có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết, chủ
trương về công tác then chốt, đặc biệt quan trọng này, trọng tâm là Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đồng thời, tổ chức những
đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong các cấp ủy, tổ chức đảng, trong đó, chú
trọng phát huy vai trò nêu gương của cán bộ lãnh đạo, chủ trì các cấp. Quá
trình thực hiện, cần làm triệt để, làm trên trước, dưới sau, cấp ủy trước, đảng
viên sau; gắn kết chặt chẽ giữa thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 với Chỉ thị
số 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Thường xuyên tổ chức sơ kết, tổng kết,
đánh giá kết quả thực hiện, rút ra những bài học kinh nghiệm, khắc phục tình
trạng “đánh trống, bỏ dùi”, “phát nhưng không động”, “trên nóng, dưới
lạnh”. Cùng với đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tích cực đấu tranh bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu,
phát triển tư duy lý luận phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng; chủ động nắm
bắt diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên để có chủ trương, giải pháp xử lý
kịp thời, hiệu quả.
2.
Thực hiện tốt công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm
chất, năng lực, thực sự là “công bộc” của nhân dân
Đây là “khâu then
chốt của then chốt” trong công tác xây dựng Đảng và là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu, công việc hệ trọng của Đảng. Những năm qua, Đảng ta đã có nhiều
chủ trương, giải pháp về công tác cán bộ và được thể chế, cụ thể hóa bằng quy
chế, quy định, quy trình, bảo đảm dân chủ, chặt chẽ nhằm lựa chọn những người
có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất, đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ,
dám làm, dám chịu trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo, nhất là người đứng đầu.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn những thiếu sót cần khắc phục.
Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp chưa được ngăn chặn,
đẩy lùi một cách hiệu quả. Việc sắp xếp, bố trí, bổ nhiệm cán bộ ở nhiều nơi
vẫn đảm bảo “đúng quy trình” nhưng chưa đúng người, đúng việc.
Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất, dẫn đến có cán
bộ, kể cả cán bộ cấp cao thuộc diện Trung ương quản lý, không những không hoàn
thành nhiệm vụ mà còn vi phạm pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng, phải thi
hành kỷ luật2. Đây là thực tế hết sức đau lòng, vừa mất cán bộ, vừa
ảnh hưởng đến uy tín, thanh danh của Đảng, đúng như lời Tổng Bí thư, Chủ tịch
nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Thật đau xót, nhưng không thể không
làm, không có cách nào khác! Tất cả là vì sự nghiệp chung của Đảng, của đất
nước, của nhân dân. Đây là bài học sâu sắc, bài học đắt giá cho tất cả chúng
ta”.
Để khắc phục tình trạng
này, trước hết, cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền
lực trong công tác cán bộ. Một trong những nguyên nhân của nạn chạy chức, chạy
quyền,... là do cơ chế chưa đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực, nhất là
đối với người đứng đầu, dẫn đến tha hóa về quyền lực, thoái hóa, biến chất,
thao túng tổ chức, tạo “đất tốt” cho những “hạt giống
kém” nảy nở. Vì thế, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp từ Trung ương đến
địa phương, cơ sở phải nắm chắc tình hình, kịp thời có giải pháp hữu hiệu để
kiểm soát quyền lực, “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế, luật pháp”,
bảo đảm mọi quyền lực đều phải được kiểm soát bằng cơ chế, quyền hạn phải gắn
với trách nhiệm. Thực hiện tốt việc kiểm soát bằng thể chế kết hợp với kiểm
soát bằng đạo đức; đề cao dân chủ, công khai, minh bạch, xóa bỏ quan niệm xem
công tác cán bộ là “bí mật, nhạy cảm” mà cần thực hiện nghiêm
quy định về tiêu chuẩn chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý. Tiếp tục hoàn
thiện quy chế, quy định ràng buộc chặt chẽ trách nhiệm cá nhân, tập thể trong
việc giới thiệu, tiến cử nhân sự cán bộ. Khi đã dân chủ, công khai, minh bạch sẽ
không còn cửa nào để “chạy” và sẽ hạn chế tiêu cực, tham nhũng
trong công tác cán bộ. Đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát công
tác cán bộ, kiên quyết xử lý sai phạm, không có “vùng cấm”. Cấp ủy,
người đứng đầu phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện công
tác cán bộ của cơ quan, đơn vị thuộc quyền. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức chính trị - xã hội cần nêu cao trách nhiệm, thực hiện tốt quyền giám sát,
phản biện xã hội. Đặc biệt, cần có cơ chế để nhân dân tham gia giám sát, phản
biện, góp ý kiến xây dựng hệ thống chính trị các cấp, nhất là trong công tác
cán bộ.
Cùng với tăng cường công
tác giáo dục, quản lý, rèn luyện, kiểm tra, giám sát, làm tốt khâu quy hoạch,
đánh giá, sàng lọc cán bộ của cấp ủy, tổ chức đảng, bản thân mỗi cán bộ, đảng
viên, công chức phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, đề
cao tính nêu gương, “tự soi, tự sửa”, tránh xa cám dỗ vật chất,
tham vọng quyền lực, thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đạo
đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ
hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng
luyện càng trong”3.
3.
Tăng cường quan hệ mật thiết với nhân dân, có cơ chế phù hợp phát huy vai trò
của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng
Giữ mối liên hệ gắn bó máu
thịt giữa Đảng với quần chúng nhân dân là một nguyên tắc trong xây dựng Đảng.
Đó cũng là nguồn gốc chủ yếu tạo nên sức mạnh của Đảng, của dân tộc, một trong
những điều kiện quan trọng để Đảng giữ vững sứ mệnh lãnh đạo dân tộc. Thực tiễn
lịch sử hơn 90 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã chứng minh điều đó. Hiện
nay, đã và đang xuất hiện nhiều yếu tố tiêu cực tác động đến mối quan hệ giữa
Đảng với Nhân dân, nhất là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, biểu hiện quan liêu, cửa quyền, hách dịch, xa dân,... làm giảm niềm
tin của Nhân dân với Đảng. Do đó, hơn bao giờ hết phải coi trọng xây dựng, tăng
cường mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân. Trước hết, phải dựa vào dân, phát huy
vai trò của nhân dân trong xây dựng hệ thống chính trị, nhất là công tác xây
dựng Đảng. Thực tế cho thấy, có nhiều vụ việc tham nhũng, tiêu cực, sai phạm
của cán bộ là do nhân dân phát hiện. Cho nên cần phải dựa vào nhân dân, phát
huy vai trò của nhân dân trong mọi hoạt động của cấp ủy đảng, chính quyền, đặc
biệt là trong công tác xây dựng Đảng. Những nhận thức cho rằng: xây dựng Đảng
là công việc của riêng Đảng, trực tiếp là của tổ chức đảng, đảng viên, chứ
không phải của quần chúng,…là nhận thức lệch lạc, thiển cận. Với lối tư duy,
tầm nhìn hạn hẹp, họ đã không thấy được vai trò của quần chúng nhân dân trong
công việc hệ trọng này của Đảng. Tuy nhiên, chỉ dựa vào nhân dân thôi chưa đủ,
mà phải có cách dựa - tức là cơ chế phù hợp thì mới hiệu quả. Không ít người
dân có thông tin, có khả năng tham gia đóng góp vào công tác xây dựng Đảng,
nhưng họ không có điều kiện hoặc vì lý do nào đó mà không thể tham gia. Do đó,
phải tạo điều kiện để họ có thể tham gia, hay nói cách khác là phải có cơ chế
phù hợp để khuyến khích, động viên nhân dân tham gia. Cùng với cơ chế, cần
phải tiếp tục thực hiện tốt “Quy chế Dân chủ cơ sở”. Đặc biệt, phải quán triệt,
thực hiện nghiêm Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Ban Chấp hành
Trung ương về Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội; Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ
Chính trị quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị -
xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Đồng
thời, hoàn thiện cơ chế, quy chế và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả
việc tự phê bình, phê bình, chất vấn, báo cáo giải trình trong các kỳ họp của
Ban Chấp hành Trung ương, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp, phát huy vai
trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Bên cạnh đó, cấp ủy, tổ chức đảng,
chính quyền cần tăng cường triển khai công tác dân vận, phát huy vai trò giám
sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, của nhân dân, báo
chí và công luận với phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra”. Người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền các cấp phải thực hiện nghiêm túc,
có hiệu quả việc tiếp công dân để tiếp nhận thông tin, lắng nghe, đối thoại
trực tiếp và xử lý những phản ánh, kiến nghị của nhân dân, nhất là những biểu
hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá” trong cán bộ, đảng viên. Xây dựng và thực hiện
quy định về việc lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân đối với cơ quan,
cán bộ, công chức trực tiếp giải quyết công việc của người dân, doanh nghiệp;
có hình thức xử lý đối với những tổ chức, cá nhân có chỉ số hài lòng thấp.
4.
Kiên quyết đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế
lực thù địch gắn với phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
“Diễn biến hòa bình” và “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ có mối quan hệ chặt chẽ, không tách
rời nhau. Trong đó, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vừa là thủ đoạn,
vừa là mục tiêu của chiến lược “Diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch
đang đẩy mạnh thực hiện ở nước ta. Vì thế, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu,
thủ đoạn “diễn biến hòa bình” gắn với ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
không chỉ là nhiệm vụ thường xuyên cấp bách, mà còn là giải pháp chiến lược lâu
dài đối với sự nghiệp cách mạng nói chung, công tác xây dựng Đảng nói riêng.
Theo đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải không ngừng nâng cao nhận thức, xác
định quá trình đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” phải được tiến hành thường xuyên, liên tục với tinh thần tích cực,
chủ động, quyết liệt để vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực
thù địch, định hướng nhận thức, tư tưởng, hành động đúng đắn cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay,
cần phải quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về đối tác, đối tượng, nhất là
tính chất đan xen, phức tạp của nó để có sự nhận biết đúng đắn, đảm bảo vừa hợp
tác, vừa đấu tranh một cách hiệu quả nhất.
Cùng với đó, thường xuyên
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng; phát
huy vai trò của các đoàn thể chính trị - xã hội, quần chúng nhân dân; đẩy mạnh
hoạt động đấu tranh của các lực lượng, bằng nhiều biện pháp, cách làm sáng
tạo, hiệu quả, tạo nên sức mạnh tổng hợp làm thất bại âm mưu, hành động chống
phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, giữ vững “trận
địa” tư tưởng của Đảng. Cần nhận thức rõ cuộc đấu tranh này càng phức
tạp hơn khi các thế lực thù địch gắn với thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ ta. Do đó, chúng ta không được lơi lỏng, xem nhẹ việc phát
hiện những biểu hiện “không bình thường” để kịp thời đấu tranh
ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong
thực tiễn đã có những trường hợp sai phạm được phát hiện, xử lý theo đúng quy
định của pháp luật và Điều lệ Đảng. Nhưng cũng còn không ít những sai phạm đang
tiếp tục được kiểm tra, xử lý nhằm đảm bảo sự vững mạnh của Đảng và chất lượng
đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam là một tất yếu khách quan, gắn liền với sứ mệnh lịch sử của dân tộc
Việt Nam. Điều đó đã được khẳng định trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc trước đây cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện
nay. Bởi, Đảng ta luôn biết tự đổi mới, tự chỉnh đốn và chăm lo xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh để mãi mãi trường tồn cùng dân tộc, như lời di huấn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn
lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn
nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được
như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định
thắng lợi”4. Thành công của sự nghiệp đổi mới nói chung,
công tác xây dựng Đảng nói riêng là điều chúng ta luôn hướng tới. Dẫu biết
rằng, để đạt được mục tiêu đó không hề dễ dàng, thậm chí có vô vàn khó khăn,
phức tạp phải vượt qua. Nhưng với niềm tự hào dân tộc, về Đảng quang vinh; sự
quyết tâm cao, thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân, chúng ta tin tưởng rằng, Đảng ta sẽ hoàn thành vẻ vang sứ mệnh cao cả của
mình, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã
hội.
1 - Hồ Chí Minh – Toàn
tập, Tập 15, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 622.
2 - Kể từ đầu nhiệm kỳ khóa
XII đến tháng 01/2020, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy
ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 1.111 tổ chức đảng, 18.265 cấp ủy
viên các cấp và 54.573 đảng viên. Trong đó, có 92 cán bộ thuộc diện Trung ương
quản lý, gồm: 02 ủy viên Bộ Chính trị, 21 ủy viên và nguyên ủy viên Trung ương
Đảng, 38 sĩ quan trong lực lượng công an, quân đội (cấp tướng là 23 người).
3 - Hồ Chí Minh – Toàn
tập, Tập 11, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 612.
4 - Hồ Chí Minh –
Toàn tập, Tập 15, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 616.
http://tapchiqptd.vn/vi/bao-ve-to-quoc/de-dang-mai-truong-ton-cung-dan-toc/16064.html_____________
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét