Chủ Nhật, 3 tháng 6, 2018


“ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, TĂNG CƯỜNG HỢP TÁC, TUÂN THỦ
LUẬT PHÁP QUỐC TẾ LÀ NỀN TẢNG CỦA AN NINH, HÒA BÌNH
VÀ PHÁT TRIỂN”
Ngày 02-6, trong phiên toàn thể thứ ba của Đối thoại Shangri-La lần thứ 17 tại Singapore với chủ đề Định hình trật tự an ninh đang biến đổi của châu Á, Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có bài phát biểu quan trọng. Tạp chí điện tử Quốc phòng toàn dân trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam.

Thưa Ngài Chủ tịch, Tiến sĩ John Chipman!
Thưa toàn thể quý vị!
Trải qua mười sáu lần tổ chức, Đối thoại Shangri-la đã ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong việc tăng cường hiểu biết lẫn nhau, hợp tác vì hòa bình, an ninh, ổn định và phồn vinh của khu vực. Tôi xin cảm ơn Viện Nghiên cứu Chiến lược quốc tế, Chính phủ và Bộ Quốc phòng Singapore đã cho tôi được chia sẻ với quý vị tại phiên họp quan trọng này.
Shangri-la năm nay với sự hiện diện của đông đảo chính khách, nhà ngoại giao, giới quân sự và học giả đại diện cho các quốc gia trong khu vực; đặc biệt là sự có mặt của Ngài Thủ tướng Ấn Độ Mô-đi với bài phát biểu rất quan trọng ngày hôm qua. Ý kiến của Ngài Thủ tướng và một số vị Bộ trưởng một lần nữa cho thấy khát vọng hòa bình, an ninh, ổn định ở khu vực và trên thế giới.
Trong thời điểm hiện nay, mặc dù chúng ta đang tích cực hợp tác để vun đắp cho hoà bình, ổn định của khu vực. Nhưng chúng ta cũng buộc phải nhìn nhận một thực tế là những thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, trong đó có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, khủng bố… đã được dự báo, đang hiện hữu một cách rất rõ ràng, đặt khu vực châu Á - Thái Bình Dương đầy tiềm năng và hứa hẹn trước những nguy cơ có thực và cận kề. Chúng ta đang chứng kiến sự chuyển dịch mạnh mẽ trong chính sách của các nước lớn với khu vực. Đó là chuyển dịch trọng tâm về “Châu Á - Thái Bình Dương”, Chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”, “Vành đai và con đường”. Và hàng loạt các quan hệ nhóm các quốc gia. Tất cả đều tuyên bố hướng về hòa bình, ổn định. Tuy nhiên, kết quả mang lại cho khu vực và thế giới như thế nào vẫn là điều chúng ta trông đợi. Chính vì vậy, tôi cho rằng chủ đề “Định hình trật tự an ninh đang biến đổi của châu Á” có ý nghĩa rất quan trọng, hy vọng sẽ giải đáp câu hỏi lớn đặt ra cho khu vực.
Tôi muốn nhấn mạnh đến tình hình bán đảo Triều Tiên gần đây đã có những tín hiệu tích cực. Những nỗ lực của Triều Tiên, Hàn Quốc và nhiều quốc gia khác, cho chúng ta niềm hy vọng là Hoa Kỳ, Triều Tiên, Hàn Quốc và không thể thiếu được vai trò của các cường quốc khác như Trung Quốc, Nga... cũng như cộng đồng quốc tế sẽ tiếp tục hành động có trách nhiệm, vì hòa bình, an ninh và phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên, đóng góp cho hòa bình, an ninh khu vực. Tuy nhiên, việc kiến tạo hòa bình - hợp tác ở bán đảo Triều Tiên - và không chỉ ở Triều Tiên - vẫn còn là một con đường dài đầy khó khăn, trắc trở. 
Thưa các quý vị!
Việc các bên liên quan ngồi lại với nhau, giải quyết bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, thông qua đối thoại; thay vì đối đầu, đe dọa sử dụng vũ lực hoặc hành động đơn phương là con đường tốt nhất, có thể giải quyết được nhiều vấn đề trên cơ sở lợi ích chung, tôn trọng luật pháp quốc tế và cơ chế khu vực. Từ thực tiễn và kinh nghiệm, chúng tôi cho rằng để giải quyết các vấn đề an ninh phức tạp, trước hết mỗi quốc gia phải tự quyết định vận mệnh của mình. Đồng thời, rất cần sự hỗ trợ, chung tay hành động một cách vô tư, công bằng, khách quan, vì lợi ích chung của cộng đồng quốc tế, nhất là các nước lớn.
Với cách nhìn như vậy, thông điệp mà tôi muốn gửi đến quý vị hôm nay là: “Độc lập, tự chủ, tăng cường hợp tác, tuân thủ luật pháp quốc tế là nền tảng của an ninh, hòa bình và phát triển”. Vậy muốn có được tầm nhìn tương lai đó, chúng ta cần sự hợp tác như thế nào?
- Trước hết các cấu trúc, cơ chế an ninh phải dựa trên luật pháp quốc tế, các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc, các chuẩn mực ứng xử được công nhận, các cam kết khu vực làm nền tảng và sự đồng thuận về chính trị giữa các bên trên cơ sở lợi ích chung.
- Xây dựng sự tin cậy lẫn nhau thông qua tham vấn, trao đổi thông tin, tiếp xúc cấp cao và thúc đẩy hoạt động chung giữa các lực lượng quân đội, tăng cường phối hợp quân - dân sự. Quan trọng nhất là các bên minh bạch hoá chính sách, thể hiện thiện chí, quyết tâm, thực hiện đúng các cam kết và nghĩa vụ pháp lý; lời nói đi đôi với việc làm.
 - Cần hành xử có trách nhiệm của tất cả các bên, nhất là các nước lớn; gánh vác trách nhiệm trong nỗ lực chung của khu vực vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Đặc biệt là kiềm chế, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; không tiến hành các hoạt động đơn phương làm phức tạp thêm tình hình.
- Phát huy hiệu quả và mở rộng, đa dạng hóa các cơ chế đối thoại, hợp tác về quốc phòng - an ninh - chính trị, kinh tế trong khu vực và liên khu vực. Tiếp tục đẩy mạnh chia sẻ thông tin, kinh nghiệm phòng ngừa, quản lý khủng hoảng, tiến tới hợp tác thực chất; trước hết trong lĩnh vực hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa, thực thi pháp luật trên biển, đảm bảo an ninh, an toàn hàng hải, hàng không, chống khủng bố, cướp biển... nghiên cứu xây dựng cơ chế mới hỗ trợ các bên giải quyết hòa bình các vấn đề an ninh, tranh chấp, nhất là các vấn đề phức tạp như bán đảo Triều Tiên, Biển Hoa Đông, Biển Đông…, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, lãnh thổ, tuân thủ luật pháp quốc tế, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Khuyến khích sử dụng các kênh đối thoại để chia sẻ, trao đổi nhận thức của giới hoạch định chính sách, hướng đến bức tranh rộng lớn hơn, vượt tầm lợi ích quốc gia.
Thưa các quý vị!
ASEAN là một mẫu hình hợp tác, liên kết thành công của các nước vừa và nhỏ; ngày càng đóng vai trò tích cực, trung tâm cho những nỗ lực chung; định hình cấu trúc an ninh, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định của châu Á - Thái Bình Dương. Thực tế đã khẳng định một ASEAN đoàn kết, thống nhất có lợi cho tất cả các nước thành viên và các nước đối tác trong quản lý xung đột, đảm bảo an ninh, ổn định khu vực trên cơ sở lợi ích chung và lợi ích của mỗi quốc gia, phù hợp với luật pháp quốc tế.
Trọng tâm của ASEAN là nâng cao năng lực bảo đảm an ninh; thực hiện các biện pháp xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa và hợp tác tìm các phương pháp giải quyết xung đột; cùng với các nước thiết lập một trật tự an ninh vững chắc. Hiện có nhiều cơ chế do ASEAN đóng vai trò trung tâm như: Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Diễn đàn Biển ASEAN (AMF), Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM)... Đặc biệt là cơ chế Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), đã tập hợp rộng rãi các quốc gia khu vực châu Á và các quốc gia đối tác, có vai trò quan trọng để thúc đẩy đối thoại, tiếp xúc cấp cao nhằm xây dựng lòng tin, triển khai hợp tác đa dạng, đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống trên nhiều lĩnh vực.
Năm 2020, Việt Nam sẽ đảm nhiệm cương vị Chủ tịch ASEAN, là dịp kỷ niệm 10 năm thiết lập ADMM+. Chúng tôi sẽ làm hết sức mình để đưa ra Tầm nhìn an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương (trong khuôn khổ ADMM+); Phát huy vai trò trung tâm của ASEAN gắn với sự đoàn kết, thống nhất và trách nhiệm của các quốc gia thành viên ASEAN (trong khuôn khổ ADMM). Việt Nam mong muốn tiếp tục nhận được sự ủng hộ, tham gia tích cực của các quốc gia đối tác, đối thoại cũng như các quốc gia khác, nhất là các nước lớn; trên cơ sở tôn trọng vai trò trung tâm của ASEAN, để ADMM+ thực sự trở thành một cơ chế hợp tác quốc phòng mở và dung nạp, nhằm huy động sức mạnh tập thể đối phó có hiệu quả với những thách thức an ninh chung.
Thưa các quý vị!
Việt Nam luôn trân trọng giá trị của hòa bình; kiên trì chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; cân bằng chiến lược trong quan hệ với các nước. Xây dựng nền quốc phòng hòa bình, mang tính tự vệ; không liên kết với nước này chống lại nước kia; không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam. Tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của tất cả các nước, trên cơ sở luật pháp quốc tế, quy tắc ứng xử khu vực và đòi hỏi các nước khác cũng như vậy. Việt Nam kiên quyết bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, đồng thời cũng tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác phù hợp với luật pháp quốc tế.
Đối với vấn đề Biển Đông, chúng tôi kiên định và ủng hộ việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982); tuân thủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), thúc đẩy xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC); vừa là biện pháp xây dựng lòng tin chiến lược giữa ASEAN với Trung Quốc, vừa thể hiện quyết tâm của các nước đóng góp cho một trật tự an ninh khu vực dựa trên luật pháp quốc tế. Mọi hành động vi phạm chủ quyền của nước khác, quân sự hóa và gia tăng sức mạnh quân sự đều không phù hợp với luật pháp quốc tế, đi ngược lại các cam kết khu vực. Thay vào đó, các bên có liên quan cần thể hiện trách nhiệm trong việc xây dựng một trật tự trên biển, để Biển Đông thật sự là vùng biển hòa bình, hợp tác và hữu nghị.
Bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, Quân đội Việt Nam đã và đang tham gia tích cực vào Chương trình phát triển bền vững của Liên hợp quốc và mục tiêu Thiên niên kỷ; trong đó có nội dung gìn giữ hòa bình. Vừa qua, trong một thời gian ngắn, lá cờ và bộ quân phục Việt Nam đã trở nên quen thuộc, tin cậy với Phái bộ Liên Hợp quốc và người dân ở các vùng xa xôi thuộc châu Phi, nơi đang chịu hậu quả nặng nề của xung đột, chiến tranh.
Thưa các quý vị!
Trong thế giới toàn cầu hóa, cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ và các thách thức an ninh ngày càng gia tăng, không một quốc gia nào có thể phát triển nếu tách rời khỏi cộng đồng khu vực, thế giới. Vận mệnh và trách nhiệm đang đặt lên vai mỗi chúng ta. Châu Á, Đông Nam Á có duy trì được hòa bình, an ninh và thịnh vượng hay không phụ thuộc rất lớn vào hành động của chúng ta hôm nay. Một trong những nỗ lực đó là cùng nhau xây dựng cơ chế, cấu trúc bảo đảm an ninh chung dựa trên các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, sự tin cậy lẫn nhau và hành xử có trách nhiệm của tất cả các bên.
Nhân dịp này, tôi chúc mừng và bày tỏ sự ủng hộ đối với vai trò Chủ tịch ASEAN và các sáng kiến của Singapore với chủ đề “Tự cường và Sáng tạo”. Tinh thần này sẽ giúp ASEAN vững vàng hơn trong định hình trật tự khu vực, hỗ trợ, điều phối và thúc đẩy các nỗ lực chung, vì hòa bình và ổn định, liên kết kinh tế, hướng tới người dân dựa trên tinh thần đối thoại và hợp tác.
Tôi lạc quan rằng với sự hợp tác thực chất, thực tâm của tất cả chúng ta, thì sóng gió tại châu Á - Thái Bình Dương chỉ càng làm chúng ta gắn bó hơn, nỗ lực hơn vì lợi ích chung và tương lai tươi đẹp hơn của mỗi nước và cả khu vực.
Với niềm tin đó, tôi xin kết thúc bài phát biểu bằng câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh:“An ninh và tự do chỉ có thể được đảm bảo bằng sự độc lập của mỗi quốc gia với bất kỳ một cường quốc nào và bằng sự hợp tác tự nguyện của mỗi nước với tất cả các cường quốc khác”.
Xin trân trọng cám ơn các quý vị đã lắng nghe!
Nguồn: qdnd.vn



LINH MỤC NGUYỄN VĂN TOẢN LẠI GIỞ THÓI XUYÊN TẠC

Mỗi người dân Việt Nam dù theo tôn giáo hay không theo tôn giáo, dù theo Công Giáo, Phật Giáo hay một tôn giáo khác nào đó chắc rằng cũng đều hiểu nhà thờ trong Công giáo là nơi để cho các con chiên, giáo dân học tập, sinh hoạt, cầu nguyện và làm theo những lời Chúa răn dạy của Chúa, với đường hướng hoạt động của giáo hội Công giáo Việt Nam. Ấy vậy nhưng, đáng buồn thay trong những năm qua, tại một số nhà thờ Công giáo trên cả nước đã xuất hiện một số vị linh mục, chức sắc đã biến nhà thờ, biến thành lễ cầu nguyện thành nơi tụ tập để thực hiện những âm mưu chính trị chống phá đất nước. Trong số đó, có lẽ nhà thờ Thái Hà là một trong những “tụ điểm” được những “nhà dân chủ” thường xuyên tụ tập, “hội họp” núp bòngdanh nghĩa dân chủ, nhân quyền, tự do tín ngưỡng ở Việt Nam để thực hiện những chiêu trò chống phá đất nước.
Tại sao lại là nhà thờ Thái Hà chứ không phải ở đâu khác? Có lẽ chính những người đứng đầu nhà thờ Thái Hà là những người hiểu rõ nhất. Người dân không còn lạ lẫm gì với việc nhà thờ Thái Hà luôn được các nhà dân chủ lựa chọn là nơi trú ẩn “an toàn” nhất và không phải là người dân nào muốn vào cũng có thể vào được. Lần ngược lại dòng thời gian, chúng ta có thể thấy rằng đã rất nhiều lần nhà thờ Thái Hà là nơi tạm trú, là điểm kết nối giữa các đối tượng chống phá đất nước đến từ khắp các vùng miền. Từ việc tụ tập, biểu tình gây rối ở Hồ Hoàn Kiếm và những khu công cộng khi có những sự kiện như căng thẳng ở Biển Đông, dự án thay thế cây xanh, xét xử các đối tượng chống phá đất nước như Lê Quốc Quân, Cấn Thị Thêu, Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Văn Đài, Trần Thị Xuân,… thì tụ điểm nhà thờ Thái Hà luôn là sự lựa chọn “nhà chứa” cho những đối tượng chống phá đất nước trú ngụ an toàn.
Đáng buồn hơn khi tại nhà thờ Thái Hà, những vị linh mục đã lợi dụng việc tổ chức Thánh lễ cho Công Lý và Hòa bình để lồng ghép những nội dung tuyên truyền, xuyên tạc lịch sử dân tộc, phủ nhận những thành quả mà toàn thể nhân dân Việt Nam.
Gần đây trong buổi thánh lễ cầu nguyện cho Công lý và Hòa bình diễn ra vào 20h00 Chủ Nhật ngày 27/5/2018, linh mục Nguyễn Văn Toản đã rao giảng cho đàn chiên của mình với sự xuyên tạc, vu cáo trắng trợn khi cho rằng: “Chỉ qua các phương tiện truyền thông, chúng ta đã nghe thấy tiếng ai oán vang lên khắp các tỉnh thành vì mất đất, mất nhà cửa ruộng vườn. Rong ruổi cơ quan này, phòng tiếp dân kia mà cứ mỏi mòn chờ đợi qua năm này đến năm khác. Gia đình ly tán, người già khổ cực, thanh thiếu niên không tương lai. Có những trường hợp cùng cuỗn tự thiêu, chẳng màng chi danh giá: lột đồ, xích chân, cùm tay để phản đối quân áp bức. Rồi có trường hợp bất chấp cảnh tù đầy, lấy sức mỏng, đứng lên chống lại tà quyền hùng hậu”.
Thậm chí vị chủ chăn này còn xuyên tạc cho rằng: “Các cơ sở tôn giáo cũng lần lượt trở thành nạn nhân của nạn tham nhũng đất đai. Tòa Khâm Sứ Hà Nội, Thái Hà cách đây đúng 10 năm là bằng chứng. Dòng Thánh Phaolô Hà Nội, Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm, Đan viện Thiên An tại Huế. Một số xứ Đạo từ Bắc chí Nam, rồi các cơ sở tôn giáo khác cũng lần lượt trở thành nạn nhân. Và việc đạp đổ tâm linh để đổi lấy đất đai cho thấy dấu hiệu của một xã hội suy tàn đến cùng cực”.
Thêm một lần nữa dư luận rất bức xúc trước những hành vi cố tình vi phạm pháp luật của các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà. Đồng bào tôn giáo cũng như không tôn giáo trong cả nước mong rằng: Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định và thực hiện “tự do tín ngưỡng, tôn giáo” là một trong các quyền cơ bản của con người, nhưng không vì thế mà chúng ta nương nhẹ với những hành vi sai trái, coi thường pháp luật của các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà.
Núp dưới các chiêu bài tổ chức “Thánh lễ cầu nguyện cho công lý và hòa bình” hay cái gọi là đấu tranh đòi “công lý”, “sự thật”, những vị linh mục Nhà thờ Thái Hà ngày càng cố tình can dự trái phép vào các hoạt động chính trị, trái với chức trách, bổn phận của các linh mục; luôn tìm cách “hình sự hóa”, “chính trị hóa”, “quốc tế hóa” các vụ việc vi phạm pháp luật, không những chẳng làm trọn bổn phận công dân, nguy hiểm hơn, họ luôn tìm cách chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, chia rẽ tôn giáo, chia rẽ giữa chính quyền với nhân dân… Trong Huấn từ của Giáo hoàng Benedict XVI có đoạn viết: “Bằng đời sống xây nền trên đức ái, sự liêm chính, việc quý trọng công ích, anh chị em giáo dân phải chứng tỏ rằng là người Công giáo tốt cũng là người công dân tốt”. Vậy linh mục Nguyễn Văn Toản, Nguyễn Ngọc Nam Phong đã làm được những gì hay chỉ là bảng thành tích tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo chống phá đất nước?
Là người dân Việt Nam chắc hẳn ai cũng đang rất mong các cơ quan chức năng sớm vào cuộc điều tra, làm rõ và sớm xử lý nghiêm minh trước pháp luật với những kẻ đã và đang xuyên tạc, phí bảng lịch sử như linh mục Nguyễn Văn Toản và linh mục Nguyễn Ngọc Nam Phong.
Khoai Lang
http://ngheanthoibao.com/linh-muc-nguyen-van-toan-lai-gio-thoi-xuyen-tac/


“GÁO NƯỚC LẠNH” GIỘI VÀO NHỮNG KẺ HIỀM KHÍCH, CHỐNG PHÁ

 

Ngày 12-5, sau 6 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra. Thành công của Hội nghị Trung ương (HNTƯ) 7 là minh chứng sinh động, luận cứ thuyết phục, vạch trần toàn bộ âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc thâm độc, bịa đặt trắng trợn của các thế lực phản động, chống phá cách mạng Việt Nam.

Lật tẩy hai chiêu trò dơ bẩn
Từ đầu tháng 5, trên các trang mạng nước ngoài tung ra nhiều tin đồn, suy đoán rằng tại HNTƯ 7, khóa XII của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ có biến cố, xáo trộn về nhân sự ở vị trí “tứ trụ” (tức nhân sự ở các chức danh: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội). Tác giả của những bài viết toan lo, rằng sự xáo trộn ấy sẽ ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, nhất là gây mất đoàn kết trong Đảng, do các phe cánh bày mưu tính kế, hạ bệ lẫn nhau… Và sự bịa đặt trắng trợn ấy ngay lập tức bị giội thẳng “gáo nước lạnh”, khi mà kỳ họp lần này của Trung ương diễn ra thành công tốt đẹp. Theo đó, Trung ương chỉ bầu bổ sung hai Ủy viên Ban Bí thư, kiện toàn chức danh lãnh đạo Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nhằm mục đích tăng cường kiểm soát quyền lực, đẩy mạnh kiểm tra giám sát, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ ngày càng trong sạch, ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Kết quả biểu quyết và bầu nhân sự cũng rất tập trung (với số phiếu trên 96%), cho thấy sự đồng thuận, thống nhất, đoàn kết cao trong tập thể Ban Chấp hành Trung ương.
Trước thềm HNTƯ 7, khóa XII, các luận điệu còn tung hô: Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ chủ ý bưng bít thông tin về hội nghị lần này, bởi tính nhạy cảm về nội dung mà hội nghị thảo luận. Thế nhưng, thực tế trước, trong và sau khi hội nghị diễn ra hoàn toàn không phải vậy!
Xin kể lại rằng: Ngay từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII, Trung ương Đảng, Ban Bí thư đã quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về xây dựng Đề án “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” thực hiện nhiệm vụ khảo sát, xin ý kiến các tầng lớp xã hội, tổ chức, cơ quan, đơn vị để hoàn thiện các dự thảo văn kiện trình HNTƯ 7, khóa XII xem xét, quyết nghị. Và suốt thời gian chuẩn bị, hàng chục cuộc hội thảo, cuộc họp ở nhiều khu vực do Ban Chỉ đạo tổ chức, cùng 128 hội nghị cấp đảng bộ trực thuộc Trung ương bàn về công tác cán bộ được công khai rộng rãi trên các phương tiện truyền thông. Cùng với đó, cơ quan tư vấn cho Trung ương là Hội đồng Lý luận Trung ương cùng đội ngũ trí thức nước nhà đã tổ chức nhiều diễn đàn khoa học, tiến hành khảo sát thực tế ở nhiều địa phương, tạo ra nhiều kênh thông tin đa chiều, phong phú nhằm huy động sự đóng góp của toàn dân cho dự thảo đề án công tác cán bộ và các dự thảo văn kiện khác… Với cách làm đó nên tinh thần của Trung ương lần này được đến với dân rất sớm, rất đầy đủ, công khai. Trước ngày hội nghị khai mạc khoảng 2 tháng, nhiều cơ quan báo chí Trung ương và địa phương đã mở chuyên trang, chuyên đề tuyên truyền sâu rộng về tinh thần, nội dung sẽ được HNTƯ 7, khóa XII xem xét, quyết nghị. Việc tuyên truyền được tiến hành với tinh thần thẳng thắn, công khai, bảo đảm tính thời sự và đúng sự thật. Nhiều cơ quan báo chí còn chủ động tổ chức vệt bài phân tích sâu về hạn chế, yếu kém trong công tác cán bộ của Đảng thời gian qua; tạo dấu ấn lớn trong dư luận, khích lệ tinh thần trách nhiệm cán bộ, đảng viên, quần chúng, huy động ý kiến đa chiều của nhiều giai tầng, tạo nên diễn đàn chính trị sâu rộng trong toàn xã hội… Với nội dung các văn kiện vừa được quyết nghị tại HNTƯ 7, khóa XII, cho thấy Ban Chấp hành Trung ương Đảng rất cầu thị, trân trọng ý dân, chủ động lĩnh hội, tiếp thu đóng góp của nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương để bổ sung, hoàn thiện 3 đề án quan trọng, có ý nghĩa chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng.
Trong các ngày diễn ra hội nghị, phóng viên các cơ quan báo chí đều có mặt tại các phiên thảo luận để phản ánh trung thực những diễn biến hội nghị. Sau mỗi lần hoàn thành đầu việc chương trình, sau mỗi quyết định của Trung ương các báo đều nhất loạt đăng tải tin, bài, cung cấp đến toàn dân cái nhìn đa chiều, toàn diện về diễn biến và kết quả của hội nghị. Đó là sự thật hiển nhiên có thể thấy được; là tinh thần, nội dung chủ lưu trong dòng chảy thông tin báo chí, dư luận xã hội, cũng như trên không gian mạng Việt Nam những ngày qua. Hơn thế, tự thân sự thật đó đã bóc mẽ, hạ bệ, vạch trần lối xuyên tạc bịa đặt trắng trợn, suy diễn về việc “cố tình bưng bít thông tin” của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hạ bệ cái gọi là “lợi ích nhóm trên nghị trường”
Ngoài hai chiêu trò vừa vạch trần ở trên, trước HNTƯ 7, khóa XII, những kẻ hiềm khích còn tự nghĩ ra một khái niệm khá kỳ lạ: “Lợi ích nhóm trên nghị trường”. Từ đó, chúng suy diễn: “HNTƯ là một dịp để những người cầm đầu bộ máy quyền lực túm lại với nhau, bàn thảo kế hoạch hiện thực hóa lợi ích nhóm”.
Thực tế trong các phiên thảo luận cho thấy, đã có gần 50 ý kiến trình bày trực tiếp tại hội trường; hàng trăm ý kiến thảo luận ở tổ; và gần như đại biểu nào cũng có tham luận gửi về Đoàn Chủ tịch Hội nghị để tham gia góp ý bổ sung, hoàn thiện các văn kiện. Tinh thần nói thẳng, nói đúng, nói thật luôn xuyên suốt và bao trùm trong mỗi ý kiến. Thậm chí với những vấn đề mới và khó, các đại biểu tranh luận rất gay gắt, mạnh mẽ, bảo vệ quan điểm, chính kiến khác nhau trên cơ sở dân chủ, tôn trọng chân lý khoa học và thực tiễn khách quan.
Tinh thần thẳng thắn, trách nhiệm càng được thể hiện rõ nét ở việc Trung ương cho ý kiến vào Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2017. Các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng đã không ngần ngại, cả nể hay nói tránh, mà thẳng thắn “điểm mặt, chỉ việc”, tách bạch giữa thành quả và hạn chế, giữa ưu và khuyết, giữa được và chưa được trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo để tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư tiếp thu, đúc rút kinh nghiệm, nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ Ban Chấp hành Trung ương giao phó. Trên cơ sở những đóng góp đó, tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã cầu thị lắng nghe, tự phê bình sâu sắc.
Không chỉ mạnh mẽ chỉ rõ hạn chế, khuyết điểm, Trung ương còn thống nhất ban hành các giải pháp “rất mạnh tay” trong rèn luyện cán bộ, quản lý và kỷ luật cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược. Trong 8 nhóm giải pháp lớn của công tác cán bộ được HNTƯ xác định đều có điểm chung và rất hay ở chỗ: Đã đặt lợi ích của nhân dân, của tập thể lên trên lợi ích cán bộ; buộc cán bộ phải biết cách hy sinh, chấp nhận hy sinh vì lợi ích chung của sự nghiệp cách mạng.
Bởi thế, ngay sau khi bài phát biểu bế mạc HNTƯ 7, khóa XII của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được công khai rộng rãi (sáng 12-5), dư luận xã hội bày tỏ sự đồng thuận, phấn khởi trước chủ trương phải “nhốt” quyền lực vào lồng cơ chế, pháp luật. Người dân cho rằng, Trung ương quyết liệt như vậy là rất quý và đáng kính; thể hiện ý chí quyết tâm cao của những người đứng đầu đất nước. Bởi lẽ, tập thể Trung ương Đảng gồm phần lớn là cán bộ chủ chốt, chủ trì ở các cơ quan, đơn vị Trung ương và địa phương lại đi quyết định một chủ trương để khống chế, kèm cặp, ràng buộc chính mình. Nhiều người lật ngược vấn đề: Tại sao không để quyền lực tự do, tự tại để mỗi cán bộ Trung ương có điều kiện lợi dụng những kẽ hở hòng tư lợi cá nhân? Tại sao phải chống “chạy chức, chạy quyền”, trong khi nếu vấn nạn này tiếp diễn thì có lợi cho những người đứng đầu tổ chức? Họ sẽ có thêm “lộc lá”, quà cáp biếu xén và nhiều thứ lợi ích riêng tư khác cho bản thân, người thân, gia đình và lợi ích nhóm…? Và như vậy, chắc chắn, những quyết định của Trung ương lần này là vì lợi ích chung, để “ích nước, lợi nhà”. Đó là bằng chứng sống, thuyết phục về tinh thần trách nhiệm vì dân, vì nước mà gạt bỏ mưu cầu cá nhân của đội ngũ các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng khóa XII.
Cũng với quyết tâm chống “chạy chức, chạy quyền”, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, Trung ương nhất quán chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, huyện không phải là người địa phương. Phần việc này được làm ngay sau thành công hội nghị và phấn đấu hoàn thành trong năm 2025. Trước quyết định này, toàn dân bày tỏ sự hoan nghênh, đồng thuận, bởi lẽ ai cũng hiểu, đây là giải pháp khả thi giúp khắc phục, đẩy lùi được ngay thực trạng kéo bè kéo cánh, cục bộ địa phương, nâng đỡ, bổ nhiệm người thân, người nhà… Đó là chủ trương có lợi cho tổ chức, nhân dân. Cùng với đó, người dân cũng hiểu được, những người quyết định chủ trương này là các Ủy viên Trung ương Đảng và số đông đang giữ chức danh bí thư tỉnh ủy, thành ủy. Do đó, các đồng chí này phải tự ý thức rất cao, trách nhiệm rất lớn mới đi đến quyết định cuối cùng mà sắp tới họ phải làm gương thực hiện trước, chấp nhận hy sinh thiệt thòi về phần mình. Ấy là việc mỗi Ủy viên Trung ương Đảng là bí thư tỉnh ủy, thành ủy phải thực hiện nhiệm vụ ở những địa phương khác; phải chấp nhận những rào cản về tư tưởng, tâm lý, thời gian, không gian khách quan chi phối; phải xa quê hương, xa gia đình với nhiều nảy sinh liên quan đến hậu phương cán bộ… Tất cả những vấn đề ấy được dự báo trước, được các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng nhận thức rõ, thế nhưng gần 180 cánh tay vẫn tự tin đưa cao, thống nhất quyết định cuối cùng. Điều đó chứng tỏ các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng đã biết đặt lợi ích của tập thể lên trên, biết hy sinh cá nhân vì sự nghiệp cách mạng chung.
Như vậy, tinh thần thẳng thắn, quyết liệt của Trung ương là khác xa, thậm chí trái ngược với những luận điệu ngụy biện, bịa đặt của các thế lực thù địch chống phá, rằng Trung ương đang “lợi ích nhóm trên nghị trường”, cấu kết nhau để dò dẫm tìm cách mị dân, đề ra những quyết sách có lợi cho bộ phận tầng trên của hệ thống cầm quyền.
Rất dễ nhận thấy, sau HNTƯ 7, khóa XII thành công tốt đẹp, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta càng thêm vững tin vào vai trò lãnh đạo của Đảng. Tin tưởng rằng, sắp tới, những nghị quyết chiến lược khi được ban hành sẽ trở thành những ngọn đèn pha soi sáng để Đảng vững tay chèo, đưa con thuyền cách mạng cập bến những thành công mới. Và những nghị quyết chiến lược ấy sẽ soi rọi mọi ngõ ngách đời sống thực tiễn xã hội, để những kẻ xuyên tạc, chống phá không còn bóng tối để núp bóng, ẩn mình!
NGUYỄN TẤN TUÂN (QĐND)



Mưu đồ chính trị đen tối của các thế lực phản động lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo của nhân dân
Việc khiếu kiện của người dân là vấn đề bình thường của mọi quốc gia, chứ không phải cứ người dân đi khiếu kiện lại gọi là “dân oan” như những kẻ thiếu thiện chí đặt cho họ. Những người dân khiếu kiện tập trung trước các cơ quan nhà nước ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, chắc chắn ít hơn nhiều so với số người biểu tình ở Washington, thậm chí ngay trước Nhà trắng ở Mỹ. Nhưng vì sao những kẻ này lại “quan tâm” đến chuyện khiếu kiện ở Việt Nam như vậy?
Thời gian qua, hoạt động khiếu nại, tố cáo ở nước ta luôn được tôn trọng, được bảo đảm, đồng thời phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, trong khuôn khổ pháp luật. Sự thật là, một số đối tượng xấu, thù địch, phản động lợi dụng chính nỗi bức xúc của người dân để trà trộn, lôi kéo, kích động người dân khiếu kiện. Cùng với sự “hà hơi tiếp sức” của bọn phản động ở hải ngoại cung cấp tiền, trang bị điện thoại di động, các phương tiện để thường xuyên liên lạc với chúng, cung cấp những thông tin “ít xuýt ra nhiều”, hoặc các bài “phỏng vấn” đổi trắng thay đen một cách trơ trẽn, nhằm thực hiện mưu đồ gây rối, gây bao loạn, khi có thời cơ chúng thực hiện “cuộc cách mạng màu” lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thực chất vấn đề đơn thư khiếu kiện của một số công dân phản ảnh những vụ việc bức xúc, kéo dài mà không được giải quyết liên quan đến chế độ người có công, sở hữu đất đai, tố cáo cán bộ địa phương vi phạm… Song ở một vài vụ việc, người đứng đơn còn liên tiếp tung lên mạng xã hội những bài viết bức xúc, thậm chí có phần quy kết chính quyền một cách thiếu căn cứ. Thế nhưng sau đó, các trang mạng xã hội và trang web ở nước ngoài liên tiếp đăng tải, chia sẻ các đơn, thư, bài viết của người dân. Có những kẻ tự xưng là “luật sư”, “nhà dân chủ” liên hệ với người dân và hứa hẹn sẽ sẵn sàng giúp đỡ, tư vấn, đăng tải… Họ ca ngợi những người đứng đơn là dũng cảm, thậm chí còn gửi thư, ngoài bì thư phong cho một nữ công dân là “anh hùng” dù cô mới chỉ có một bài viết bày tỏ nỗi bức xúc của mình trên trang cá nhân. Họ còn “vẽ đường cho hươu chạy”, kích động người dân làm băng rôn, khẩu hiệu, tụ tập đông người kéo đến các cơ quan pháp luật gây sức ép thì mới thành công. Nguy hiểm hơn, nhiều người dân bị kích động quá khích đã bao vây trụ sở, bắt giữ người trái phép là vi phạm pháp luật nghiêm trọng, có thể bị điều tra, truy tố, xét xử đã được Bộ luật Hình sự quy định rõ. Pháp luật cho phép người dân được quyền kiến nghị, khiếu nại, tố cáo; việc kiến nghị, khiếu nại, tố cáo phải được thực hiện bằng đơn, bằng văn bản và phải tập hợp các chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Đây là một cách tốt nhất để người dân bị xâm hại thực hiện quyền con người, quyền công dân đã được Hiến pháp ghi nhân.
Người dân không nên nghe theo sự xúi giục của kẻ xấu, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các cơ quan chức năng, ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Nếu không cảnh giác, người dân còn có thể vô hình trung vi phạm pháp luật nghiêm trọng hơn khi tiếp tay cho các thế lực phản động. Người dân cũng cần phân biệt việc kiến nghị giải quyết các vướng mắc, bức xúc về quyền lợi không liên quan đến các phong trào kêu gọi “dân chủ, nhân quyền”, chống phá Đảng, Nhà nước mà các đối tượng xấu kêu gọi, kích động, xúi dục.
Cùng với việc nêu cao tinh thần cảnh giác thì mỗi người cũng cần phải nâng cao hiểu biết pháp luật, xây dựng nếp sống thượng tôn pháp luật, tôn trọng các cơ quan công quyền, cơ quan bảo vệ pháp luật; đấu tranh với những hành vi sai trái, bảo vệ quyền lợi của mình nhưng phải đúng pháp luật. Không thể vì sự bức xúc mà thiếu bản lĩnh, chủ quan, để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo của nhân dân để kích động chống phá Nhà nước, gây rối trật tự công cộng. Cần phải có biện pháp hữu hiệu ngăn chặn những kẻ đang kích động, lợi dụng những người dân khiếu kiện để “đục nước béo cò”. Đồng thời các cơ quan chức năng cần phải nêu cao trách nhiệm, làm tròn chức trách nhiệm vụ của mình, giải quyết có trách nhiệm và thỏa đáng những vướng mắc, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của người dân; không để tồn tại nhiều kẽ hở để kẻ xấu lợi dụng, chống phá./.
Thế sự và thời cuộc
http://ngheanthoibao.com/muu-do-chinh-tri-den-toi-cua-cac-the-luc-phan-dong-loi-dung-quyen-khieu-nai-to-cao-cua-nhan-dan/


CHIÊU TRÒ LỢI DỤNG TÔN GIÁO ĐỂ CHỐNG PHÁ VIỆT NAM
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch xác định tôn giáo là vấn đề nhạy cảm, tín đồ tôn giáo là lực lượng xã hội dễ lừa bịp, kích động để tạo dựng “ngọn cờ”, tập hợp lực lượng chống đối. Ngay từ khi đặt chân vào Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc đã tính toán đến âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta. Chúng tìm cách mua chuộc, lôi kéo các giáo sĩ, tín đồ các tôn giáo để thực hiện mục đích chính trị phản động.
Khi Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam (1975), viên Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn – Polga – nói rằng: “Sau khi Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam thì lực lượng đấu tranh với cộng sản, chủ yếu là tôn giáo…”.
Lúc chúng ta bước vào công cuộc đổi mới, chủ nghĩa đế quốc tiếp tục lợi dụng vấn đề tôn giáo để thực hiện “diễn biến hoà bình” đối với Việt Nam . Các thế lực thù địch tuyên truyền rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam hiện đang còn mạnh, chưa thể chuyển hoá ngay được nội bộ. Vì vậy, để làm cho Cộng sản Việt Nam suy yếu, biện pháp hữu hiệu nhất là dùng vấn đề tôn giáo và dân tộc để phá hoại an ninh, làm cho Việt Nam suy yếu…”.
Chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng thù địch nhìn nhận tôn giáo ở Việt Nam như một lực lượng chính trị có thể “đối trọng” với Đảng Cộng sản Việt Nam và đang hậu thuẫn cho số đối tượng chống đối trong các tôn giáo cả về tinh thần và vật chất, phục vụ cho âm mưu sử dụng tôn giáo làm lực lượng thúc đẩy nhanh tiến trình “dân chủ hoá” nhằm làm thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. Chính sự hậu thuẫn này là nhân tố kích động số phần tử quá khích trong tôn giáo có thái độ thách đố với chính quyền, như: Chúng có ý đồ thành lập “Uỷ ban liên tôn chống cộng”, lôi kéo tín đồ, tụ tập đông người, xúi giục biểu tình, gây rối dẫn tới bạo loạn để chờ bên ngoài can thiệp.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch luôn xác định vấn đề “tự do tôn giáo” là hướng ưu tiên chính trong chính sách đối với Việt Nam, chúng tìm mọi cách tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của Nhà nước. Quốc hội Mỹ đã ra một số nghị quyết và tổ chức nhiều cuộc điều trần về vấn đề tôn giáo ở việtNam ; xếp Việt Nam vào danh sách các quốc gia “đàn áp tôn giáo”! Gần đây, Uỷ ban Tự do tôn giáo của Mỹ tiếp tục công bố báo cáo đánh giá tiêu cực về tình hình tôn giáo ở Việt Nam .
Trong khi đó, bọn phản động lợi dụng tôn giáo trong nước, nhất là số cực đoan, quá khích trong công giáo, phật giáo Ấn Quang, phật giáo Hoà Hảo,… lợi dụng những diễn biến phức tạp trên thế giới, hoạt động ngày càng quá khích hơn; câu kết với các thế lực thù địch bên ngoài lôi kéo, tập hợp tín đồ để kích động biểu tình, gây rối, tạo cớ cho bên ngoài can thiệp.
Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam, tập trung vào một số hoạt động chủ yếu sau đây: Một là, tìm cách ủng hộ và thông qua các đạo luật mang tính pháp lý nhằm lợi dụng vấn đề tôn giáo để hoạt động can thiệp, chống phá. Hai là, dung túng, giúp đỡ lực lượng phản động trong tôn giáo người Việt ở hải ngoại tổ chức hoạt động chống Việt Nam . Ba là, hỗ trợ, kích động và chỉ đạo các đối tượng cực đoan, phản động trong tôn giáo ở trong nước tổ chức các hoạt động chống phá.
Các cơ quan đại diện chính thức của một nước lớn tại Việt Nam có nhiều hoạt động công khai, trắng trợn nhằm ủng hộ cho các đối tượng cực đoan, phản động trong các tôn giáo. Đại sứ quán của họ tại Hà Nội và Tổng lãnh sự quán tại TP.Hồ Chí minh thường xuyên cử người đi các tỉnh, thành của Việt Nam để “nắm tình hình” sinh hoạt của các tôn giáo, nhưng thực chất là nhằm trực tiếp tiếp xúc, kích động các chức sắc và tín đồ tôn giáo gây áp lực đòi thả những tên đội lốt tôn giáo hoạt động chống phá bị ta bắt; “tiếp sức” cho các đối tượng đang có hoạt động chống đối.
Tình báo của họ thông qua một số chức sắc tôn giáo cực đoan, ngầm chỉ đạo Nguyễn Văn Lý, Chân Tín, Thích Quảng Độ, Lê Quang Liêm ra các “lời kêu gọi” phản động để “nắn gân” cộng sản Việt Nam sau Đại hội X. Nhóm thiên chúa giáo cực đoan liên tục lợi dụng tranh chấp đất đai để hoạt động đấu tranh chống chính quyền. Đặc biệt, ở một số địa phương từ tranh chấp đất đai, chúng lợi dụng người cầm đầu tổ chức tôn giáo ở đó để kích động, xô đẩy giáo dân vào cuộc đấu tranh mang màu sắc chính trị, gây mất ổn định chính trị, tạo cớ cho các thế lực thù địch bên ngoài can thiệp.
Các thế lực thù địch đã chỉ đạo cho một số đối tượng cực đoan, núp dưới danh nghĩa những nhà truyền đạo, như “mục sư”, “tình nguyện viên”,… để đi sâu vào nội bộ quần chúng các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, nhằm lừa phỉnh, dụ dỗ, xúi giục, kích động các tín đồ bỏ lao động sản xuất để tham gia hoạt động biểu tình chống đối chính quyền. Được chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch hậu thuẫn, bọn phản động trong các tôn giáo ở Tây Nguyên ra sức lợi dụng việc Đảng và Nhà nước ra thực hiện chủ trương xoá các tổ chức Tin Lành trái phép để vu cáo chính quyền Nhà nước Việt Nam “Vi phạm tự do tôn giáo”, kêu gọi “cầu nguyện cho Tin Lành Tây Nguyên”, đồng thời kích động các hoạt động chống đối.
Hiện nay và trong thời gian tới, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã, đang và sẽ tăng cường chỉ đạo, giúp đỡ mọi mặt để phát triển đạo trong các vùng dân tộc ít người, bao gồm cả phát triển các đạo giáo mới và cả số người theo đạo, biến các tổ chức và hoạt động tôn giáo thành các tổ chức và hoạt động chính trị chống lại cách mạng Việt Nam. Chúng ta phải thường xuyên nêu cao cảnh giác, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền để nhân dân thấy rõ âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
Vũ Văn Trạng
http://ngheanthoibao.com/chieu-tro-loi-dung-ton-giao-de-chong-pha-viet-nam/


VÌ SAO VIỆT NAM LẠI LÀ MỘT TRỌNG ĐIỂM TRONG
 CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”?
Sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch Chủ nghĩa xã hội tập trung tấn công bằng “diễn biến hòa bình” với các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó Việt Nam là một trọng điểm chiến lược. Ngày 28-09-1991, Tổng thống Mỹ G.Bút-sơ tuyên bố “Hầu hết 45 năm qua, trọng điểm số một của chúng ta là ngăn chặn ý thức hệ cộng sản. Đến nay chúng ta mới đối phó với thách thức đó một cách thành công…Nhưng Đông Á-Thái Bình Dương vẫn là xứ sở của những xã hội phát triển mạnh mẽ nhất về kinh tế và chính trị. Ở đây lại vẫn còn một số chế độ cộng sản cuối cùng và những điểm nóng khu vực về chiến lược như Bắc Triều Tiên, Camphuchia và lãnh thổ tranh chấp chưa được giải quyết… Trong mọi trường hợp phức tạp này, khi kỷ nguyên phiêu lưu của Liên Xô đang giảm xuống, Mỹ cần có những lực lượng mới ở Việt Nam, Camphuchia, Bắc Triều Tiên. Ngày 12-01-1992, R.Ních-xon kêu gọi: “Trong lúc chào mừng thất bại của ý thức hệ cộng sản, chúng ta phải cam kết chấm dứt ách áp bức của Hà Nội đối với những người Việt Nam đã từng chiến đấu quả cảm cùng chúng ta”. Trong tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam ngày 11.7.1995, Tổng thống mỹ B.Clin-tơn không hề giấu giếm ý đồ xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, khi nói “Tôi tin rằng việc bình thường hóa, và tăng cường các cuộc tiếp xúc giữa người Mỹ và người Việt Nam sẽ thúc đẩy sự nghiệp tự do ở Việt Nam như đã từng diễn ra ở Đông Âu và Liên Xô trước đây”.
Như vậy, chúng ta thấy rõ Việt Nam luôn là nơi tập trung các biện pháp tấn công phá hoại của các thế lực thù địch với một mục tiêu chính trị phản động là lật đổ chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sở dĩ các thế lực thù địch chọn Việt Nam là trọng điểm chống phá trong hoạt động “diễn biến hòa bình” là bởi mấy lý do sau:
Thứ nhất, Việt Nam là nơi đế quốc Mỹ bị thất bại thảm hại trong cuộc chiến tranh quân sự trước đây. Đây là một thất bại đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ, thất bại này để lại hội chứng nặng nề, do đó các thế lực ở Mỹ còn hận thù sâu sắc với chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, muốn xóa bỏ “hội chứng Việt Nam”. Để làm điều đó các thế lực ở Mỹ quyết tâm dùng “diễn biến hòa bình” để chiến thắng Việt Nam, lật đổ vai trò lãnh đạo của những người cộng sản ở Việt Nam.
Thứ hai, Việt Nam là một trong những nước xã hội chủ nghĩa còn lại có vị trí, vai trò ảnh hưởng lớn đối với phong trào cách mạng thế giới. Việt Nam là một dân tộc anh hùng, đã giương cao ngọn cờ đấu tranh giành độc lập dân tộc, đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Thắng lợi của Việt Nam đã góp phần cổ vũ phong trào đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Mặt khác, công cuộc đổi mới ở Việt Nam do Đảng cộng sản lãnh đạo đã thu được những thành tựu vĩ đại, từng bước khắc phục khủng hoảng, kinh tế có bước phát triển quan trọng, giữ vững được ổn định chính trị-xã hội, bất chấp Liên Xô, Đông Âu sụp đổ, sự bao vây phong tỏa, chống phá quyết liệt của kẻ thù. Thành tựu của Việt Nam trong công cuộc đổi mới là nguồn cổ vũ lớn cho phong trào đấu tranh vì độc lập, dân chủ tiến bộ xã hội và chủ nghĩa xã hội. Đồng thời nó còn là một thực tế hùng hồn chứng minh cho sức sống của chủ nghĩa xã hội. Do đó, các thế lực thù địch cho rằng tiêu diệt chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một mục tiêu quan trọng nhằm khẳng định chủ nghĩa xã hội là con đường bế tắc, không thể đổi mới, cải tổ, cải cách thành công. Trên cơ sở đó để dễ dàng áp đặt mô hình kinh tế, chính trị tư sản phương Tây đối với các dân tộc khác.
Thứ ba, Việt Nam có vị trí chiến lược rất quan trọng trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, án ngữ con đường biển huyết mạch từ Bắc Á xuống Đông Á và Ấn Độ Dương; với nguồn tài nguyên phong phú chưa được khai thác, một  nước lớn ở khu vực, dân số trên 80 triệu người là một thị trường lớn thứ hai ở Đông Nam Á… Với vị trí quan trọng đó mà từ trước đến nay Việt Nam luôn là nơi tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn. Chính vì vậy, Mỹ và các nước phương Tây luôn muốn có mặt ở Việt Nam, tạo ảnh hưởng ở Việt Nam để thực hiện các chiến lược về kinh tế, chính trị, văn hóa của họ. Ngoại trưởng Mỹ Cri-xtốpphơ ngày 19-05-1994 từng khẳng định: “Việt Nam là một nước lớn ở Đông Nam Á, có vai trò quan trọng đối với hòa bình ổn định và phát triển ở khu vực”. Do đó thực hiện “diễn biến hòa bình” lật đổ chế độ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam luôn là mục tiêu quan trọng trong các chiến lược của Mỹ, nhằm tạo điều kiện để Mỹ có chỗ đứng ở Việt Nam, khống chế Việt Nam và từ đó thực hiện các chiến lược của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương và trên phạm vi thế giới.
Nhận thức đúng đắn vấn đề trên thiết nghĩ toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân cần nâng cao tinh thần cảnh giác, đoàn kết một lòng dưới vai trò lãnh đạo của Đảng tiến hành thành công sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước, đẩy lùi chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ và văn minh.
Quang Vinh
http://ngheanthoibao.com/vi-sao-viet-nam-lai-la-mot-trong-diem-trong-chien-luoc-dien-bien-hoa-binh/


NHỮNG NHẬN ĐỊNH THIẾU THIỆN CHÍ
VỀ KINH TẾ VIỆT NAM
Mặc dù tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam trong năm 2017 và 4 tháng đầu năm 2018 rất tốt, thế nhưng một vài người núp dưới danh nghĩa "chuyên gia kinh tế" vẫn cố tình phủ nhận thành quả đó.
Họ cho rằng kinh tế Việt Nam không những không tăng trưởng mà đang trong đà suy thoái năm thứ 10 liên tiếp. Họ thổi phồng nguy cơ nợ xấu và cho rằng Việt Nam có thể sắp vỡ nợ; rằng nhà đầu tư nước ngoài đang tháo chạy; rằng đời sống người dân khổ cực... Những nhận định thiếu khách quan, thậm chí có dụng ý xấu đó không thể đánh lừa được dư luận.
Nền kinh tế đặc trưng của “con hổ châu Á”
Có thể thấy đây là nhận định hoàn toàn bịa đặt. Thực tế cho thấy, kinh tế Việt Nam đang thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng GDP cao của thế giới: Năm 2017 đạt 6,81%; quý I-2018 đạt 7,38% (cao nhất trong 10 năm qua). Điểm nổi bật là trong quý I-2018, cả 3 khu vực kinh tế đều tăng cao hơn cùng kỳ: Nông nghiệp được mùa, tăng 4,05% (cùng kỳ 2,08%); công nghiệp và xây dựng tăng 9,7% (cùng kỳ 4,48%), trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng mạnh với mức 13,56%; dịch vụ tăng 6,7% (cùng kỳ 6,36%). Tổng cầu của nền kinh tế tiếp tục tăng; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 4 tháng đầu năm 2018 tăng 9,8%, loại trừ yếu tố giá còn tăng 8,5% (cùng kỳ tăng 7%). Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI-thể hiện sức mua của nền kinh tế) đạt 52,7 điểm, đứng trong nhóm đầu ASEAN. Nền kinh tế Việt Nam hiện đang là nền kinh tế xuất siêu. Năm 2017, xuất siêu 2,9 tỷ USD; 4 tháng năm 2018 xuất siêu 3,39 tỷ USD.
Trong số báo cuối tháng 3, tờ Les Echos của Pháp có bài viết đánh giá về nền kinh tế Việt Nam. Trong đó, ông Julien Marcilly, chuyên gia kinh tế nổi tiếng của Tập đoàn tài chính Coface nhận định, nền kinh tế Việt Nam đang có những đặc trưng thường thấy của một “con hổ châu Á”, như: Tăng trưởng mạnh ở mức hơn 6% được duy trì từ nhiều năm nay; đầu tư nước ngoài tương đương 6,2% GDP vào năm 2016; thị trường nội địa năng động nhờ vào hơn 90 triệu dân; cơ cấu kinh tế được đa dạng hóa và nâng cấp, không còn chỉ dừng ở ngành dệt may mà chuyển hướng sang lĩnh vực điện tử. Cùng chung nhận định trên, hãng tin Bloomberg đánh giá Việt Nam có thể sẽ trở thành công xưởng của thế giới tiếp theo ở châu Á. Điều này đang nhanh chóng trở thành sự thật bởi rất nhiều công ty công nghệ lớn của thế giới đang đầu tư vào Việt Nam. Trong đó, Tập đoàn Samsung đã đầu tư vào Việt Nam 17 tỷ USD, với các nhà máy sản xuất ra 1/3 sản lượng của tập đoàn này trên toàn thế giới. Theo tờ The Economist, các nhà đầu tư nước ngoài đang nhìn Việt Nam là một nền kinh tế tự do hóa đầy hấp dẫn.
Tài chính quốc gia ổn định, tích cực
Về nhận định cho rằng Việt Nam sắp vỡ nợ thì tình hình thực tế đang chứng minh điều ngược lại. Các tổ chức quốc tế đều đang đánh giá cao sự ổn định của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Trong đó, hãng xếp hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s đã nâng mức xếp hạng tín nhiệm của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ “ổn định” lên “tích cực”. Hãng tin Bloomberg đánh giá VND là một trong những đồng tiền ổn định nhất khu vực châu Á.
Mới nhất, trung tuần tháng 5 này, tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings (Mỹ) vừa thông báo nâng xếp hạng nhà phát hành nợ dài hạn bằng ngoại tệ (IDR) của Việt Nam từ mức “BB-” lên “BB” với triển vọng “ổn định”. Fitch Ratings cũng đánh giá Việt Nam sẽ tiếp tục là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, với mức tăng trưởng GDP 6,7% trong năm nay. Hãng xếp hạng này cũng nhận xét khả năng phòng, chống các cú sốc kinh tế từ bên ngoài của Việt Nam đã được cải thiện, thể hiện ở việc dự trữ ngoại hối tăng từ 37 tỷ USD cuối năm 2016 lên 49 tỷ USD năm 2017. Fitch Ratings dự báo dự trữ ngoại hối của Việt Nam sẽ tăng lên khoảng 66 tỷ USD vào cuối năm 2018, tương đương 3,1 tháng nhập nhẩu. Dòng vốn vào mạnh và khả năng tích lũy đã giúp thanh khoản hệ thống ngân hàng tăng.
Theo đánh giá quốc tế, nợ công của Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an toàn. Fitch Ratings cho rằng Chính phủ Việt Nam đã thực hiện được cam kết duy trì mức nợ công và cải cách doanh nghiệp Nhà nước. Tổ chức này ước tính, tổng nợ chính phủ của Việt Nam giảm về 52,4% GDP năm 2017 từ mức 53,4% năm 2016, trong khi nợ chính phủ bảo lãnh giảm về 9% GDP vào cuối năm 2017 từ mức 10,3% cuối năm 2016. Nhờ đó, nợ công của Việt Nam giảm còn 61,4% GDP cuối năm 2017 từ mức 63,6% cuối năm 2016, và dưới mức trần 65% GDP. Theo ước tính của Fitch Ratings, nợ chính phủ của Việt Nam sẽ tiếp tục giảm và về dưới mức 50% GDP vào năm 2019, nhờ nguồn thu từ chương trình cổ phần hóa.
Như vậy có thể thấy, "sức khỏe" tài chính công của Việt Nam đang khá tốt. So sánh với nền tài chính công của một số nước trên thế giới, ngay cả những nước có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam, không ai không thấy được sự tích cực của nền tài chính công Việt Nam. Ví dụ hiện nay, Italy đang có khoản nợ công lên tới 132% GDP.
Ông Alwaleed Alatabani-chuyên gia tài chính của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam khẳng định: Việt Nam đạt được lạm phát thấp và tăng trưởng GDP cao những năm gần đây là kết quả và minh chứng của việc điều hành chính sách tiền tệ mạnh mẽ, kiên định. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thành công trong việc cân bằng giữa phát triển kinh tế và sự ổn định, bền vững. TS Nguyễn Đức Kiên, Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, thì cho rằng: “Chúng ta có thể tin tưởng khẳng định rằng, gam màu sáng là chủ đạo trong bức tranh của hệ thống ngân hàng và tiền tệ Việt Nam”.
Thước đo sức mạnh của một nền kinh tế được thể hiện khá rõ trên thị trường chứng khoán. Theo đánh giá của hãng tin Bloomberg thì Việt Nam đang trở thành thị trường chứng khoán phát triển nhanh nhất, có nhiều thương vụ IPO lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Trong năm 2017, các thương vụ IPO của Việt Nam tăng lên đến 6 tỷ USD. Bloomberg cho rằng, chứng khoán trên thị trường Việt Nam còn đắt hơn cả nhóm cổ phiếu công nghệ ở Thâm Quyến (Trung Quốc).
Đời sống của người dân dần được nâng cao
Về nhận định mức sống của người dân Việt Nam đi xuống thì thực tế không ai có thể tin nổi. Bởi theo WB, mức sống ở Việt Nam đang được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm và các tầng lớp tiêu dùng mới mở rộng nhanh chóng. Cụ thể, báo cáo "Bước tiến mới: Giảm nghèo và thịnh vượng chung tại Việt Nam" của WB cho thấy, số dân Việt Nam được phân loại là an toàn về kinh tế lên 70%, trong đó 13% thuộc tầng lớp trung lưu. Số người nghèo ở Việt Nam từ 18 triệu vào năm 2010 đã giảm xuống còn khoảng 9 triệu vào năm 2016. 72% người nghèo ở Việt Nam nằm ở miền núi, vùng sâu, vùng xa; WB dự báo người nghèo ở khu vực này sẽ tiếp tục giảm với chính sách khuyến khích trồng cây công nghiệp có giá trị cao để tăng thu nhập trong cộng đồng các dân tộc thiểu số. 
Nghiên cứu của Công ty tư vấn Boston Consulting Group (BCG) cũng cùng chung nhận định trên khi cho rằng, tầng lớp trung lưu đang phát triển với tốc độ nhanh chóng ở Việt Nam. Theo đó, tầng lớp trung và thượng lưu với mức thu nhập từ 714USD/tháng trở lên ở Việt Nam tăng lên mức 33 triệu người trong thời gian 2014-2020. Trong khi đó, Công ty nghiên cứu thị trường Nielson ước tính, dân số thuộc tầng lớp trung lưu của Việt Nam sẽ đạt mức 44 triệu người vào năm 2020 và 95 triệu người vào năm 2030.
Theo Solidiance-công ty tư vấn chiến lược hàng đầu tại châu Á, giai đoạn 2012-2016, Việt Nam là quốc gia có nhu cầu tiêu thụ ô tô tăng trưởng nhanh nhất khối ASEAN. Nếu tính riêng quãng 2015-2016, Việt Nam có nhu cầu tiêu thụ ô tô đạt tăng trưởng 36%, trong khi Indonesia chỉ tăng nhẹ 5%, Thái Lan giảm 4% và Malaysia giảm 13%. Có thể nói, nhu cầu mua ô tô mới là một biểu hiện rõ ràng của mức sống người dân đi lên.
Trong Báo cáo thịnh vượng 2017 (Wealth Report 2017) được Công ty Knight Frank công bố, Việt Nam là một trong số các quốc gia có số người siêu giàu tăng nhanh hàng đầu thế giới. Theo báo cáo này, năm 2016, Việt Nam có 200 người siêu giàu (mỗi người sở hữu từ 30 triệu USD trở lên), tăng 32 người so với báo cáo năm trước đó và tăng 50 người so với năm 2014. Theo đó, tốc độ tăng người siêu giàu đạt 170%. Knight Frank dự báo, trong vòng một thập kỷ tới, Việt Nam sẽ có 540 người siêu giàu.
Tất cả những đánh giá tích cực, mang tính khách quan nêu trên của các cơ quan, tổ chức quốc tế, cũng như sự phấn khởi của người dân trước sự cải thiện thấy rõ của đời sống là những câu trả lời rõ ràng cho những nhận định thiếu thiện chí của một số cá nhân về nền kinh tế Việt Nam. Trong số này có những người luôn tỏ rõ thái độ hằn học với sự đi lên của kinh tế-xã hội, của đời sống nhân dân Việt Nam, của sức mạnh dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng những cố gắng câu kết với thế lực bên ngoài để bôi nhọ nền kinh tế-xã hội Việt Nam của họ là vô nghĩa bởi thực tế đã chứng minh tất cả. 
 HỒ QUANG PHƯƠNG
http://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/nhung-nhan-dinh-thieu-thien-chi-ve-kinh-te-viet-nam-539974

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...