CẢNH GIÁC VỚI CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ
TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
Trần Trí Nam
Trong khoảng hai
tháng qua, lợi dụng chính sách, pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
Đảng và Nhà nước Việt Nam, nhất là khi Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo có hiệu lực từ
ngày 01/01/2018, trên trang mạng “Baotiengdan”, Nguyễn Công Bình – Linh mục
Giáo phận Vinh và Nguyễn Mạnh Hùng – Mục sư Sài Gòn (sau đây gọi tắt là Linh
mục Bình và Mục sư Hùng) cho rằng: “Các tôn giáo thay vì được tự do
để thành nhà giáo dục lương tâm cho xã hội thì bị chế độ tìm mọi cách để bó
buộc im tiếng hay biến thành công cụ”. Vậy có đúng là các tôn giáo
ở Việt Nam hiện nay đang bị chế độ tìm mọi cách để bó
buộc im tiếng hay biến thành công cụ? Phải khẳng định chắn chắn
rằng hoàn toàn không đúng như vậy. Thực chất của luận điệu này, là cố tình
xuyên tạc chính sách, pháp luật về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Đảng,
Nhà nước và nhân dân Việt Nam không chấp nhận mọi sự suy diễn, ngụy tạo, quy
chụp nguy hiểm này. Đồng thời, cần phải kiên quyết đấu tranh với mọi luận điệu
cáo buộc sai trái như của Linh mục Bình và Mục sư Hùng.
Hiện nay, trên thế giới, có lẽ ai cũng biết rằng, quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người được ghi
nhận trong Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (theo Nghị quyết số 2200 (XXI) ngày 16/12/1966 của Đại hội đồng
Liên Hợp Quốc). Theo đó, Điều 18
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền năm 1948 ghi nhận: Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo;
quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự
do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự giảng dạy, hành đạo, thờ phụng và
nghi lễ, hoặc riêng mình hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà
riêng. Các quyền này đã được Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị cụ thể hoá và quy định tại Điều
18 rằng: “Mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo…;
Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin
theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ… Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín
ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết
để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo
vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”.
Như vậy, theo quan điểm được thể hiện trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, mặc
dù tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền cơ bản của con người, nhưng quyền đó
không phải là tuyệt đối, mà là một quyền có thể bị giới hạn bởi pháp
luật, nếu việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo xâm hại
tới an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để
bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác.
Ở Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ được
Hiến pháp và nhiều văn bản quy phạm pháp luật ghi nhận, mà trong thực tế, quyền
cơ bản này còn được Nhà nước ta tôn trọng, bảo đảm. Theo đó, Điều 24, Hiến pháp
năm 2013 hiến định: “1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo.
3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”[1].
Để cụ thể hoá quy định của Hiến pháp về tín ngưỡng, tôn giáo,
Điều 3 Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2016 của Nhà nước Việt Nam quy định rõ
trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo;
trong đó “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi
người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; Nhà nước tôn trọng,
bảo vệ giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo, truyền thống
thờ cúng tổ tiên, tôn vinh người có công với đất nước, với cộng đồng đáp ứng
nhu cầu tinh thần của Nhân dân. Đồng thời, Điều 6 của Luật này quy định “Mọi
người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào; Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi
tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật
tôn giáo”.
Bộ Luật hình sự (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018) quy định:
người nào có hành vi “gây chia rẽ người theo tôn giáo với người không theo tôn
giáo, giữa người theo các tôn giáo khác nhau, chia rẽ các tín đồ tôn giáo với
chính quyền nhân dân, với các tổ chức chính trị – xã hội” là tội phá hoại chính
sách đoàn kết (Điều 116) sẽ bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Và “Người nào dùng
vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác ngăn cản hoặc ép buộc người
khác thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn
giáo nào” là tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo sẽ bị phạt cải tạo
không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm (Điều 164).
Như vậy, Hiến pháp, Bộ Luật hình sự, Luật Tín ngưỡng, Tôn
giáo và một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến vấn đề tín ngưỡng, tôn
giáo ở Việt Nam đã quy định rõ ràng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi
người, mọi tổ chức tôn giáo cũng như Nhà nước trong việc thực hiện và bảo đảm
thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Các văn bản quy phạm pháp luật này
trước khi ban hành đều được lấy ý kiến công khai, rộng rãi trong xã hội và phù
hợp với các điều luật quốc tế về tín ngưỡng, tôn giáo. Nhưng tại sao Linh mục
Bình và Mục sư Hùng lại cho rằng, ở Việt Nam không có tự do tôn giáo, quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo bị vi phạm, bóp nghẹt? Thậm chí, dù là công dân của
nước Việt Nam, song họ lại rắp tâm vu cáo chính quyền Việt Nam hạn chế các hoạt
động tôn giáo, đàn áp tôn giáo, đòi thả tự do cho những người vi phạm pháp luật
liên quan đến tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Không chỉ xuyên tạc chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về
tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Linh mục Bình và Mục sư Hùng còn phủ nhận toàn bộ
thành quả về thực hiện chính sách, pháp luật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo cũng như tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam. Và họ ngang nhiên lớn tiếng
ra yêu sách đòi hỏi hoạt động của các tôn giáo là một quyền tuyệt đối, không bị
hạn chế, không chịu sự quản lý của Nhà nước. Đây rõ ràng là quan điểm sai trái,
hết sức vô lý, không thể chấp nhận. Bởi lẽ, cũng như mọi nhà nước trên thế
giới, Nhà nước Việt Nam có toàn quyền quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong đó có lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo. Và trên thực tế, Nhà nước Việt Nam
luôn tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm việc thụ hưởng quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của người dân. Nhà nước Việt Nam đã và đang thực thi quyền ngăn chặn sự vi
phạm các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nhà nước đã có những biện pháp, chế
tài nhằm hỗ trợ cho công dân được hưởng đầy đủ các quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo. Bên cạnh đó, Nhà nước Việt Nam còn rất tích cực, chủ động đưa ra các kế
hoạch, chính sách, đề án, chương trình cụ thể để mọi công dân thực hiện các
quyền, nghĩa vụ về tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật Nhà
nước.
Tóm lại,
việc Đảng, Nhà nước Việt Nam từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp
luật về tín ngưỡng, tôn giáo không phải là để can thiệp, hay hạn chế tự do tín
ngưỡng, tôn giáo như Linh mục Bình và Mục sư Hùng rêu rao, mà nhằm bảo đảm tốt
hơn các quyền về tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, góp phần giữ vững an
ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển
bền vững đất nước. Vì vậy, mọi luận điệu suy diễn, quy chụp về tự do tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam và yêu sách về một thứ tự do tôn giáo tuyệt đối như
Linh mục Bình và Mục sư Hùng là vô lý, hoang đường và không thể chấp nhận./.
[1]
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Tuyên
ngôn độc lập và các hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992, 2013), Hà
Nội, 2015, tr.203-204.