Thứ Tư, 19 tháng 8, 2020

PHÁT HUY VAI TRÒ, SỨC MẠNH CỦA QUẦN CHÚNG TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM, QUÂN ĐỘI TÍCH CỰC THAM GIA XÂY DỰNG “THẾ TRẬN LÒNG DÂN” VỮNG CHẮC TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY

 


Cách đây 75 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và hưởng ứng Lời kêu gọi của Lãnh tụ Hồ Chí Minh: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”1, cả dân tộc Việt Nam nhất tề vùng lên Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân. Chỉ trong thời gian ngắn, từ ngày 14 đến ngày 28/8/1945, hơn 20 triệu người Việt Nam từ miền Bắc tới miền Nam, từ nông thôn đến thành thị, từ đồng bằng đến miền núi, đồng loạt nổi dậy giành chính quyền về tay nhân dân. Cuộc Tổng khởi nghĩa đã nhanh chóng thành công trên cả nước, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, thiết lập chính quyền công nông.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những mốc son chói lọi, bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Thời gian đã lùi xa, nhưng tầm vóc, ý nghĩa thắng lợi, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám vẫn còn nguyên giá trị. Một trong những bài học đó: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để lãnh đạo cách mạng thành công, Đảng phải dựa vào nhân dân, luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, phát huy cao độ sức mạnh của nhân dân; khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước; trên cơ sở đó, xây dựng mặt trận thống nhất đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân để thực hiện yêu cầu cấp bách của cách mạng là giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã khẳng định sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân - người làm nên lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”2; “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại”3. Đó là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, triệu người như một, quyết chí, đồng lòng đứng lên giải phóng dân tộc khỏi chế độ áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến. Sức mạnh đó là truyền thống quý báu được hun đúc từ hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, không chịu khuất phục trước bất cứ thế lực xâm lược, áp bức nào; là niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Xây dựng “thế trận lòng dân”, coi yếu tố “lòng dân” là một trong những thành tố đặc biệt quan trọng làm nền tảng phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, là bài học lớn trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa xuất sắc trong quá trình lãnh đạo cách mạng.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần X của Đảng, lần đầu tiên thuật ngữ “thế trận lòng dân” được sử dụng. Nghị quyết Đại hội viết: “Xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”4. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng xác định: “Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc”5. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân…”6. “Thế trận lòng dân”, thực chất là “lòng dân” - trạng thái chính trị, tinh thần của người dân - được biểu hiện ở lòng yêu nước, ý thức tự hào, tự tôn dân tộc, sự hài lòng, tin tưởng của nhân dân vào chế độ chính trị - xã hội, vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của chính quyền các cấp, được xây dựng vững chắc, trở thành “thế trận”, sẵn sàng huy động, sử dụng, tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng “thế trận lòng dân” là thực hiện đồng bộ các giải pháp về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội làm cho dân no, dân yên, dân tin, dân yêu Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là bước phát triển tư duy lý luận của Đảng về “lòng dân”, về phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều đó thể hiện sâu sắc quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân; khẳng định tính quy luật, sự kế thừa, phát huy truyền thống dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay.

Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc 35 năm qua của đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử và những kết quả bước đầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước; “thế trận lòng dân” được tăng cường. Mặc dù vậy, những hạn chế, yếu kém nảy sinh trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; biểu hiện và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên; sự chống phá của các thế lực thù địch, âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” ngày càng tinh vi, xảo quyệt,… tác động không nhỏ đến niềm tin, tình cảm của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Tình hình đó, đòi hỏi toàn đảng, toàn dân, toàn quân phải có các chủ trương, giải pháp phù hợp để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, tạo nền tảng để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây không chỉ là yêu cầu khách quan mà còn là nhiệm vụ cấp bách hiện nay và là vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam.

Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, gắn bó máu thịt với nhân dân, hơn 75 năm qua, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, Quân đội luôn thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, tại bất cứ nơi đâu, với tinh thần vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đều sẵn sàng hy sinh, vượt qua khó khăn, gian khổ để chiến đấu, bảo vệ đất nước, bảo vệ nhân dân; làm nòng cốt cùng nhân dân phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, thảm họa môi trường, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn,... làm sáng thêm phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới. Qua đó, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, vào Quân đội nhân dân anh hùng. Phát huy kết quả đó, thời gian tới, để góp phần cùng với các cấp, ngành xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:

Một làtiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của “thế trận lòng dân”. Xây dựng “thế trận lòng dân” thực chất là xây dựng, quy tụ, khơi dậy và nhân lên sức mạnh của lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng, ý chí của toàn dân tộc để tạo ra sức mạnh tổng hợp trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. “Thế trận lòng dân” là một bộ phận hết sức quạn trọng trong thế trận quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng “thế trận lòng dân” phải được tiến hành thường xuyên, liên tục nhằm làm cho nhân tố chính trị - tinh thần của toàn dân luôn được bồi đắp, củng cố và phát huy cao độ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Việc xây dựng “thế trận lòng dân” trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân không thay thế các chiến lược khác, nhưng nó tạo ra nền tảng vững chắc để xây dựng các chiến lược, chương trình, kế hoạch của Đảng, Nhà nước. Do vậy, cấp ủy, chỉ huy, chính ủy (chính trị viên) các cấp phải giáo dục, quán triệt cho cán bộ, chiến sĩ và tuyên truyền cho nhân dân nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của “thế trận lòng dân” trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân nói riêng. Hiện nay, các thế lực thù địch đang ráo riết đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, “phi chính trị hóa” Quân đội. Một trong những mục tiêu tiến công của chúng là đánh vào lòng dân, làm rạn nứt khối đại đoàn kết dân tộc, làm cho nhân dân không tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc nhận thức đúng đắn vị trí, tầm quan trọng của “thế trận lòng dân” phải được quán triệt sâu sắc trong tất cả các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị và mọi người dân; coi đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội, chứ không phải của riêng Quân đội.

Hai làđẩy mạnh tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; truyền thống đoàn kết, yêu nước, ý chí tự lực, tự cường của dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bằng nhiều hình thức phong phú, sáng tạo, các cơ quan, đơn vị tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong Quân đội, các tầng lớp nhân dân quán triệt sâu sắc, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cùng các chủ trương phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và các phong trào, các cuộc vận động do Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể địa phương phát động. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nhất là đối với thế hệ trẻ về chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái, lòng tự hào, tự tôn dân tộc; về vai trò lãnh tụ, cá nhân anh hùng lịch sử, về các tấm gương mẫu mực trong lãnh đạo, chỉ huy, lao động sản xuất, huấn luyện, chiến đấu, học tập, công tác, giúp dân phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, v.v. Trong quá trình tuyên truyền, giáo dục phải kiên quyết đấu tranh vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị kích động, gây rối, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ Đảng, Nhà nước, Quân đội với Nhân dân, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Qua đó, củng cố niềm tin, tạo sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ba làtích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đây là vấn đề quan trọng, thiết thực để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Kinh tế phát triển, các vấn đề xã hội được giải quyết, đời sống của nhân dân được cải thiện, khoảng cách giàu - nghèo được thu hẹp, công bằng xã hội được thực hiện tốt, sẽ tạo ra sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn để củng cố “lòng dân”. Để làm được điều đó, đòi hỏi việc chăm lo đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân phải được tiến hành thường xuyên, thực chất bằng các chính sách cụ thể của Đảng, Nhà nước, làm cho dân no, dân yên, dân tin.

Trong những năm qua, thực hiện chức năng, nhiệm vụ “đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”, các cơ quan, đơn vị Quân đội thông qua công tác dân vận, hoạt động đền ơn đáp nghĩa, xây dựng nông thôn mới,… đã góp phần giúp nhân dân, nhất là đồng bào vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo xóa đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, ổn định cuộc sống. Có thể khẳng định, nơi nào có bộ đội là nơi đó các hoạt động dân vận, giúp nhân dân phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần được thực hiện hiệu quả. Phát huy kết quả đó, các cơ quan, đơn vị tiếp tục hưởng ứng, thực hiện phong trào Thi đua Yêu nước, các cuộc vận động mà Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức, các ngành, địa phương phát động với tinh thần trách nhiệm cao. Thực hiện tốt Phong trào thi đua “Dân vận khéo”, xây dựng “Đơn vị dân vận tốt”, các phong trào: “Đền ơn đáp nghĩa”, “Quân đội chúng sức xây dựng nông thôn mới”, “Quân đội chung tay vì người nghèo - không để ai bị bỏ lại phía sau”, các chương trình chăm sóc sức khỏe nhân dân,... bằng nhiều hoạt động phong phú, thiết thực. Cán bộ, chiến sĩ Quân đội nêu cao tinh thần khắc phục khó khăn, sẵn sàng hy sinh, cùng nhân dân phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn. Tiếp tục triển khai có hiệu quả các dự án xây dựng và phát triển Khu kinh tế - quốc phòng, nhất là trên các địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn dọc tuyến biên giới đất liền, biển, đảo; bố trí, ổn định lại dân cư theo quy hoạch sản xuất và mục tiêu lâu dài về quốc phòng, an ninh, hình thành các cụm làng, xã biên giới, vận động nhân dân chuyển giao kỹ thuật, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tổ chức sản xuất, bao tiêu sản phẩm, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao thu nhập. Qua đó, góp phần giảm nghèo bền vững, nâng cao dân trí, xây dựng nông thôn mới, phát triển văn hóa - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với lực lượng Công an theo Nghị định số 03/2019/NĐ-CP, ngày 05/9/2019 của Thủ tướng Chính phủ về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và nhiệm vụ quốc phòng, vì sự bình yên cuộc sống của nhân dân.

Bốn làphát huy vai trò của Quân đội trong góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Việc tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh toàn diện là bản chất, truyền thống của Quân đội ta, là một trong những nhiệm vụ quan trọng của các đơn vị, nhất là đơn vị làm nhiệm vụ ở các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng đồng bào có đạo. Thông qua các hoạt động: kết nghĩa, giao lưu, tạo nguồn cán bộ, giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh, tăng cường cán bộ Biên phòng tham gia cấp ủy địa phương, cắm thôn, bản, các tổ, đội công tác,… các cơ quan, đơn vị Quân đội đã trực tiếp góp phần xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của hàng nghìn lượt cơ sở xã, phường, thôn, bản; đưa nhiều cơ sở từ yếu kém vươn lên khá và vững mạnh; xóa tình trạng “trắng đảng viên” ở nhiều thôn, bản; củng cố tổ chức đảng, đoàn thể quần chúng vững mạnh, hoạt động hiệu quả, tạo sức mạnh và uy tín để củng cố niềm tin trong nhân dân.

Quán triệt, thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Chính phủ về xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh7, toàn quân chủ động phối hợp, tham mưu với cấp ủy, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể địa phương nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, tập trung vào cấp xã ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo. Chú trọng tham gia xây dựng các tổ chức cơ sở đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, nhất là năng lực cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng sát với tình hình địa phương; xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh, luôn gần dân, thấu hiểu và quan tâm giải quyết tâm tư, nguyện vọng chính đáng của người dân; thực hiện tốt Quy chế Dân chủ cơ sở. Đồng thời, giúp Mặt trận Tổ quốc ở cơ sở đổi mới nội dung, hình thức hoạt động, phát huy vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân, thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, thực sự là nền tảng để củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”.

Năm làtiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Để phát huy vai trò của Quân đội trong xây dựng “thế trận lòng dân”, “nói dân nghe, làm dân tin”, đòi hỏi phải quan tâm chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nói chung, Quân đội nhân dân nói riêng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực sự là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các cơ quan, đơn vị đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị (khóa XII), Chỉ thị số 87-CT/QUTW, ngày 08/7/2016 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Chỉ thị số 855-CT/QUTW, ngày 12/8/2019 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Đề cao vai trò nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì các cấp thực sự là tấm gương sáng để quần chúng noi theo; duy trì nghiêm các chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, nâng cao chất lượng huấn luyện, xây dựng chính quy, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội, kỷ luật khi quan hệ với nhân dân, v.v. Qua đó, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện tiêu biểu; nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Cán bộ, đảng viên, chiến sĩ không có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, không ngừng tô thắm, lan tỏa hình ảnh, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.

Xây dựng “thế trận lòng dân” có vị trí, vai trò quan trọng, liên quan trực tiếp đến lợi ích cốt lõi của quốc gia - dân tộc, sự sống còn của Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây là vấn đề lớn, đòi hỏi sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước. Với chức năng, nhiệm vụ  của mình, Quân đội nhân dân Việt Nam phát huy vai trò, trách nhiệm thực hiện đồng bộ các giải pháp, góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” tạo nền tảng để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững chắc, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại tướng LƯƠNG CƯỜNG, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
____________________

1 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG,  H. 2011, tr. 596.

2 - Sđd, Tập 10, tr. 453.

3 - Sđd, Tập 2, tr. 297.

4 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 109.

5 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 234.

6 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 149.

7 - Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) “Về củng cố, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở”, Chỉ thị số 36/2005/CT-TTg, ngày 17/10/2005 của Thủ tướng chính phủ về “Tăng cường xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong tình hình mới”, Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”, Nghị quyết số 49-NQ/QUTW, ngày 26/01/2015 của Quân ủy Trung ương về “Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Quân đội trong tình hình mới”, v.v.

http://tapchiqptd.vn/vi/ky-niem-75-nam-cach-mang-thang-tam-va-quoc-khanh-029/phat-huy-vai-tro-suc-manh-cua-quan-chung-trong-cach-mang-thang-tam-quan-doi-tich-cuc-tham-/15848.html

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐỘC LẬP, TỰ DO

 

 

 


 Cách mạng Tháng Tám (CMT8) có giá trị vĩ đại không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với nhân loại. Thế nhưng hiện nay, vẫn có thế lực từ bên ngoài với tâm địa đen tối, bằng những lập luận thiếu tử tế hòng xuyên tạc và phủ định giá trị của CMT8.

Họ cho rằng không cần phải làm CMT8 vì với xu thế chính trị sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thực dân Pháp rất muốn và sẽ tự trao trả độc lập cho Việt Nam. Hơn nữa, họ còn cho rằng dân tộc Việt Nam cũng không cần độc lập mà cứ là một thuộc địa của Pháp thì sẽ phát triển hơn. Đáng buồn và đáng giận là vẫn có những người Việt Nam thuộc thế hệ sau được hưởng thành quả từ xương máu của thế hệ đi trước, nhưng vì thiếu hiểu biết, suy nghĩ nông cạn đã bị ảnh hưởng từ những thông tin sai trái, để rồi có những lời lẽ vô ơn khi nhắc tới CMT8. 

Đầu tiên cần phải khẳng định, thắng lợi của CMT8 năm 1945 đã mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử của dân tộc ta, đất nước ta. Thắng lợi này đã chính thức chấm dứt ách đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp đối với nước ta, mở ra kỷ nguyên độc lập, lần đầu tiên tên nước Việt Nam có trên bản đồ thế giới, với tư cách và vị thế của một quốc gia-dân tộc độc lập, có chủ quyền. Về ý nghĩa vĩ đại của CMT8, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng: “Lịch sử dân tộc ta có nhiều thời kỳ rất vẻ vang. Nhưng trước ngày CMT8, dân tộc ta đã phải trải qua gần một thế kỷ vô cùng tủi nhục. Trên địa đồ thế giới, tên nước ta đã bị xóa nhòa dưới bốn chữ “Đông Dương thuộc Pháp”. Thực dân Pháp gọi đồng bào ta là lũ Annamít dơ bẩn. Thiên hạ gọi chúng ta là vong quốc nô... CMT8 thành công. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Nhân dân ta tự làm chủ vận mạng của mình. Tên tuổi của nước ta lại lừng lẫy khắp năm châu, bốn biển”(1). CMT8 cũng trở thành nguồn động viên to lớn để nhiều dân tộc thuộc địa đứng lên giành độc lập.

Thực tế là Việt Nam giành chính quyền từ tay phát xít Nhật chứ không phải từ thực dân Pháp. Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc nêu rõ rằng, thực dân Pháp “đã bán nước ta hai lần cho Nhật”. Đó là "mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương... thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật". Rồi ngày 9-3-1945, phát xít Nhật đã đảo chính, hất cẳng thực dân Pháp không chỉ ở Việt Nam mà toàn cõi Đông Dương. Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Sau đó, phát xít Nhật đã dựng lên một chính phủ bù nhìn do Trần Trọng Kim đứng đầu. Chính phủ này chỉ tồn tại trên giấy, không làm gì và cũng không thể làm gì. Mọi quyền hành đều trong tay phát xít Nhật.

Như thế, câu chuyện thực dân Pháp trả độc lập, tự do cho Việt Nam là điều hoàn toàn nực cười cả về pháp lý, đạo lý và thực tế lịch sử. Vì người ta không thể “cho” hay “trả” cái mà người ta không có.

Và thực dân Pháp có muốn trả độc lập, tự do dân tộc Việt Nam không? Thực dân Pháp không bao giờ muốn! Lịch sử đã cho thấy rõ ràng! Khi thế cuộc của Chiến tranh thế giới thứ hai đã rõ ràng với chiến thắng của phe Đồng minh, thực dân Pháp đã có mưu đồ quay trở lại xâm lược nước ta. Ngay sau khi nước ta giành độc lập, thực dân Pháp theo chân quân Mỹ, Anh vào Nam Bộ để giải giáp quân Nhật. Ngày 23-9-1945, quân Pháp bất ngờ tấn công để lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ tại Nam Bộ. Nam Bộ bị quân Pháp dìm trong bể máu. Độc lập, tự do của nhân dân ta ở Nam Bộ chỉ không đầy một tháng lại bị thực dân Pháp tước đi. Cả Nam Bộ đứng lên kháng chiến để đánh đuổi quân Pháp. Sau khi tấn công chiếm Nam Bộ, Pháp tiếp tục đưa quân ra miền Bắc, liên tục khiêu khích, đòi tước vũ khí của Quân đội ta. Nhiều lần Chính phủ ta đã tỏ thiện ý thương lượng, đàm phán, với sự nhân nhượng vì mong muốn duy trì hòa bình, tránh đổ máu cho dân tộc nhưng không thể được trước tâm địa đen tối của thực dân Pháp quyết cướp nước ta một lần nữa. Quân Pháp quyết gây chiến tranh khi liên tiếp gây ra các vụ thảm sát tại Hải Phòng và Hà Nội. Sau đó, ngày 18-12-1946, thực dân Pháp gửi hai tối hậu thư liên tiếp, đòi tước vũ khí của Quân đội ta. Đến ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. Cả dân tộc đứng lên trường kỳ kháng chiến 9 năm để đánh đuổi thực dân Pháp, kết thúc bằng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneva được ký kết. Thế nhưng thực dân Pháp rút đi thì đế quốc Mỹ cũng ngay lập tức thế chân tại miền Nam, với mưu đồ biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới và để từ đó tấn công phá hoại miền Bắc. Lịch sử đã chứng minh rằng, các nước thực dân, đế quốc luôn muốn đặt ách thống trị tại Việt Nam, không bao giờ muốn nước ta được độc lập, nhân dân ta được tự do. Từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, dân tộc ta đã phải anh dũng, kiên cường chiến đấu suốt 30 năm nữa, đổ bao xương máu mới có được độc lập, tự do, thống nhất trên cả nước.

Ấy thế mà ngày nay, vẫn có những kẻ muốn lừa bịp giới trẻ, vẽ ra ảo tưởng thực dân, đế quốc tốt bụng, sẽ trao trả độc lập, tự do cho dân tộc ta, đem lại sung sướng, hạnh phúc cho nhân dân ta và chúng ta chẳng cần phải làm gì, chỉ trông chờ vào sự tốt bụng đó.

Nguy hiểm hơn, có những người mang dòng máu Việt Nam lại gieo rắc luận điệu cho rằng, nước ta chẳng cần độc lập để làm gì, mà cứ giữ là thuộc địa của Pháp có khi lại phát triển hơn, đời sống người dân sung sướng hơn. Luận điệu ấy chắc chắn chỉ có trong đầu óc của những kẻ thiếu tử tế và thiếu nhân cách. Suy nghĩ ấy là của những kẻ luôn muốn ăn bám và tư duy lệ thuộc. Đó là những kẻ không xứng đáng đứng trước tổ tiên để nhận mình là con cháu Việt Nam. Lịch sử oanh liệt hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc cho thấy ý thức, khát vọng độc lập, tự chủ đã ăn sâu vào máu của mỗi người Việt Nam. Người Việt Nam, dân tộc Việt Nam sẵn sàng chiến đấu, hy sinh chứ quyết không chịu đặt dưới ách cai trị của dân tộc khác. Dân tộc Việt Nam cũng không chịu để kẻ thù cướp đi bất cứ tấc đất nào của cha ông để lại.

Khi đọc những lời lẽ hùng hồn trong bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh bất ngờ dừng lại và hỏi: “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?”. Và cả triệu người đồng thanh đáp lại vang dội: “Có!”. Trong giờ phút ấy, chắc hẳn từ vị Chủ tịch nước cho tới từng người dân đều xúc động nghẹn ngào, nhiều giọt nước mắt đã rơi... Tại Sài Gòn (nay là TP Hồ Chí Minh), do hạn chế về kỹ thuật, không thể tiếp sóng phát thanh trực tiếp lời Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Lễ tuyên ngôn độc lập từ Quảng trường Ba Đình, do đó, ông Trần Văn Giàu, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Nam Bộ, Chủ tịch Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ đã được đề nghị lên phát biểu. Trong phát biểu của mình, ông Trần Văn Giàu cũng nêu rõ: “Việt Nam từ một xứ thuộc địa đã trở thành một nước độc lập... Việt Nam đương tiến bước trên đường sống”. Ông cũng đã chỉ rõ mưu toan của thực dân Pháp: “Kẻ địch toan tính một cuộc âm mưu gác lại ách nô lệ trên cổ 25 triệu đồng bào”. Ông đã hỏi những người dự lễ: “Đồng bào ở đây có ai thừa nhận một quan toàn quyền cai trị xứ ta không? Có ai chịu bó tay để cho chế độ thực dân-ra mặt hay giấu mặt-trở lại không?”. Sau mỗi câu hỏi của ông, cả triệu người đồng thanh đáp lại: “Không! Không! Không!” vang dội cả góc trời. Thay mặt hàng triệu người dân Nam Bộ, ông Trần Văn Giàu nói lên quyết tâm bảo vệ Tổ quốc: “Chúng ta thề cương quyết đứng bên cạnh Chánh phủ, chống mọi sự xâm lăng, dầu chết cũng cam lòng”(2).

Chính vì ý thức, khát vọng độc lập, tự do rất mãnh liệt như vậy nên dù trải qua bao thăng trầm của lịch sử, dân tộc ta vẫn giữ được bản sắc của mình, không bị đồng hóa như rất nhiều dân tộc khác trên thế giới này đã từng tồn tại và biến mất.

Cái ý nghĩ, mong muốn nhờ vào ngoại bang để có được hạnh phúc, phồn vinh đã bị không chỉ lịch sử Việt Nam mà còn là lịch sử nhân loại chứng minh sự sai lầm. Suy nghĩ sai lầm tai hại ấy không chỉ làm cho nhiều thế hệ hào kiệt, nhiều nhà cách mạng tiền bối của Việt Nam phải sa cơ, thất bại mà còn làm cho con đường cứu nước, giải phóng dân tộc của chúng ta kéo dài. Phải đến khi nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc tìm được con đường cứu nước chân chính, đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam thì sự nghiệp giải phóng dân tộc mới đi đúng hướng. Trong Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã viết: “Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

“Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” chính là thể hiện tinh thần, ý thức tự chủ, tự lực, tự cường của cuộc CMT8. Đó chính là phương thức cứu nước đúng đắn mà thế hệ trước đã tìm ra, đã thực hiện thành công và trao truyền lại cho thế hệ những người Việt Nam tiếp theo. Ngày nay, bài học vô giá phải trả bằng máu đó phải được tiếp tục khắc cốt ghi tâm trong những người con mang dòng máu Việt Nam. Dân tộc ta không thể phó mặc, không thể trông chờ vào bất cứ dân tộc nào, quốc gia nào để bảo vệ chủ quyền đất nước, để được độc lập, tự do. Dân tộc ta cũng không thể trông chờ vào bất cứ dân tộc, quốc gia nào để được hạnh phúc, phồn vinh, phát triển. Chúng ta trước hết phải dựa vào sức mình! Bằng tinh thần đoàn kết, bằng trí tuệ, ý chí, sức lực, lòng dũng cảm của mình, chắc chắn chúng ta sẽ làm được điều đó! Dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam sẽ trường tồn!

Đã gần 75 năm kể từ ngày lời Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vang vọng trên Quảng trường Ba Đình. Việt Nam của chúng ta ngày nay đã rất khác xưa, đã là một đất nước độc lập, tự do, thống nhất, hòa bình, hạnh phúc và đang ngày càng phát triển. Với vị thế quốc gia của mình, Việt Nam có tiếng nói ngày càng có trọng lượng trên trường quốc tế, được bạn bè quốc tế lắng nghe, tin tưởng và nể trọng. Tất cả thực tế đó đã chứng minh những luận điệu xuyên tạc về CMT8 là hoàn toàn sai trái, không thể có chỗ đứng trong lòng những người Việt Nam chân chính và nhân loại có lương tri.   

HỒ QUANG PHƯƠNG

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 14, tr621, tr622.

(2) TS Phan Văn Cách mạng Tháng Tám và văn hóa ngoại giao Hồ Chí Minh

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

 


 Phủ nhận thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm xuyên tạc lịch sử, hướng lái con thuyền cách mạng nước ta theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản, là thủ đoạn không mới, nhưng vô cùng thâm độc của các thế lực thù địch. Do đó, luận giải và kiên quyết đấu tranh làm thất bại mưu đồ phản động ấy là vấn đề cấp thiết và thời sự hiện nay.

Cách mạng Tháng Tám giành thắng lợi cách đây 75 năm là dấu mốc lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam thời hiện đại. Vậy mà, những phần tử cơ hội, xét lại trong và ngoài nước, đặc biệt cái gọi là đảng Việt Tân lại cố tình phủ nhận thành quả vĩ đại ấy của dân tộc ta. Chúng cho rằng “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sai lầm lịch sử”, “là đi ngược lại sự bảo hộ của mẫu quốc”, “là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam”... Đây là những luận điệu xuyên tạc trắng trợn của những kẻ thiếu lương tri... quên đi “vết nhơ” của lịch sử dân tộc ta đã phải chịu cảnh nô lệ, lầm than hơn 80 năm.

Năm 1858, thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp nước ta, áp bức đồng bào ta, khiến dân tộc ta mất quyền độc lập, nhân dân ta phải chịu cảnh nước mất, nhà tan, “một cổ hai tròng”. Thực dân Pháp không cho dân ta bất cứ quyền tự do dân chủ nào; bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, thẳng tay chém giết những người yêu nước, dìm những cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta trong bể máu... Từ năm 1940, trước sự xâm lăng của phát xít Nhật vào Đông Dương và Việt Nam, đã bao lần Việt Minh kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Vậy mà, chẳng những thực dân Pháp không đáp ứng, lại thẳng tay đàn áp Việt Minh và quỳ gối đầu hàng, bán nước ta cho phát xít Nhật, làm cho nhân dân ta phải chịu hai tầng xiềng xích...

Luận điệu cho rằng Cách mạng Tháng Tám là “nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam” thì quả là sự vu khống và xuyên tạc lịch sử. Bởi lẽ, sau khi Nhật hàng đồng minh, Vua Bảo Đại thoái vị, nhân dân ta giành được chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa được bao lâu, thì ngày 23-9-1945, thực dân Pháp quay trở lại cướp nước ta một lần nữa. Trước tình thế đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện nhiều chính sách để gìn giữ hòa bình, tránh “cuộc chiến tranh đổ máu vô nghĩa”. Nhưng “chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”. Với tinh thần “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(1), quân và dân ta đã trường kỳ kháng chiến và giành thắng lợi to lớn trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”. Với bản chất hiếu chiến, phản động, thực dân Pháp đã cấu kết và “bật đèn xanh” cho đế quốc Mỹ nhảy vào xâm lược Việt Nam và Đông Dương, buộc nhân dân ta phải tiếp tục chiến đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc và con đường phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) do Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta xác định từ năm 1930. Và con đường cách mạng chân chính ấy đã đưa nước ta đến thắng lợi vẻ vang vào ngày 30-4-1975, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên CNXH. Như vậy, chính sự hiếu chiến xâm lược của bọn thực dân, đế quốc là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta, chứ không phải Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam” như bọn phản động xuyên tạc.

Về vai trò lãnh đạo và nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, chúng cho rằng “đó là sự ăn may, vì Nhật thua trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chứ Đảng Cộng sản Việt Nam chẳng có tài cán gì”; rằng “do khoảng trống quyền lực, nên Việt Nam dễ giành được kết quả nhanh chóng”... Thực chất, luận điệu ấy là chúng muốn phủ nhận vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với vận mệnh dân tộc Việt Nam, phủ nhận khối đại đoàn kết và tinh thần dân tộc, khát khao giành độc lập dân tộc của nhân dân ta sau hơn 80 năm dưới sự cai trị tàn bạo của chế độ thực dân Pháp. Cách mạng Tháng Tám nổ ra và giành thắng lợi do Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng suốt lựa chọn con đường giải phóng dân tộc một cách khoa học, đúng đắn, khắc phục triệt để hạn chế, sai lầm của những con đường cứu nước mà các nhà yêu nước trước đó đã tiến hành và khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(2). Các cao trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945 thực sự là những “cuộc tổng diễn tập”, là tiền đề cho Cách mạng Tháng Tám thành công. Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát lệnh Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước đúng thời cơ, vào thời điểm thuận lợi nhất nên đã giành thắng lợi!

Về thành quả của Cách mạng Tháng Tám, chúng cho rằng “không có gì thay đổi chế độ xã hội ở Việt Nam, chẳng qua chỉ là thay từ chế độ “vua trị” sang chế độ “đảng trị”... Đây là sự xuyên tạc trắng trợn và phi lịch sử. Ngay về thuật học, chúng đã đánh tráo khái niệm. Ở nước ta, chế độ “vua trị”, hay nói cách khác là chế độ “quân chủ” bao giờ cũng đối lập hoàn toàn với chế độ “dân chủ”. Trong khi đó, cuộc Cách mạng Tháng Tám không những lật đổ sự thống trị của thực dân, phát xít, mà còn lật đổ hoàn toàn chế độ phong kiến “vua trị”.

Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ tôn chỉ, mục đích rõ ràng “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(3). Mục tiêu của Cách mạng Tháng Tám “là giành lại hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ cho Tổ quốc ta, cho nhân dân ta”(4). Nghĩa là, đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và bọn phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc hoàn toàn, độc lập dân tộc thực sự để đi đến xây dựng một xã hội hoàn toàn ấm no, tự do, hạnh phúc-chế độ cộng sản chủ nghĩa. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa nhân dân ta từ kiếp nô lệ, bị bóc lột lên địa vị làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội. Đồng thời, đưa cách mạng Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới độc lập dân tộc và CNXH. Thành quả ấy đã giải quyết được vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam-vấn đề chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đây là điều kiện tiên quyết để nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN)...

Giá trị lịch sử và thời đại vô cùng to lớn của Cách mạng Tháng Tám đó là giá trị hòa bình chân chính. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ là thắng lợi của nhân dân Việt Nam mà còn là ngọn cờ đầu của các dân tộc, thuộc địa bị áp bức đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới.

Để kiên quyết đấu tranh, làm thất bại những thủ đoạn thâm độc ấy của các thế lực thù địch, hơn bao giờ hết, chúng ta phải tiếp tục khẳng định giá trị lịch sử và thời đại to lớn của Cách mạng Tháng Tám; phải nâng cao bản lĩnh chính trị vững vàng, tư tưởng luôn kiên định với con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Hiện nay, trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới, khu vực, mỗi quốc gia-dân tộc đều có những chiến lược, sách lược nhất định nhằm bảo đảm tối cao lợi ích quốc gia-dân tộc. Đảng ta chủ trương phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân làm động lực chủ yếu để phát triển đất nước; độc lập dân tộc và CNXH là mục tiêu tối thượng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN; phấn đấu “sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân...; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”(5) là những mục tiêu, giải pháp căn bản, góp bảo vệ thành quả vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của dân tộc ta.

Đại tá, PGS, TS NGUYỄN SỸ HỌA, Học viện Lục quân

------

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.534.

(2) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 12, tr.30.

(3) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 3, tr.1.

(4) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 9, tr.35.

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.76.

PHẢI CHĂNG ĐẢNG TA TRONG CÔNG TÁC NHÂN SỰ ĐẠI HỘI XIII LÀ “LỢI ÍCH NHÓM” ?

 


Khánh Anh

Phải đến tháng 01 năm 2021, Đảng ta mới tiến hành Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tuy nhiên, hiện nay, trên các trang mạng nước ngoài và một số tài khoản blog, Youtube, Zalo, facebook cá nhân... đã chủ ý đăng tải nhiều thông tin xuyên tạc, thất thiệt và cố tình suy diễn về công tác chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành (BCH) Trung ương nhiệm kỳ 2021-2026.

Các luận điệu hồ đồ quy chụp rằng, công tác chuẩn bị nhân sự Trung ương bị chi phối quyết định bởi “nhóm lợi ích” từ một bộ phận quan chức Trung ương, ép buộc vận hành theo một kịch bản đã được lên sẵn.

1. Còn hơn nửa năm nữa mới diễn ra Đại hội XIII của Đảng, thế mà, không biết từ nguồn tin nào, bằng cách gì, những kẻ hiềm khích, giả danh yêu nước đã sớm tung tin về kết quả của Đại hội như thể họ là người trong cuộc, được có mặt tại nghị trường ở thì tương lai?

Thời gian gần đây, không khó để tiếp cận các bài viết trên mạng xã hội nước ngoài tung tin đồn, suy đoán về “nhân sự tứ trụ” sẽ được Đại hội XIII của Đảng tín nhiệm tiến cử, lựa chọn. Có nghĩa, nhân sự cho các chức danh: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội đã được định sẵn một cách thiếu dân chủ, khách quan, vì lợi ích nhóm trong công tác cán bộ. Tác giả của các bài viết nêu trên “lo rằng”, sự “quy hoạch mặc định” ấy sẽ ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, nhất là gây mất đoàn kết trong Đảng, do các phe cánh bày mưu tính kế, hạ bệ lẫn nhau... Cùng với đó, các bài viết còn chủ ý bôi nhọ danh dự, đời tư và hạ thấp công trạng, đóng góp của các đồng chí lãnh đạo đương chức của Đảng, Nhà nước đối với sự nghiệp cách mạng; cố tình đưa ra các luận cứ cho thấy sự phân chia phe cánh, hình thành các đường dây đối lập trong nội bộ Đảng ở thời điểm trước và trong đại hội đảng.

Cần nhận diện đúng đắn rằng: Những thông tin nêu trên là hòng gây nhiễu loạn tình hình nhân sự trong Đảng, cố ý bôi nhọ tình cảm đồng chí, đồng đội trong tập thể lãnh đạo của Đảng; mưu đồ hạ thấp uy tín của cán bộ lãnh đạo, vừa gây nghi kỵ, mâu thuẫn nội bộ, dẫn đến thiếu thống nhất, đoàn kết. Đây thực chất là một thủ đoạn hết sức nham hiểm, thâm độc. Bởi chính sự đoàn kết trong Đảng, đồng thuận trong xã hội là sức mạnh nội sinh để toàn đảng, toàn dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác; cũng là bức tường thành vững chắc đập tan mọi âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ. Do vậy, không lấy gì làm khó hiểu khi các thế lực thù địch luôn lăm le chống phá cho kỳ được thành trì đoàn kết của Đảng ta!

Và sự bịa đặt trắng trợn ấy, ngay lập tức bị bóc mẽ, nhận diện, khi mà HNTƯ 12, khóa XII diễn ra thành công tốt đẹp, một lần nữa công khai rộng rãi chủ trương về công tác nhân sự Đại hội XIII của Đảng. Theo đó, việc giới thiệu quy hoạch cán bộ chiến lược được Trung ương Đảng, Bộ Chính trị khóa XII nhất quán xuyên suốt phương châm "làm từng bước, làm đến đâu chắc đến đó" với lộ trình cụ thể: Quy hoạch BCH Trung ương trước; sau đó làm quy hoạch tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cuối cùng là quy hoạch các chức danh chủ chốt: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, chứ không tiến hành cùng lúc như những nhiệm kỳ trước đây.

Như vậy, xét theo tiến trình, đến HNTƯ 12, khóa XII, Trung ương chỉ mới xem xét, quyết nghị những vấn đề có tính định hướng lớn trong công tác nhân sự BCH Trung ương; thậm chí chưa bàn, quyết nghị đến nhân sự cụ thể giới thiệu dự bầu BCH Trung ương khóa mới, nên chưa thể đưa ra phương án nhân sự cụ thể cho các chức danh lãnh đạo Đảng, Nhà nước như những kẻ hiềm khích đã và đang lớn tiếng rêu rao, suy diễn, bịa đặt.

Xin nhắc lại một cách làm mới mẻ và khoa học như vậy của BCH Trung ương khóa XII để nhận diện rõ hơn về âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của những kẻ hiểm ác; nhận biết quy luật hoạt động chống phá có tính chất chu kỳ của các thế lực thù địch với những chiêu trò đổi trắng, thay đen, không từ bất kể thủ đoạn nào. Và tất nhiên, dã tâm của những kẻ thiếu kiến thức, sự hiểu biết thực tiễn sẽ khiến những luận điệu mà chúng phơi ra dư luận trở thành những chiếc gậy tự đập vào lưng chính mình, đúng như bài học “gậy ông đập lưng ông” mà người xưa đã chỉ dạy, cảnh báo cho những kẻ cố tình đi ngược lại đạo lý, quy luật hiển nhiên.

2. Ngoài trò hề quen thuộc nêu trên, những kẻ hiềm khích còn suy diễn, cho rằng: Công tác quy hoạch và lựa chọn, giới thiệu cán bộ Trung ương khóa XIII lần này là do Trung ương lên sẵn kịch bản theo lối “chỉ mặt, điểm tên”, bắt buộc các cấp thực thi bằng các giải pháp dân chủ hình thức để “mị dân” và chỉ nhằm phục vụ lợi ích nhóm của một bộ phận quan chức cầm quyền.

Thực tế công tác cán bộ trong Đảng nói chung, công tác giới thiệu, lựa chọn quy hoạch cán bộ chiến lược nhiệm kỳ Đại hội XIII nói riêng lại hiện hữu một bức tranh khác biệt và đối lập. Tất nhiên, những chủ trương lớn về công tác cán bộ do Trung ương ban hành, hoạch định và trực tiếp lãnh đạo, nhưng việc lựa chọn “hiền tài” được vận hành đồng bộ ở mọi cấp trên cơ sở phát hiện, giới thiệu của cấp ủy, tổ chức đảng từ cấp nhỏ nhất đến cấp đảng bộ trực thuộc Trung ương. Mới đây nhất, trong bài viết định hướng công tác chuẩn bị, tổ chức đại hội đảng các cấp và phát biểu khai mạc, bế mạc HNTƯ 12, khóa XII, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cũng đều thẳng thắn chỉ rõ yêu cầu phải lựa chọn bằng được cán bộ đủ tiêu chuẩn cho Trung ương và phần việc đó thuộc trách nhiệm của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Đặc biệt, với tinh thần làm việc nghiêm túc, HNTƯ 12, khóa XII tiếp tục khẳng định tinh thần xuyên suốt của cả nhiệm kỳ Đại hội XII về hai nội dung, giải pháp hết sức quan trọng đối với công tác lựa chọn, phát hiện, giới thiệu nhân sự cho BCH Trung ương Đảng khóa XIII, đó là: Trao quyền lựa chọn, giới thiệu nhân sự Trung ương cho cơ sở và đảng bộ trực thuộc; đồng thời đề cao trách nhiệm, quy trách nhiệm đối với người tiến cử, đề cử cán bộ quy hoạch chiến lược.

Thực tiễn công tác cán bộ cũng minh chứng sống động cho tính đúng đắn của những giải pháp lớn ấy. Theo đó, dưới sự điều hành của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trực tiếp là Ban Chỉ đạo xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược nhiệm kỳ 2021-2026, tập trung cao điểm vào tháng 11-2018, 100% đảng bộ các tỉnh, thành phố và cơ quan, đơn vị, địa phương trực thuộc Trung ương đã tổ chức tốt hội nghị cán bộ chủ chốt để phát hiện, giới thiệu nhân sự quy hoạch BCH Trung ương khóa XIII.

Với tinh thần ủy quyền và đặt niềm tin đối với các đảng bộ trực thuộc Trung ương của BCH Trung ương đã thật sự mở ra cơ chế và điều kiện thuận lợi nhất để tất cả cấp ủy, tổ chức đảng vào cuộc với tinh thần trách nhiệm cao, thực hiện nghiêm túc quy trình phát hiện, giới thiệu nhân sự quy hoạch ở địa phương, cơ quan, đơn vị theo 4 bước; quy trình rà soát, thẩm tra, phê duyệt quy hoạch ở Trung ương thực hiện theo 5 bước.

Cũng tại các cơ quan, đơn vị, địa phương, hội nghị ban thường vụ, hội nghị cán bộ chủ chốt tỉnh, thành phố đều tiến hành bỏ phiếu giới thiệu nhân sự tham gia Trung ương khóa XIII. Kết quả lấy phiếu được tiến hành đúng quy trình, bảo đảm nguyên tắc với quan điểm đặc biệt coi trọng tiêu chuẩn giới thiệu vào quy hoạch, coi trọng chất lượng, không vì cơ cấu, số lượng mà hạ thấp yêu cầu.

Đặc biệt, khi Trung ương trao quyền và gắn trách nhiệm đối với người tiến cử, đề cử giới thiệu cán bộ đã giúp đội ngũ cán bộ chủ chốt ở nhiều cơ quan, đơn vị đề cao trách nhiệm, thực sự nêu gương, kiên quyết chống mọi biểu hiện chạy chức, chạy quyền, chạy quy hoạch; không để có sự can thiệp không đúng nguyên tắc, sai thẩm quyền, thiếu trách nhiệm, trái quy định vào công tác cán bộ, nhất là quy trình giới thiệu quy hoạch cán bộ chiến lược nhiệm kỳ 2021-2026.

Với quy trình chặt chẽ, kết quả giới thiệu nhân sự BCH Trung ương Đảng khóa XIII đến nay đã đáp ứng yêu cầu và tiến độ đặt ra. Những cán bộ được cơ sở “chọn mặt, gửi vàng”, góp tên vào danh sách đề nghị quy hoạch gửi về Trung ương, trở thành căn cứ quan trọng để BCH Trung ương xem xét, quyết nghị tại những hội nghị tiếp theo của BCH Trung ương khóa XII.

Như vậy, cách làm nêu trên cho thấy: BCH Trung ương là cơ quan tối cao thẩm định, xem xét, quyết nghị cuối cùng về nhân sự Trung ương khóa mới trên cơ sở lựa chọn, giới thiệu nhân sự cụ thể ở từng đảng bộ trực thuộc Trung ương. Hơn thế, việc chiêu mộ hiền tài cho Đảng, Nhà nước được Trung ương kêu gọi, khuyến khích toàn đảng, toàn dân phát hiện, giới thiệu để kịp thời bổ sung và sàng lọc, chứ không cứng nhắc về phương án, áp đặt về số lượng, chất lượng hay rơi vào nạn cửa quyền, mệnh lệnh theo lối áp đặt.

Điều đó càng khẳng định, công tác nhân sự của Đảng là công khai, minh bạch, dân chủ. Những thông tin bịa đặt xoay quanh vấn đề nhân sự đại hội đảng thực chất là những thủ đoạn trá hình của các thế lực thù địch và đối tượng xấu sử dụng internet, mạng xã hội để chống phá Đảng, Nhà nước, hòng chia rẽ nội bộ trong Đảng và chĩa mũi nhọn công kích vào sự kiện chính trị quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, chống phá quyết liệt đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng. Thế nhưng, tất cả những chiêu trò đó chỉ như chút bóng tối lập lờ, sẽ nhanh chóng bị ánh sáng sự thật đẩy lùi, xua tan! Vì vậy, những chiêu trò đó không thể quy kết cho Đảng ta là “lợi ích nhóm”, “điểm mặt chỉ tên”...

 

MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG HIỆN NAY

 


Khánh Anh

Chiến lược “diễn biến hòa bình” thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc nhận diện rõ và đấu tranh phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực chính trị có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong đó, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực tư tưởng là vấn đề cấp thiết để củng cố niềm tin, lý tưởng cho toàn Đảng, toàn dân vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước.

Phòng, chống "tự chuyển hóa" trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng ở nước ta là một nhiệm vụ quan trọng của tất cả các tổ chức Đảng, tổ chức chính trị, xã hội và của toàn dân. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi toàn Đảng đang tiến hành đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng thì các thế lực lại càng ra sức xuyên tạc, chống phá trên nhiều phương diện, từ các văn kiện trình đại hội Đảng đến nhân sự. Trong đó, chúng tập trung xuyên tạc Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hòng làm lung lạc ý chí, niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Chính vì vậy, việc phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng là rất quan trọng và cấp thiết

Thực tế, trên lĩnh vực tư tưởng, các thế lực thù địch luôn tập trung xuyên tạc, vu cáo, mưu toan xóa bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm thực hiện ý đồ làm chuyển hóa thể chế chính trị ở nước ta. Trên thực tế đã có một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân phai nhạt niềm tin, lý tưởng cách mạng ở các mức độ khác nhau, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, dao động, thiếu niềm tin, sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, phụ họa theo những nhận thức sai, quan điểm lệch lạc. Còn một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu nhiệt huyết, không hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách, nghĩa vụ; thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vào lý tưởng, mục tiêu, con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Họ còn thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chủ nghĩa cá nhân trong họ trỗi dậy, chi phối, khiến cho họ hành động thực dụng vì lợi ích cá nhân, gia đình, lợi ích nhóm. Vì vậy, cần phải tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Bởi vì công tác tư tưởng, lý luận có vai trò, vị trí quan trọng trong việc xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Do đó, phải tập trung khẳng định, bảo vệ và tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thường xuyên, liên tục và mang tính phổ thông, đại chúng. Đồng thời phải tích cực đấu tranh, giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi cuộc đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình", phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Để đạt được mục tiêu đó, cần tập trung thực hiện tốt mấy giải pháp chủ yếu sau:

Một là, thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên về mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội và những hạn chế không thể tránh khỏi trên con đường phát triển.

Hai là, đề cao tinh thần tự phê bình và phê bình trong các tổ chức đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Quy định số 101-QĐ/TW ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư khóa XI về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”. Nêu cao đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”, khắc phục chủ nghĩa cá nhân, tích cực vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực ngay trong cơ quan, đơn vị mình, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Ba là, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền kịp thời, có tính định hướng đúng đắn nhằm cung cấp thông tin chính thống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân về những vấn đề kinh tế, chính trị, đối ngoại… quan trọng của đất nước; chú trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng đối với mọi cán bộ, đảng viên, nhất là với những cán bộ lãnh đạo, quản lý. Để ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái trong đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên cần đến những chủ trương, giải pháp hành động mạnh mẽ, đồng bộ. Cần kết hợp chặt chẽ giữa tăng cường giáo dục đạo đức trong Đảng và trong xã hội với tinh thần tự tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên. Phải bắt đầu “tu thân”, phải học làm người rồi mới làm cán bộ như Bác Hồ đã dạy. Tăng cường kỷ luật, pháp luật, sự công khai, minh bạch, dân chủ trong quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, bố trí và quản lý cán bộ, bảo đảm lựa chọn đúng người có đức, có tài vào bộ máy và cơ quan lãnh đạo các cấp; tạo môi trường xã hội, thể chế kinh tế lành mạnh, văn minh, khoa học để cán bộ, công chức không có điều kiện sa vào những tiêu cực, vi phạm đạo đức.

Bốn là, giữ gìn, củng cố đoàn kết, thống nhất vững chắc trong Đảng, chống những biểu hiện cục bộ, địa phương, phe cánh, “lợi ích nhóm”. Phải giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng đồng thời tích cực đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” để thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong của các thế lực thù địch, nhất là trên mặt trận tư tưởng, lý luận; tiếp tục giáo dục nâng cao nhận thức, xác định rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm của các lực lượng tham gia đấu tranh; tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận; quan tâm đầu tư những điều kiện đảm bảo cho cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng ngày càng hợp lý, có hiệu quả. 

Năm là, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, lấy xây dựng cho ta mạnh lên về mọi mặt là chính, nhất là giữ vững ổn định chính trị và định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; tăng cường quốc phòng, an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại. Chăm lo xây dựng nhân tố con người, nâng cao khả năng “tự bảo vệ” trước những âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; nâng cao “sức đề kháng” của mọi cán bộ, đảng viên trước tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, hội nhập. Đây là biện pháp tốt nhất, tích cực chủ động nhất để phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Công tác phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Với sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị thì công tác này nhất định thành công.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...