Thứ Năm, 23 tháng 3, 2023

Phê phán luận điệu xuyên tạc chính sách đưa người lao động Việt Nam ra nước ngoài

 Những năm qua, cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, nỗ lực cao nhất nhằm tạo việc làm cho người lao động ở trong nước, Đảng và Nhà nước ta đưa ra chủ trương, chính sách tạo điều kiện thuận lợi để người lao động Việt Nam có cơ hội xuất khẩu ra nước ngoài làm việc một cách hợp pháp.

Tuy nhiên, với tâm địa xấu xa, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã xuyên tạc chính sách của Nhà nước ta về công tác đưa công dân Việt Nam đi lao động tại nước ngoài.

Âm mưu xuyên tạc đen tối

Trong thời kỳ mở cửa, hội nhập quốc tế, Việt Nam đã thiết lập được nhiều mối quan hệ kinh tế quốc tế. Một trong những mối quan hệ kinh tế này là việc hợp tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Đây là vấn đề không chỉ riêng ở Việt Nam mà còn là xu thế chung của các quốc gia đang phát triển.

Thế nhưng, thời gian gần đây, một số thế lực thù địch, cơ hội chính trị cố tình rêu rao, xuyên tạc, đơm đặt những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc tổ chức phối hợp đào tạo, đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch hướng đến mục đích gây ra sự phân tâm, lo lắng, hoài nghi về nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật của Việt Nam đối với người lao động; làm giảm sự nhiệt huyết của người lao động có dự định ra nước ngoài làm việc và công dân Việt Nam đang lao động ở nước ngoài; phủ nhận mọi nỗ lực, kết quả của cơ quan chức năng Việt Nam trong công tác quản lý di cư, bảo hộ công dân và mưu đồ đen tối hơn là nhằm hạ thấp vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="/images/bannerv2.png" class="vllogo"></a>
 Ảnh minh họa: Vietnamnet.vn

Chính sách quan tâm, bảo hộ người lao động Việt Nam ở nước ngoài

Cách đây 11 năm, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI ban hành Chỉ thị số 16-CT/TW ngày 8-5-2012 về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài” xác định: Việc đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài nhằm giải quyết việc làm, tạo thu nhập, phân công lại lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng nguồn thu ngoại tệ và góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Chủ trương của Nhà nước Việt Nam là không đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài bằng mọi giá, mà phải bảo đảm hỗ trợ, tạo điều kiện để người lao động ra nước ngoài làm việc cũng như sau khi về nước có vị trí làm việc phù hợp. Người lao động được tự do lựa chọn hình thức làm việc phù hợp, không bị ép buộc phải làm việc trái ý muốn. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài thi hành mọi biện pháp để công dân Việt Nam được hưởng đầy đủ các quyền và lợi ích theo pháp luật nước tiếp nhận, điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước đó ký kết hoặc tham gia, hoặc theo tập quán quốc tế. Khi các quyền và lợi ích chính đáng của công dân Việt Nam bị xâm phạm, cơ quan đại diện có nghĩa vụ thi hành mọi biện pháp để khôi phục những quyền và lợi ích chính đáng đó. Trách nhiệm Nhà nước trong việc thực hiện mọi biện pháp cần thiết phù hợp với pháp luật sở tại, luật pháp và thông lệ quốc tế và pháp luật Việt Nam bảo hộ quyền và lợi ích của công dân Việt Nam ở nước ngoài được quy định tại hầu hết văn bản pháp luật quan trọng của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, như: Hiến pháp năm 2013 (Khoản 3, Điều 17), Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 (Điều 5); Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ở nước ngoài năm 2009 (Điều 8 và Điều 9), Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020...

Đối với tình huống cần phải bảo hộ công dân thì nhiều biện pháp nghiệp vụ đã được các cơ quan đại diện chủ động tích cực triển khai, tiến hành hiệu quả. Trong đó có các hoạt động như: Trao đổi với cơ quan chức năng nước sở tại tạo thuận lợi cho công dân Việt Nam sinh sống, học tập, làm ăn hợp pháp; hỗ trợ, giúp đỡ đối với trường hợp gặp khó khăn; vận động hội đoàn người Việt Nam hỗ trợ tích cực cho công tác bảo hộ công dân; cử cán bộ tham dự các phiên tòa để bảo vệ quyền lợi cho người lao động và yêu cầu phía người sử dụng lao động, công ty bảo hiểm bồi thường cho công dân khi gặp tai nạn lao động; đưa tin khuyến cáo công dân và cử cán bộ trực điện thoại đường dây nóng 24/7 kịp thời hỗ trợ trong những tình huống khủng hoảng.

Những năm qua, Việt Nam từng tổ chức nhiều phương án, biện pháp thiết thực trợ giúp đồng bào ở nước ngoài trước những tình thế khó khăn, trở ngại, như: Vận chuyển công dân Việt Nam trở về từ Malaysia, Trung Đông các năm 2005, 2007; giải cứu hành khách bị kẹt tại Thái Lan do khủng hoảng chính trị năm 2008; đưa hành khách ra khỏi châu Âu do núi lửa phun trào năm 2010; lập cầu hàng không sơ tán người lao động ở Libya năm 2011 và 2014... Gần đây, để bảo đảm cho người lao động không bị sập bẫy chiêu trò lừa đảo “việc nhẹ, lương cao”, các cơ quan thực thi pháp luật Việt Nam đã tích cực đấu tranh có hiệu quả với tội phạm lừa đảo lao động. Trong 6 tháng đầu năm 2022, lực lượng công an, Bộ đội Biên phòng Việt Nam phối hợp với lực lượng chức năng Campuchia giải cứu hơn 250 trường hợp người lao động bị lừa sang Campuchia lao động trái phép.

Góp phần mang lại lợi ích quốc gia và giá trị cho người lao động

Đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài bắt đầu được thực hiện từ những năm 80 của thế kỷ trước. Chính sách này góp phần mang lại lợi ích cho quốc gia, dân tộc và mang lại nhiều giá trị thiết thực cho chính người lao động. Việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài còn góp phần xóa đói, giảm nghèo cho một bộ phận người lao động ở vùng khó khăn như nông thôn, miền núi và ven biển. Bên cạnh đó, chính sách thiết thực này còn đem lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế; đồng thời cũng là điều kiện để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Theo thống kê của cơ quan chức năng, trong 10 năm qua (2012-2022), mỗi năm Việt Nam đã giải quyết việc làm bình quân cho khoảng 1,5-1,6 triệu lao động trong và ngoài nước, số lao động ngoài nước giải quyết được khoảng 10% số này. Riêng năm 2022 đã giải quyết khoảng 80.000 người lao động ra nước ngoài. Mỗi năm bình quân người lao động và chuyên gia gửi về nước với số tiền ước tính khoảng 10 tỷ USD.

Đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài, được nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, ngoại ngữ, tiếp thu những công nghệ tiên tiến, tác phong làm việc công nghiệp, hình thành nên đội ngũ lao động có trình độ tay nghề, chuyên môn cao. Sau khi kết thúc hợp đồng lao động có thể đạt được tối thiểu bậc thợ trung bình, phần lớn trong số họ có tay nghề vững vàng, đây là điều kiện để đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Từ những kết quả, lợi ích thiết thực nêu trên, càng thêm khẳng định những nỗ lực của các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương và những tổ chức, cá nhân liên quan trong hoạt động đưa công dân Việt Nam đi lao động ở nước ngoài. Đây cũng là minh chứng bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch phủ nhận chính sách của Đảng, Nhà nước ta về công tác đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc, lao động ở nước ngoài.

Nguồn: Báo QĐND

ĐÁNH GIÁ VẤN ĐỀ DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM THEO KIỂU “THẦY BÓI XEM VOI”

Hãng nghiên cứu và phân tích Economist Intelligence Unit (EIU-có trụ sở chính tại Vương quốc Anh) mới đây đã công bố báo cáo chỉ số dân chủ năm 2022, trong đó xếp Việt Nam vào “nhóm nước phi dân chủ, độc tài”. Sau đó vài ngày, Tổ chức Theo dõi nhân quyền (Human Rights Watch-có trụ sở tại Hoa Kỳ) cũng đưa ra báo cáo cho rằng, chính quyền Việt Nam sách nhiễu và giam giữ nhiều “nhà hoạt động” trong hai thập kỷ qua. Chỉ chờ có thế, một số báo, đài nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam lại dồn dập đưa ra cái gọi là phân tích, luận giải, góc nhìn theo kiểu “Thầy bói xem voi”.

Đầu tiên phải khẳng định, báo cáo của EIU là sai lầm và bịa đặt, đúng như đánh giá của nhiều chuyên gia nghiên cứu chính trị: “Họ chỉ thấy cây mà... cố tình không thấy rừng”. Báo cáo cũng tiếp tục ca ngợi cái gọi là thành tích “dân chủ phương Tây” trong khi hầu hết các giá trị “dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN)” bị bỏ qua. Các nước một đảng lãnh đạo hoặc Đảng Cộng sản lãnh đạo, các nước XHCN hoặc theo thiên hướng XHCN đều bị báo cáo này xếp vào nhóm điểm số dân chủ rất thấp mà điển hình như: Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cuba...

Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác không chấp nhận việc một số quốc gia hay tổ chức quốc tế luôn tự cho mình cái quyền dùng các yêu cầu dân chủ, nhân quyền mà phương Tây tự đặt ra để đòi hỏi nước khác phải lấy đó làm tiêu chuẩn. Trong các tiêu chí để xếp hạng chỉ số dân chủ, EIU đưa ra các tiêu chí rất thiên vị kiểu “dân chủ phương Tây” như tỷ lệ tham gia chính trị, quyền tự do cá nhân, trong đó chủ đạo là vấn đề thể chế đa nguyên, đa đảng để rồi dễ dàng đi đến xếp hạng Việt Nam vào nhóm nước phi dân chủ, độc tài.

Trên thực tế, việc đưa ra các "giá trị phương Tây" cũng là khiên cưỡng. Chính tổ chức đa phương lớn nhất thế giới là Liên hợp quốc (LHQ) cũng luôn khẳng định, các nước trên thế giới ở những trình độ phát triển khác nhau nên không thể lấy giá trị, tiêu chuẩn của nước này áp đặt cho nước khác. Hiến chương LHQ cũng nhấn mạnh: “Không quốc gia nào, kể cả LHQ, có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền quốc gia”. Quyền con người không thể đứng một mình tách rời, nó phải được đặt trong bối cảnh lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước đó.

Điều này đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận thông qua Tuyên bố Vienna và Chương trình Hành động tại Hội nghị thế giới về nhân quyền năm 1993 tại Vienna (Áo). Tuyên bố Vienna đã khẳng định khi xem xét vấn đề nhân quyền phải luôn ghi nhớ tính đặc thù dân tộc, khu vực và bối cảnh khác nhau về lịch sử, văn hóa và tôn giáo...

Dù luôn tự cho mình là dân chủ nhưng thực tế, các thiết chế dân chủ phương Tây đang áp đặt lên toàn cầu không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, nó chỉ thuộc về các tập đoàn tư bản, nơi chỉ chiếm 1% dân số nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất và quyền lực. Tuy nhiên, EIU đã bỏ qua những yếu tố có tính lịch sử khác biệt và sự bất công hiển nhiên đang tồn tại ở chế độ tư bản khi xếp hạng.

Và chính họ, cùng với Tổ chức Theo dõi nhân quyền đưa ra các báo cáo này đang vi phạm nhân quyền thì lại tự cho mình quyền đánh giá dân chủ, nhân quyền của các nước khác. Câu chuyện ngụ ngôn về những ông thầy bói mù xem voi và thánh phán lung tung đã được tái hiện trong việc đánh giá dân chủ, nhân quyền của một số tổ chức phương Tây vừa nêu. Tuy nhiên, những ông thầy bói mù hình dung không đúng về con voi, là do họ bị mù; còn một số nhà dân chủ phương Tây năm nào cũng lăm le báo cáo nhân quyền, dân chủ, chõ miệng tanh hôi vào nội bộ nước khác, thì khác các ông thầy bói kia ở tâm địa hiểm độc.

EIU đưa ra những tiêu chí rất mù mờ, cho rằng đa nguyên, đa đảng là dân chủ, còn một đảng, nhất nguyên là mất dân chủ, độc tài, là rất thiếu căn cứ. Thực tiễn các quốc gia trên thế giới cho thấy, vấn đề một đảng hay đa đảng không nói lên được đất nước đó có dân chủ hay mất dân chủ. Có những quốc gia rất nhiều đảng phái nhưng vẫn là quốc gia dân chủ thấp, quyền con người không được bảo đảm, lợi ích chỉ nằm trong tay một bộ phận giàu có. Ngược lại, một số quốc gia chỉ có một đảng lãnh đạo nhưng lại là quốc gia mà người dân luôn cảm thấy hạnh phúc. Đại dịch Covid-19 đang phơi bày tất cả mặt trái, những bất công của chế độ tư bản chủ nghĩa khi mà cuộc khủng hoảng diễn ra cả về kinh tế, chính trị và y tế, xã hội. Đời sống của đa số người lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng, trong khi số lượng tỷ phú đô-la lại tăng mạnh, khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn.

Là một sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, trong bối cảnh ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, hội tụ trong mình đầy đủ các yếu tố để lãnh trọn sứ mệnh lãnh đạo cách mạng thành công, giải phóng dân tộc, đưa đất nước tiến lên con đường XHCN, xây dựng đất nước ngày một phồn vinh.

Chỉ nói riêng về bản chất dân chủ của thể chế chính trị Việt Nam qua hơn 92 năm Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thấy rõ: Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng đất nước; xây dựng nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân được xác định là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Trên thực tế, Đảng ta luôn nhận thức rất rõ vấn đề thực hành dân chủ, dân chủ ngay chính trong nội bộ Đảng và thực hiện tốt nhất quyền dân chủ thuộc về nhân dân. Đảng luôn tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Thực tiễn việc xử lý hàng loạt tổ chức đảng và đảng viên có sai phạm, cùng việc ban hành những quy chế, quy định khắt khe của Đảng để mọi đảng viên phải rèn luyện, phấn đấu, tự răn mình bao năm qua đã chứng minh điều đó.

VIỆT NAM LUÔN BẢO ĐẢM SỰ ĐA DẠNG, HÒA HỢP VÀ BÌNH ĐẲNG TÔN GIÁO

 Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, đa tôn giáo. Theo thống kê chưa đầy đủ cho thấy Việt Nam có khoảng 95% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo (trong hàng nghìn tín ngưỡng thì tín ngưỡng phổ biến là thờ cúng ông bà tổ tiên và tín ngưỡng thờ Mẫu). Tính đến nay, cả nước có khoảng 45.000 cơ sở tín ngưỡng, trong đó có hơn 2.900 di tích gắn với cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, một số di tích được UNESCO công nhận là di sản thế giới.

Hàng năm, Việt Nam có gần 13.000 lễ hội, gồm 5 loại: lễ hội dân gian, lễ hội lịch sử cách mạng, lễ hội tôn giáo, lễ hội du nhập từ nước ngoài, lễ hội văn hóa - thể thao và ngành nghề. Riêng trong lĩnh vực tôn giáo, Việt Nam có khoảng hơn 26,5 triệu tín đồ (chiếm 27% dân số), 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được nhà nước công nhận hoặc cấp chứng nhận đăng ký hoạt động. Cả nước hiện có hơn 57,4 ngàn chức sắc, trên 147 ngàn chức việc, hơn 29,6 ngàn cơ sở thờ tự. Số lượng tín đồ theo các tôn giáo hiện nay khoảng: Phật giáo: 15,1 triệu; Công giáo: 7,1 triệu; Cao đài: 1,1 triệu; Tin lành: 1 triệu; Hồi giáo: 80.000; Phật giáo Hòa hảo: 1,3 triệu, còn lại là các tôn giáo khác (Tịnh độ Cư sỹ Phật hội, Tứ ân Hiếu nghĩa, Bà La môn, Bửu Sơn Kỳ Hương, Minh sư đạo, Minh lý đạo…).

Với chính sách tôn giáo đúng đắn, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền theo hoặc không theo tôn giáo của mọi người, các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của mọi người, số lượng chức sắc, chức việc, cơ sở thờ tự ngày càng gia tăng; quy mô hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo lớn; chính quyền các cấp đảm bảo an ninh trật tự, phòng chống cháy nổ, vệ sinh an toàn thực phẩm đối với các hoạt động tôn giáo có đông người dân và du khách nước ngoài tham dự... Cụ thể, người có tín ngưỡng, tín đồ các tôn giáo được tự do bày tỏ đức tin tại gia đình, cơ sở thờ tự hoặc điểm nhóm đăng ký với chính quyền. Tổ chức tôn giáo được hoạt động theo Hiến chương, điều lệ, được tạo điều kiện in ấn, phát hành kinh, sách tôn giáo; nâng cấp, xây mới cơ sở thờ tự; mở rộng quy mô và hình thức sinh hoạt; tăng cường, mở rộng hoạt động quốc tế… Việc công nhận tổ chức tôn giáo theo quy định của pháp luật nhận được sự đồng tình, ủng hộ của người dân và sự đánh giá cao của cộng đồng quốc tế.

Còn đối với các nhóm người theo tôn giáo chưa được công nhận về mặt tổ chức hoặc chưa được cấp đăng ký hoạt động, chính quyền các địa phương vẫn bảo đảm tự do sinh hoạt tôn giáo cho các tín đồ tại gia đình, điểm nhóm đăng kí với chính quyền hoặc địa điểm hợp pháp theo quy định của Luật. Hiện nay, có hàng trăm điểm nhóm được cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, trong đó có cả điểm nhóm của người nước ngoài. Tính đến năm 2021, khu vực Tây Nguyên hiện có khoảng 580.000 tín đồ đạo Tin lành thuộc 33 tổ chức, hệ phái, nhóm Tin lành đang sinh hoạt tại 311 chi hội, 183 nhà thờ, hơn 1.700 điểm nhóm được chính quyền địa phương cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung. Tại khu vực miền núi phía Bắc có khoảng 250.000 tín đồ đạo Tin lành đang sinh hoạt tại 14 chi hội và hơn 1.600 điểm nhóm, trong đó chính quyền địa phương đã cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung cho gần 800 điểm nhóm.

Theo thống kê của Ban Tôn giáo chính phủ, chính sách của Nhà nước Việt Nam cũng phát huy được những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp, nguồn lực của tôn giáo cho quá trình phát triển đất nước. Những năm qua, các tổ chức tôn giáo tích cực tham gia các hoạt động xã hội hóa về y tế, giáo dục và từ thiện nhân đạo, góp phần đáng kể vào công tác an sinh xã hội, giảm gánh nặng cho Nhà nước, cụ thể: Thành lập trên 450 cơ sở y tế; gần 1.300 trường, lớp mầm non, trên 50 cơ sở dạy nghề; 800 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc trẻ em mồ côi, trẻ tàn tật, người già cô đơn, bệnh nhân tâm thần, HIV/AIDS. Bên cạnh đó, các tổ chức tôn giáo đã đồng hành cùng với Chính phủ trong công tác phòng chống COVID-19 thông qua việc ủng hộ vật chất (tiền và hiện vật) với tổng giá trị hàng chục tỷ đồng. Điển hình: Giáo hội Phật giáo Việt Nam ủng hộ Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 5 phòng áp lực âm phục vụ điều trị COVID-19, trị giá 3,5 tỷ đồng; Ủy ban bác ái xã hội, Hội đồng giám mục Việt Nam hỗ trợ vùng dịch của tỉnh Vĩnh Phúc khẩu trang, nước rửa tay, vitamin C; Giáo hội Các ngày sau của Chúa Giê su Ki tô đã ủng hộ 50.000 khẩu trang trị giá 300 triệu đồng…

Báo cáo nhân quyền của Mỹ nhận định thiếu khách quan về Việt Nam Việt Nam

Lấy làm tiếc vì Báo cáo nhân quyền thường niên năm 2022 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã đưa ra một số nhận định thiếu khách quan dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình thực tế tại Việt Nam. Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng đã bày tỏ như vậy tại buổi họp báo thường kỳ chiều 23-3 tại Hà Nội.

Tại họp báo, phản ứng trước những nhận định thiếu khách quan trong Báo cáo nhân quyền thường niên năm 2022 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng khẳng định:

“Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam. Việt Nam luôn xem con người là trung tâm, là động lực của quá trình đổi mới và công cuộc phát triển đất nước, luôn nỗ lực vì mục tiêu nâng cao đời sống, quyền thụ hưởng của người dân, không để ai bị bỏ lại phía sau. Các quyền và tự do cơ bản của con người được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam, được bảo vệ và thúc đẩy bởi các văn bản pháp luật cụ thể và được triển khai trong thực tiễn.

Việt Nam lấy làm tiếc vì Báo cáo nhân quyền thường niên năm 2022 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã đưa ra một số nhận định thiếu khách quan dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình thực tế tại Việt Nam. Việt Nam luôn sẵn sàng trao đổi thẳng thắn, cởi mở và trên tinh thần xây dựng với Hoa Kỳ về những vấn đề còn có sự khác biệt để tăng cường hiểu biết và đóng góp vào sự phát triển của quan hệ Đối tác toàn diện giữa hai nước”.

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="/images/bannerv2.png" class="vllogo"></a>

Bà Phạm Thu Hằng lấy làm tiếc vì Báo cáo nhân quyền thường niên năm 2022 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã đưa ra một số nhận định thiếu khách quan. Ảnh: HỒNG NGUYỄN 

* Trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết phản ứng của Việt Nam trước việc nhóm AUKUS công bố kế hoạch trang bị tàu ngầm hạt nhân cho Australia, Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng nêu rõ: “Hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới là mục tiêu chung của mọi quốc gia và các nước có trách nhiệm đóng góp vào mục tiêu này.

Năng lượng nguyên tử, hạt nhân cần được sử dụng, phát triển vì mục đích hòa bình và phát triển kinh tế-xã hội của các nước. Việc sử dụng và phát triển năng lượng nguyên tử, hạt nhân phải bảo đảm an toàn tuyệt đối cho con người và môi trường. Chúng tôi mong rằng các quốc gia sẽ có trách nhiệm tích cực đóng góp vào mục tiêu chung này vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới”.

* Liên quan tới câu hỏi của phóng viên đề nghị bình luận trước thông tin Nhật Bản muốn thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với ASEAN, Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng cho biết, Việt Nam đánh giá cao những tiến triển mạnh mẽ và thực chất trong quan hệ ASEAN-Nhật Bản, đóng góp tích cực cho mục tiêu chung là hòa bình, an ninh, ổn định và thịnh vượng.

“Việt Nam hoan nghênh và sẵn sàng cùng các nước ASEAN và Nhật Bản thúc đẩy quan hệ hai bên phát triển lên tầm cao mới, hướng tới kỷ niệm 50 năm quan hệ ASEAN-Nhật Bản trong 2023”, Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng nhấn mạnh.

Nguồn: Báo QĐND

Quốc hội Việt Nam cam kết tạo khuôn khổ pháp lý ổn định, minh bạch, thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài

Chiều 23-3, tại Nhà Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã tiếp Đoàn Doanh nghiệp cấp cao của Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ - ASEAN (USABC) đang thăm, làm việc tại nước ta.

Tham dự cuộc tiếp có Tổng thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường; Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Vũ Hải Hà cùng đại diện Thường trực các ủy ban của Quốc hội và một số bộ, ngành liên quan.

Về phía Đoàn USABC có: Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Marc Knapper; Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc USABC Ted Osius; Phó chủ tịch Cấp cao kiêm Giám đốc Điều hành Khu vực Michael Michalak và lãnh đạo hơn 40 tập đoàn, công ty thành viên.

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đánh giá cao hoạt động hiệu quả của Cộng đồng doanh nghiệp Hoa Kỳ nói chung và USABC nói riêng, nhấn mạnh vai trò của cộng đồng doanh nghiệp Hoa Kỳ - ASEAN là đối tác và nguồn lực tin cậy trong thúc đẩy các mục tiêu và ưu tiên kinh tế chung của Việt Nam cũng như sự phát triển của quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ. Tuy nhiên, với nguồn vốn dồi dào, chất lượng cao, kinh nghiệm quản trị tốt, công nghệ cao, Chủ tịch Quốc hội cũng cho rằng hoạt động đầu tư của doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh; mong muốn Hoa Kỳ sớm cải thiện thứ bậc trong bảng xếp hạng các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.

Thời gian qua Quốc hội Việt Nam đã kịp thời ban hành các Nghị quyết về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình Phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội sau đại dịch nhằm nỗ lực hỗ trợ các doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp Hoa Kỳ, trong việc phục hồi sau đại dịch. Nhờ đó, Việt Nam đã lấy lại đà tăng trưởng với tốc độ tăng trưởng GDP lên tới 8,02%, các cân đối vĩ mô được bảo đảm.

Chủ tịch Quốc hội khẳng định, Quốc hội Việt Nam cam kết tạo khuôn khổ pháp lý ổn định, minh bạch, thuận lợi để các doanh nghiệp nước ngoài, trong đó có các doanh nghiệp Hoa Kỳ tiếp tục hoạt động, mở rộng quy mô và phát triển lâu dài tại Việt Nam, nhất là trong các lĩnh vực Hoa Kỳ có thế mạnh và Việt Nam có nhu cầu; luôn sẵn sàng lắng nghe các ý kiến, quan tâm và nguyện vọng của cộng đồng doanh nghiệp về chính sách, pháp luật của Việt Nam.

“Không có bất cứ ý kiến nào của doanh nghiệp gửi đến Quốc hội mà không được lắng nghe, nghiên cứu và tiếp thu nghiêm túc”, Chủ tịch Quốc hội khẳng định.

Các thành viên Đoàn doanh nghiệp cấp cao USABC trân trọng cảm ơn Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã dành thời gian tiếp; chúc mừng những thành tựu tuyệt vời của Việt Nam thời gian qua và đánh giá cao những quyết sách của Quốc hội Việt Nam, đặc biệt là những quyết sách trong việc thúc đẩy tiến trình phục hồi kinh tế - xã hội và tháo gỡ rất nhiều vướng mắc trong lĩnh vực y tế...

Đại diện USABC cho biết, các doanh nghiệp Hoa Kỳ có niềm tin lớn đối với Việt Nam và triển vọng phát triển mạnh mẽ của Việt Nam trong tương lai. Đánh giá Việt Nam là thị trường chiến lược trong khu vực và nhiều doanh nghiệp cam kết sẽ đầu tư lâu dài trong lĩnh vực y tế, tăng trưởng xanh, năng lượng tái tạo gắn với bảo vệ môi trường, đại diện các doanh nghiệp cũng gửi đến Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ một số kiến nghị liên quan đến các lĩnh vực chuyển đổi số, năng lượng tái tạo, thuế, đấu thầu, logistics, y tế..

Chủ tịch Quốc hội cho biết, việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho tiến trình chuyển đổi số là vấn đề được Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm.

Quốc hội đã và đang xem xét, thông qua một số đạo luật đóng vai trò nền tảng nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi các hoạt động từ môi trường thực sang môi trường số trong tất cả các ngành, lĩnh vực. Cùng với đó, tháng 9 tới, Quốc hội Việt Nam cũng sẽ đăng cai tổ chức Hội nghị Nghị sĩ trẻ toàn cầu lần thứ 9, trong đó sẽ tập trung thảo luận về chủ đề chuyển đổi số.

Chủ tịch Quốc hội mong USABC tiếp tục đóng góp ý kiến cho Quốc hội Việt Nam trong việc hoàn thiện khung khổ pháp lý về chuyển đổi số.

Về chuyển đổi năng lượng, Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh 2 vấn đề then chốt là tài chính xanh và công nghệ. “Một mình Việt Nam không thể làm được. Chúng ta phải có kế hoạch chuyển giao công nghệ và hoàn thiện thể chế cho chuyển đổi năng lượng. Quốc hội Việt Nam đang đặt trọng tâm xây dựng pháp luật vào hoàn thiện thể chế cho chuyển đổi năng lượng công bằng”, Chủ tịch Quốc hội nói.

Về y tế, dược phẩm, Chủ tịch Quốc hội nêu rõ, nhiều kiến nghị, đề xuất của USABC và các doanh nghiệp đã được Việt Nam nghiên cứu và cụ thể hóa trong Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi) được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ hai vừa qua, đặc biệt là các quy định về tự chủ đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước, về các yếu tố hình thành giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh và giá khám bệnh, chữa bệnh đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước...

Hiện nay, Quốc hội Việt Nam cũng đang xem xét sửa đổi Luật Đấu thầu, trong đó, đặt yêu cầu gắt gao đối với việc rà soát, hoàn thiện các quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc đấu thầu thuốc, trang thiết bị y tế, bảo đảm công bằng, công khai, minh bạch các hoạt động này.

Quốc hội đang chuẩn bị cho ý kiến về dự án Luật Dược (sửa đổi), nhưng Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 80 về tiếp tục thực hiện một số chính sách trong phòng, chống dịch Covid-19 và sử dụng giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc hết thời hạn hiệu lực. Chính phủ và Quốc hội Việt Nam sẽ nghiên cứu kỹ lưỡng trong dự án Luật Dược (sửa đổi), cam kết có một dự luật tốt nhất theo đúng chuẩn mực quốc tế và phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

Tại cuộc tiếp, Chủ tịch Quốc hội hoan nghênh đối thoại chính sách theo hướng win-win - hai bên cùng thắng và đề nghị USABC và các doanh nghiệp thành viên thường xuyên trao đổi, kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ Việt Nam về các giải pháp chính sách, pháp luật về tiếp tục hoàn thiện, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam và năng lực cạnh tranh quốc gia, cùng tháo gỡ rào cản, vướng mắc của các nhà đầu tư.

Nguồn: Báo QĐND

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...