Thứ Năm, 19 tháng 3, 2020

“VI-RÚT PHẢN ĐỘNG” MỘT LOẠI VI-RÚT CÒN NGUY HIỂM HƠN CHÚNG MỚI CỦA VI-RÚT CORONA (nCoV)



Đại Thắng
Dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi-rút Corona (nCoV) gây ra đã, đang hoành hành diện rộng, diễn biến hết sức phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt của đời sống xã hội trong nước cũng như toàn cầu. Hầu hết những người có lương tri chân chính không chỉ riêng ở Việt Nam mà các nước khác trên thế giới đều không mong muốn thiên tai, dịch bệnh xảy ra, vì đây là những thảm họa kéo theo những hệ lụy, hậu quả khôn lường. Nhận thức được sự nguy hiểm của dịch bệnh Đảng, Nhà nước, chính phủ, các bộ ban ngành đang thể hiện sự quyết tâm, đồng lòng đồng sức chống dịch bệnh, bước đầu kiểm soát tốt dịch, không để lây lan trên diện rộng, 16 bệnh nhân nhiễm bệnh đã được điều trị khỏi, đạt được kết quả đáng ghi nhận, Việt Nam được thế giới đánh giá cao.
Trong khi Việt Nam đã, đang thể hiện sự nỗ lực vượt bậc để cùng cộng đồng thế giới kiên quyết ngăn chặn, kiểm soát, đẩy lùi và giảm đến mức thấp nhất những thiệt hại do dịch COVID-19 gây ra, thì vẫn có những tiếng nói lạc lõng, những luận điệu xảo trá, nhằm xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng của Việt Nam; một số cơ quan truyền thông nước ngoài vốn thiếu thiện chí với Việt Nam lại có những cái nhìn phiến diện, lệch lạc về công tác phòng, chống dịch Covid-19 ở Việt Nam. Hơn nữa, bên cạnh những thông tin chính thống trên mạng xã hội lại xuất hiện rất nhiều thông tin phản ánh sai sự thật một cách rùng rợn gây nhiễu loạn, xáo trộn dư luận xã hội, tạo tâm lý hoang mang về dịch bệnh.Những trang tin này “tiền hô hậu ủng” cho một số đối tượng bất đồng chính kiến, cơ hội chính trị, bất mãn với chế độ đăng tải nhiều bài viết xuyên tạc tình hình chống dịch ở Việt Nam. Chúng đang được xem là một loại vi-rút gây dịch bệnh không hề mới nhưng còn nguy hiểm hơn chủng mới vi-rút Corona (nCoV) nếu như chúng ta không biết nhận diện, đấu tranh, bài trừu nó.
Do đó, mọi người dân phải biết sàng lọc thông tin, lựa chon các nguồn tin tin chính thống, không chỉ nâng cao ý thức trong phòng chống dịch bệnh do chủng mới của vi-rút Corona (nCoV) gây ra mà còn đấu tranh với  loại “vi-rút phản động” đang ra sức chống phá, xuyên tạc những nỗ lực, kết quả của chúng ta.

CẢNH GIÁC VỚI ÂM MƯU LỢI DỤNG DỊCH BỆNH ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VIỆT NAM



Dịch viêm đường hô hấp cấp do Covid-19 gây ra được xác định là một dịch bệnh nguy hiểm. Chính vì vậy, ngay khi dịch bệnh được phát hiện, toàn bộ hệ thống chính trị của nước ta đã vào cuộc để phòng, chống. Thực tế chứng minh, việc xử lý dịch bệnh của Việt Nam đến nay đã đạt được những kết quả rất tích cực.
Tuy nhiên, nhiều đối tượng đã lợi dụng dịch bệnh để lan truyền các thông tin sai lệch, gây ra tâm lý hoang mang trong dư luận. Đặc biệt, trên trang mạng xã hội của các cá nhân, tổ chức chống đối như Việt Tân, Chân trời mới media, Hội Anh em dân chủ, Điếu Cày… đang lan truyền nhiều bài viết có nội dung sai lệch về tình hình dịch Covid-19  cũng như công tác phòng, chống dịch bệnh Nhà nước ta. 
Những thông tin được đưa ra mang tính quy chụp, một chiều, phi khoa học nhưng đã có những tác động tiêu cực đối với xã hội; thể hiện sự vô lương tâm, coi thường pháp luật của những kẻ núp bóng “dân chủ”, “nhân quyền”. Một số dạng thông tin xuyên tạc sai sự thật được các đối tượng đưa ra gồm:
Thứ nhất, lợi dụng vấn đề liên quan đến đóng cửa biên giới với Trung Quốc để xuyên tạc vấn đề chủ quyền của Việt Nam.
Trung Quốc được xác định là nơi phát sinh dịch Covid-19. Trên mạng xã hội, nhiều đối tượng đang kêu gào đóng cửa biên giới với Trung Quốc ngăn chặn tình hình dịch bệnh. Các đối tượng đưa ra luận điệu nếu không đóng cửa biên giới sẽ khiến chúng ta luôn rơi vào thế bị động đối phó và không tạo ra được một phòng tuyến ngăn chặn dịch bệnh lây lan một cách hiệu quả.
Liên quan đến vấn đề này, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh cho rằng: Chúng ta có lẽ chưa nên đặt vấn đề đóng cửa biên giới vì tình hình chưa đến mức đó. Việc không đóng cửa biên giới với Trung Quốc không đồng nghĩa với việc chúng ta để mặc, không kiểm soát tình hình dịch bệnh. Thực tế, chúng ta đang áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp để phòng ngừa dịch bệnh như: hạn chế đi lại giữa hai bên, hủy toàn bộ các chuyến bay đã cấp phép và dừng cấp phép chuyến bay mới cho các hãng hàng không khai thác giữa Việt Nam và Trung Quốc, ngưng cấp visa cho hành khách Trung Quốc, tăng cường quản lý hoạt động tại khu vực cửa khẩu, tiến hành cách ly, theo dõi chặt chẽ những người từ Trung Quốc nhập cảnh vào Việt Nam… 
Và cũng cần nói thêm, hiện nay hàng hoá nông sản Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc là rất lớn. Nếu đóng cửa biên giới cũng đồng nghĩa với việc thương mại hai bên bị gián đoạn. Dù chúng ta vẫn xác định sẽ chấp nhận hy sinh về kinh tế để phòng, chống dịch bệnh, tuy nhiên, trong điều kiện hiện tại, việc đóng cửa biên giới là chưa thực sự cần thiết.
Vậy nhưng, các đối tượng tiến hành xuyên tạc bản chất vụ việc, cho rằng Việt Nam “không thể” và “không dám” đóng cửa biên giới với Trung Quốc. Thâm độc hơn, các đối tượng này còn vẽ ra thông tin cho rằng chính quyền Việt Nam “xem thường sức khoẻ người dân”. Và cuối cùng, các “nhà dân chủ mạng” này cũng không ngần ngại đưa ra tuyên bố Việt Nam lệ thuộc vào Trung Quốc, đánh mất chủ quyền quốc gia vào Trung Quốc nên không thể đóng cửa biên giới. Đây là những thông tin suy diễn, quy chụp độc hại.
Thứ hai, xuyên tạc tình hình thực tiễn dịch bệnh.
Trước tình hình của dịch bệnh, chúng ta đã có những giải pháp đồng bộ để phòng, chống dịch bệnh, không để xảy ra tình trạng lây lan trên diện rộng. Theo thông báo của Bộ Y tế, chúng ta đã phân lập thành công chủng virus Corona mới. Đây là một tiền đề có ý nghĩa quan trọng phục vụ các giai đoạn tiếp theo.
Đại diện của WHO cũng đánh giá cao nỗ lực cũng như các kết quả tích cực mà Việt Nam đạt được. Vậy nhưng, với ý định tạo ra “bóng ma” khiến dư luận hoảng sợ, các đối tượng tô vẽ, đưa ra nhiều thông tin lệch lạc về tình hình dịch bệnh. Các đối tượng cho rằng Việt Nam đang cố tình che giấu số trường hợp bị mắc bệnh trên thực tế, việc Việt Nam tuyên bố chữa trị thành công cho một số trường hợp bị mắc Covid-19 chỉ là hành động trấn an dư luận, “đánh lừa” người dân.
Qua ngòi bút của mình, các đối tượng thổi phồng, xuyên tạc tình hình dịch bệnh ở Việt Nam “đã vô cùng nghiêm trọng”, số trường hợp bị mắc bệnh đã lên đến hàng ngàn ca, số người tử vong do dịch bệnh lớn. Đồng thời, các đối tượng cũng cho rằng Việt Nam sẽ lãnh đủ thiệt hại do dịch bệnh gây ra. Các “nhà dân chủ” tích cực sử dụng chiêu bài “nước mắt thằng hề” để chống phá đất nước, tạo ra sự bất ổn trong xã hội. Đằng sau những luận điệu gian trá “vì nhân dân” chính là sự chống đối chính quyền vô cùng quyết liệt.
Thứ ba, xuyên tạc chức năng, vai trò của các cơ quan nhà nước.
Như đã đề cập ở trên, hiện nay nhiều người đang đưa ra các tin đồn thất thiệt, thiếu kiểm chứng về dịch bệnh, gây ra sự hoang mang trong quần chúng nhân dân. Liên quan đến vấn đề này, cơ quan Công an, Sở Thông tin và Truyền thông của nhiều địa phương đã tiến hành làm việc, xử phạt vi phạm hành chính đối với các trường hợp đưa tin sai sự thật. 
Đây là biện pháp quyết liệt của các đơn vị chức năng liên quan đến việc giải quyết nạn đưa thông tin giả. Hành động này của cơ quan chức năng nhận được sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng. Vậy nhưng, với kiểu “bới bèo ra bọ”, bất chấp sự thật, các “nhà dân chủ”, “nhân quyền” đổi trắng thay đen, xuyên tạc, hướng lái bản chất vụ việc. Các đối tượng trắng trợn vu khống việc chính quyền xử lý những người đưa tin giả như trên là hành động mang tính “bịt miệng” người dân.
Mục đích của các đối tượng chống đối khi đưa ra các thông tin lệch lạc, thiếu kiểm chứng, xuyên tạc như trên là nhằm gây ra tâm lý hoang mang, bất ổn trong xã hội, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Việc các đối tượng xuyên tạc thông tin như trên là hành động vô lương tâm, coi thường pháp luật, người dân cần cảnh giác, tỉnh táo nhận diện phòng tránh.


NNHẬN DIỆN THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG “XÃ HỘI DÂN SỰ” ĐỂ CHỐNG PHÁ CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA




Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nước ta có gần 18 tổ chức công đoàn ngành, 400 hội, hàng nghìn hiệp hội, câu lạc bộ hoạt động trong mọi lĩnh vực xã hội[1]. Về bản chất, xã hội dân sự (XHDS) là hoạt động trong khuôn khổ pháp lý và đạo lý vì mục tiêu khẳng định quyền làm chủ của nhân dân đối với xã hội và Nhà nước.
Nhằm chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thời gian qua, các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng XHDS để thực hiện “diễn biến hòa bình”; trong đó, lợi dụng các quyền cơ bản của con người như: Quyền lập hội, quyền công dân, quyền tự do báo chí..., các thế lực thù địch bên ngoài câu kết với phần tử thoái hóa, biến chất ở trong nước dùng XHDS để gây sức ép, tìm cách can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam; đòi Nhà nước phải đảm bảo tự do vô giới hạn trong các lĩnh vực xã hội.
Các thế lực thù địch coi việc hình thành XHDS độc lập về chính trị là điều kiện, tiền đề cho việc đảm bảo quyền con người, cổ súy tự do cá nhân thông qua thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do biểu tình… Chúng đặc biệt cổ súy quyền bày tỏ chính kiến không giới hạn và liên kết hình thành các tổ chức “độc lập” tham gia vào đời sống cộng đồng, thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; lập các hội, nhóm với tên gọi, khẩu hiệu, tôn chỉ, mục đích thu hút được các tầng lớp, thành phần xã hội tham gia như: “Hội phụ nữ nhân quyền”, “Hội nhà báo độc lập”, “Hội anh em dân chủ”… Thông qua các diễn đàn trực tuyến, mạng xã hội để công khai tổ chức, tuyên truyền, lừa bịp, lôi kéo quần chúng tham gia.
Mặc dù hoạt động theo phương thức tự phát nhưng các hội nhóm này luôn có sự liên kết nhau và câu kết chặt chẽ với các tổ chức phản động bên ngoài để phát triển lực lượng, hình thành các hội nhóm hoạt động “bất bạo động” tuyên truyền, kích động tư tưởng ly khai, tự trị, xuyên tạc lịch sử, gây chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, làm giảm sút lòng tin của quần chúng với Đảng, Nhà nước; tạo tiền đề tập hợp, phát triển lực lượng, hình thành tổ chức chính trị đối lập.
Các thế lực thù địch còn tìm cách tuyệt đối hóa tính độc lập tương đối của XHDS nhằm từng bước làm cho các tổ chức XHDS trở thành tổ chức chính trị đối lập với Đảng, Nhà nước ta; ra sức tuyên truyền XHDS là hiện thân của tự do, dân chủ và những gì tốt đẹp trong xã hội; đả kích, xuyên tạc, phủ nhận bản chất nhà nước XHCN, coi đó là mô hình nhà nước độc tài, toàn trị, không có khả năng điều hành xã hội, không phát huy dân chủ vì thiếu XHDS.
Các thế lực thù địch tìm cách xoáy sâu, thổi phồng những tiêu cực, hạn chế của mặt trái nền kinh tế thị trường ở nước ta, những thiếu sót trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tệ nạn tham nhũng, hối lộ… nhằm hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta.
Với lập luận, XHDS là “đối quyền của quyền lực nhà nước” để tập trung đòi thực hiện trách nhiệm xã hội, chia sẻ quyền lực chính trị cho XHDS; thực chất là cổ vũ tư tưởng coi nhà nước đối lập với XHDS; kích động thái độ vô chính phủ, lấy phá hoại thay cho xây dựng hòng từng bước đưa XHDS thành lực lượng đối trọng với Đảng, Nhà nước.
Ở bên ngoài, một số tổ chức đẩy mạnh các hoạt động tài trợ, bồi dưỡng năng lực cho các tổ chức XHDS tại Việt Nam nhằm tác động chuyển hóa và phát triển các kênh “phản biện xã hội”, hỗ trợ các tổ chức XHDS tham gia quá trình hoạch định chính sách, pháp luật và giám sát thực hiện.
Các thế lực thù địch còn tìm cách xâm nhập, tác động, chuyển hóa các tổ chức chính trị, xã hội ở nước ta hòng “phi chính trị hóa” các tổ chức này, từng bước biến thành các tổ chức XHDS theo tiêu chí phương Tây.
Thông qua thúc đẩy phát triển XHDS để tác động hình thành trong nội bộ các cơ quan, tổ chức chính trị; đặc biệt là các cơ quan dân cử xu hướng hoạt động “độc lập”, thậm chí “đối lập” với sự lãnh đạo của Đảng ta.
Thông qua môi trường XHDS, các thế lực tìm cách lôi kéo quần chúng vào các “hoạt động vì mục tiêu chung” như đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, bảo vệ môi trường… hòng kích động quần chúng chống lại chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước; tuyên truyền, lừa bịp, lôi kéo quần chúng tham gia đòi đa nguyên, đa đảng và khởi kiện, vu cáo Nhà nước ta vi phạm các điều ước quốc tế về nhân quyền. 
Nhằm góp phần phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn lợi dụng XHDS chống phá chế độ ta, cần tập trung thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp; trong đó cần tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của các hội, đoàn quần chúng. Giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện đối với cả hệ thống chính trị, trong đó có các tổ chức chính trị, xã hội. Chú trọng xây dựng tổ chức Đảng ở cơ sở trong sạch vững mạnh, đủ sức lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành hoạt động của đất nước và từng địa phương; giải quyết kịp thời bức xúc, khó khăn, nguyện vọng chính đáng của các tổ chức quần chúng và nhân dân. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.



[1] Đức Thành - “Hiểu đúng về xã hội dân sự ở Việt Nam”, http://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/hieu-dung-ve-xa-hoi-dan-su-o-viet-nam

ĐẨY MẠNH PHÒNG, CHỐNG HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN ẤN PHẨM, TÀI LIỆU CHỐNG PHÁ NƯỚC TA



Nhằm thực hiện “diễn biến hòa bình” đối với nước ta, các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng xuất bản, tán phát các ấn phẩm, tài liệu có nội dung xuyên tạc tình hình trong nước, bóp méo sự thật về chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vì thế, nhận thức rõ để có cách thức phòng, chống hoạt động này là vấn đề rất quan trọng.
Để chống phá Đảng và cách mạng nước ta, những năm qua, các thế lực thù địch đã sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi khác nhau để xuất bản, tán phát các ấn phẩm, tài liệu vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp dân tộc, tôn giáo, v.v. Chúng coi đó là một mũi tấn công quan trọng nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội ở nước ta, đưa Việt Nam theo quỹ đạo của Mỹ và phương Tây. Qua nghiên cứu, có thể phân ra thành các loại ấn phẩm, tài liệu cơ bản như sau:
1. Các báo cáo, nghị quyết, dự luật... của Nghị viện, Quốc hội Mỹ, Úc và các nước phương Tây, như: Báo cáo thường niên về tự do tôn giáo quốc tế của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ; Báo cáo, nghị quyết thường niên của Quốc hội châu Âu về tình hình nhân quyền thế giới, v.v. Các văn bản này thường đưa ra nhận xét sai lệch, thiếu khách quan về tình hình dân chủ, nhân quyền ở các quốc gia, trong đó có Việt Nam, nhằm gây sức ép, đưa ra yêu sách trong quan hệ ngoại giao song phương với Việt Nam.
2. Các văn bản pháp lý của một số tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ (NGO) hoạt động trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, như: Báo cáo thường niên, nghị quyết, thông cáo báo chí, kháng thư của tổ chức Ân xá Quốc tế (AI), tổ chức Theo dõi nhân quyền (HRW)... gửi Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam có nội dung xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền, bóp méo thực tế các vụ việc xảy ra trong nước, vu cáo Việt Nam vi phạm luật pháp quốc tế về nhân quyền; qua đó, đưa ra yêu sách đòi thả các đối tượng vi phạm pháp luật bị ta bắt giữ, xử lý.
3. Các ấn phẩm xuất bản, như: sách báo, tạp chí, tờ rơi, truyền đơn... của các cá nhân, tổ chức phản động lưu vong, số đối tượng cơ hội chính trị gửi Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài có nội dung bôi nhọ đời tư lãnh đạo, xuyên tạc lịch sử dân tộc, bóp méo, xuyên tạc tình hình, vụ việc trong nước hòng hạ thấp uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
4. Các chương trình phát thanh, phát hình bằng tiếng Việt của các hãng VOA, RFA, RFI... có nội dung xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền, tô đậm hoặc bóp méo những yếu kém, vi phạm của chính quyền các cấp trong thực hiện chính sách, pháp luật, giải quyết các vụ việc phức tạp liên quan đến tôn giáo, dân tộc hoặc xử lý các đối tượng vi phạm pháp luật trong nước, v.v.
Để chuyển tải các ấn phẩm, tài liệu xuyên tạc, phản động vào trong nước, các thế lực thù địch đã lập ra hàng nghìn trang web, blog, hàng trăm cơ quan báo, tạp chí, đài phát thanh, phát hình ở các quốc gia: Mỹ, Úc, Philippines... có chương trình tiếng Việt; thông qua hợp tác trên các lĩnh vực bưu chính viễn thông, báo chí, xuất bản trong nước; qua các chương trình hợp tác quốc tế, dự án đào tạo báo chí, các hội thảo; qua nhân viên ngoại giao, đoàn khách quốc tế đến thăm, làm việc tại Việt Nam để chuyển tải ấn phẩm, báo cáo, tài liệu vào nước ta. Họ triệt để lợi dụng thời điểm trong nước diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng, như: Đại hội Đảng toàn quốc, bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; hoặc khi có các vụ việc phức tạp xảy ra, như: vụ biểu tình phản đối Công ty Formosa tại miền Trung, giải tỏa chùa Liên Trì tại thành phố Hồ Chí Minh hay mới đây là vụ việc ở Đồng Tâm, v.v. Hoặc thời điểm đoàn Việt Nam tham gia các hoạt động của Liên hợp quốc để đẩy mạnh tán phát các ấn phẩm, tài liệu phản động vào trong nước nhằm hạ thấp uy tín Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế, làm cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ xa rời mục tiêu, lý tưởng, mất lòng tin vào Đảng, từng bước hình thành xu hướng ly khai, dựng lên “ngọn cờ”, tập hợp lực lượng phản động, hình thành đảng đối lập ở Việt Nam; thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta; cổ súy cho số đối tượng chống đối hoạt động tích cực, quyết liệt hơn.
Kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, phòng ngừa hoạt động này, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, như: Nghị quyết 16/NQ-TW, ngày 18-3-2007 của Trung ương Đảng (khóa X) về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước tình hình mới; Chỉ thị 34-CT/TW, ngày 17-4-2009 của Ban Bí thư (khóa X) về tăng cường công tác đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa; Luật Xuất bản năm 2012, Luật Báo chí năm 2016, Luật An ninh mạng năm 2018, v.v. Trên cơ sở đó, các cơ quan chức năng đã chủ động triển khai các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn hoạt động xuất bản, tán phát các ấn phẩm, tài liệu phản động. Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo tăng cường quản lý báo chí, internet, xác định rõ trách nhiệm của cơ quan chủ quản trong đấu tranh phản bác các thông tin và luận điệu sai trái; các hoạt động lợi dụng internet, mạng xã hội để tán phát tài liệu, ấn phẩm phản động. Bộ Công an đã cung cấp cho người dân thông tin về âm mưu, thủ đoạn tán phát ấn phẩm, tài liệu phản động, tăng cường công tác quản lý an ninh thông tin mạng; yêu cầu các tập đoàn truyền thông như: Google, Youtube... bóc gỡ các clip, tài khoản có nội dung xấu, độc hại, triển khai biện pháp phát hiện, đấu tranh vô hiệu hóa nhiều blog, website và xử lý nghiêm minh nhiều đối tượng vi phạm trước pháp luật. Thông qua các kênh hợp tác song phương, đa phương, các cơ quan chức năng đã chuyển tải chính sách, thành tựu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đảm bảo quyền của người dân tới cộng đồng quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài, góp phần đấu tranh phản bác luận điệu xuyên tạc tình hình thực tế trong nước. Đặc biệt, việc Việt Nam bảo vệ thành công Báo cáo quốc gia định kỳ của Việt Nam theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (chu kỳ III) về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người tại Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc ngày 04-7-2019 đã thể hiện vai trò là thành viên tích cực, có trách nhiệm của Liên hợp quốc, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn hoạt động xuất bản, tán phát các ấn phẩm, tài liệu phản động còn tồn tại nhất định. Đó là sự phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành còn hạn chế, chưa phát huy sức mạnh tổng hợp, nhất là trong tuyên truyền và đấu tranh phản bác nội dung của các ấn phẩm, tài liệu phản động. Công tác phòng ngừa, đấu tranh chưa đi vào chiều sâu, có lúc, có nơi còn mang tính hình thức, thụ động. Một bộ phận cán bộ, đảng viên nhận thức chưa đầy đủ, còn coi nhẹ công tác này. Công tác quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản, internet... tồn tại nhiều bất cập; tình trạng vi phạm các quy định pháp luật trong việc viết, đăng tin, bài viết có nội dung phản động, xuyên tạc có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp. Công tác tuyên truyền, định hướng thông tin và đấu tranh phản bác thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch còn thụ động, thiếu sắc bén.
Những năm tới, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” với nước ta, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh xuất bản, tán phát ấn phẩm, tài liệu phản động với nhiều thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp hơn. Nhằm phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn hiệu quả đối với hoạt động này, cần tập trung thực hiện tốt mấy vấn đề cơ bản sau:
Một là, công tác phòng ngừa, đấu tranh chống hoạt động xuất bản, tán phát ấn phẩm, tài liệu phản động chống phá Việt Nam luôn được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong triển khai thực hiện với quyết tâm chính trị lớn, sức thuyết phục cao, sức lan tỏa sâu rộng. Đặc biệt, cần huy động được rộng rãi trí tuệ, tâm huyết của các nhân sĩ, trí thức và kiều bào ta ở nước ngoài tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh.
Hai là, tăng cường công tác nắm tình hình, nghiên cứu dự báo, phát hiện kịp thời âm mưu, thủ đoạn, đặc biệt là phương thức hoạt động mới của các thế lực thù địch để tán phát các loại văn bản, tài liệu, ấn phẩm... và thời điểm đẩy mạnh các chiến dịch tán phát tài liệu phản động để kịp thời triển khai biện pháp đấu tranh ngăn chặn. Trong đó, đặc biệt chú trọng nắm tình hình từ xa, ngay từ trung tâm phá hoại tư tưởng ở bên ngoài để chủ động triển khai công tác phòng ngừa. Chú trọng xây dựng, triển khai mạng lưới bí mật vào các trung tâm phá hoại tư tưởng có trụ sở ở ngoài nước, các cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài ở Việt Nam, các tổ chức phi chính phủ thường có hoạt động xuất bản, tán phát các ấn phẩm, tài liệu chống phá ta.
Ba là, xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật trong lĩnh vực thông tin, truyền thông, báo chí, quản lý internet, v.v. Chủ động rà soát lại hệ thống pháp luật hiện hành, xác định những quan hệ xã hội nảy sinh trên lĩnh vực này chưa được pháp luật điều chỉnh để kiến nghị Đảng, Nhà nước xây dựng, ban hành văn bản pháp luật mới, góp phần phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động xuất bản, tán phát ấn phẩm, tài liệu phản động.
Bốn là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, tính chất công tác phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn hoạt động xuất bản, tán phát ấn phẩm, tài liệu phản động chống phá nước ta, làm cho cán bộ, đảng viên và người dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên, thấy rõ tác hại của các tài liệu, thông tin phản động; có khả năng nhận diện và “miễn dịch” các nội dung thông tin xấu độc, nguy hại đối với xã hội; kịp thời tố giác với các cơ quan chức năng các tài liệu, ấn phẩm phản động để xử lý kịp thời. Chú trọng xây dựng ý thức và phong cách văn hóa khi tham gia mạng xã hội, internet cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ.
Năm là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền chính sách, thành tựu bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền đối nội và tuyên truyền đối ngoại; tận dụng thế mạnh của các kênh ngoại giao, đối thoại, hợp tác; phát huy tính ưu việt của internet, các blog, diễn đàn trên mạng xã hội để đăng tải các tin, bài viết phong phú, đa dạng làm cho cộng đồng quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài hiểu đúng quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thành tựu đã đạt được trong phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quyền con người ở Việt Nam, góp phần đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu xuyên tạc, vu cáo tình hình thực tế ở nước ta.
Sáu là, đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới, trang bị các phương tiện thiết bị hiện đại nhằm phục vụ hiệu quả công tác quản lý, kiểm duyệt, kiểm tra trong lĩnh vực báo chí, xuất bản, internet... đáp ứng kịp thời yêu cầu trong công tác phòng ngừa, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng khoa học công nghệ để xuất bản, tán phát tài liệu, ấn phẩm chống phá Việt Nam. Thường xuyên bổ sung, củng cố tổ chức nhân sự, nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng kịp thời yêu cầu do tình hình công tác đặt ra. Tăng cường kiểm tra để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh sai phạm trong hoạt động kinh doanh, kiểm tra, phát hiện các trang web, blog... có nội dung xấu, độc hại để có biện pháp xử lý, ngăn chặn kịp thời.
Bảy là, đẩy mạnh thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, các chương trình, đề án của Chính phủ đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Chủ động nắm tình hình, giải quyết kịp thời và dứt điểm các vụ việc tranh chấp khiếu kiện đất đai, các vụ đình công, lãn công... ngay từ cơ sở, không để hình thành “điểm nóng”, tạo cớ để các thế lực bên ngoài, các đối tượng trong nước lợi dụng thổi phồng, xuyên tạc tình hình,  lợi dụng can thiệp, đưa yêu sách hoặc tác động làm phức tạp tình hình an ninh chính trị tại địa phương.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, chúng ta tin tưởng rằng, các cơ quan chức năng và cả hệ thống chính trị tiếp tục thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả hoạt động xuất bản, tán phát các ấn phẩm, tài liệu phản động chống phá nước ta.

PHÊ PHÁN Ý KIẾN KÊU GỌI VIỆT NAM LIÊN MINH QUÂN SỰ ĐỂ BẢO VỆ TỔ QUỐC



“Không liên minh quân sự” là chủ trương đúng đắn, quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam được thể hiện trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 vừa được công bố. Đó là cơ sở quan trọng để chúng ta đấu tranh bác bỏ ý kiến sai trái kêu gọi Việt Nam phải liên minh quân sự để bảo vệ Tổ quốc.
Ngày 25-11-2019, Việt Nam công bố Sách trắng Quốc phòng 2019, được bổ sung, phát triển chính sách quốc phòng công bố năm 2009, công khai toàn bộ những vấn đề cơ bản nhất của quốc phòng Việt Nam; trong đó, xác định: “Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc dùng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”. Chính sách này được nhiều nước và dư luận quốc tế ủng hộ, đánh giá cao; phản ánh tinh thần trách nhiệm của Việt Nam góp phần vào củng cố hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, một số bài viết trên mạng xã hội, báo điện tử nước ngoài,… cho rằng, Việt Nam thực hiện chính sách “4 không” là nguy cấp, đồng thời ra sức hô hào, kêu gọi Việt Nam “phải thực hành liên minh quân sự để bảo vệ Tổ quốc”. Theo họ, trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần liên minh quân sự với một nước lớn nào đó có thực lực quân sự, quốc phòng mạnh, như: Mỹ, Nga hay Nhật,… thì sẽ được hỗ trợ tối đa về mặt quân sự, kể cả đưa vũ khí trang bị, lực lượng quân đội đến trợ giúp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới, biển, đảo quốc gia. Những bài viết này đều xuất phát từ những chủ thể và chủ bút luôn có thái độ, hoạt động chống phá Đảng Cộng sản, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Không thuần túy là kêu gọi liên minh quân sự ngay lập tức cho Việt Nam, mà ẩn ý của họ nhắm tới là kích động dư luận xã hội phủ nhận, lên án và gây áp lực với Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam, tạo ra những bất ổn, tiêu cực về quốc phòng, an ninh, gây mất ổn định chính trị, phá vỡ nền hòa bình, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó mới là mục đích “thực” của họ. Vì vậy, cần phải kiên quyết phê phán, bác bỏ ý kiến sai trái này, với các cơ sở lý luận, thực tiễn sau:
1. Tính hai mặt của liên minh quân sự. “Liên minh quân sự là sự liên kết hoạt động quân sự giữa hai hoặc nhiều nước hay tập đoàn chính trị trên cơ sở thống nhất về mục đích và lợi ích. Tùy thuộc vào mục đích chính trị, liên minh quân sự có thể là tiến bộ hay phản động, tự vệ hay xâm lược”1. Theo đó có thể thấy: (1). Liên minh quân sự tất yếu không chỉ hỗ trợ và ràng buộc nhau về quân sự mà còn cả chính trị và kinh tế; (2). Liên minh quân sự phải dựa trên cơ sở thống nhất về mục đích và lợi ích, trước hết là phải chấp nhận các điều kiện có đi, có lại về chính trị, kinh tế, nhiều khi là cả chủ quyền quốc gia; (3). Tùy theo mục đích chính trị, kinh tế, “lợi lộc” đến đâu mà các nước liên minh trước sau sẽ bộc lộ bản chất tiến bộ - phản động, tự vệ - xâm lược, chính nghĩa - phi nghĩa, vụ lợi - cùng có lợi.
Như vậy, liên minh quân sự có hai dạng, tích cực và tiêu cực, tùy theo mục đích, bản chất chính trị, kinh tế của các bên tham gia liên minh. Nếu liên minh đó là chính nghĩa, trên tinh thần giúp đỡ lẫn nhau, thì nó sẽ phát huy tác dụng trong đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền của các bên tham gia, đóng góp chung cho sự tiến bộ của nhân loại. Ngược lại, liên minh đó là phản động, phi nghĩa, thì càng làm gia tăng căng thẳng và đối đầu giữa các nước, các khối quân sự; tạo nguyên cớ để các nước có mưu đồ xấu, các khối quân sự chạy đua vũ trang, đẩy mạnh hoạt động, tăng cường hiện diện quân sự, đẩy thế giới, khu vực và đất nước đến “miệng hố chiến tranh”. Thậm chí, các tập đoàn tài phiệt, tập đoàn quân sự hùng mạnh hay các thế lực phản động thỏa hiệp với nhau, thực hiện chính sách hai mặt đối với các quốc gia, dân tộc nhỏ yếu bị lôi kéo, ép buộc vào liên minh, buộc các quốc gia, dân tộc phải từ bỏ một phần hoặc hy sinh những lợi ích căn bản của mình, đặc biệt là quyền dân tộc tự quyết, độc lập chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia để phục vụ cho mục đích của họ, nhất là khi đối tác liên minh đạt được thỏa hiệp có lợi ích lớn hơn với nước đang là đối tượng gây ra xung đột, chiến tranh với mình, v.v.
Thực tiễn lịch sử thế giới gần đây cho thấy, các cuộc chiến tranh và xung đột khắp Nam Âu đến Nam Á, Trung Đông và Bắc Phi mấy thập niên qua, điển hình như nội chiến ở Xy-ri, xung đột ở U-crai-na,… đều chỉ ra, một trong những nguyên nhân và “ngòi nổ” của nó là chính sách đối nội và đối ngoại thiếu sự nhất quán của đảng cầm quyền và của chính phủ các nước đó. Chính phủ và ngay cả một bộ phận nhân dân các nước này luôn trông chờ sự “cứu giúp” của các thế lực bên ngoài. Họ biết đâu rằng, đằng sau những hành động và việc làm tưởng như vô tư đó là cả một mưu đồ tham vọng về lợi ích chiến lược của các cường quốc, mà hậu quả để lại cho nhân dân các nước đó không chỉ là phá hỏng không gian kinh tế - xã hội, kéo lùi sự phát triển của đất nước, mà còn là cảnh “nồi da nấu thịt”, chia cắt, tàn phá đất nước; chế độ và nhà nước có chủ quyền bị thủ tiêu hoặc luôn đối mặt với các nguy cơ bất ổn. Điều này cho thấy, giữ vững độc lập, tự chủ là bài học xương máu trong quan hệ quốc tế của mỗi quốc gia, dân tộc. Các nước tham gia liên minh quân sự đều có lợi ích riêng của mình. Vì vậy, các quốc gia phải cân nhắc cái được và cái mất để quyết định trước khi tham gia hay không tham gia liên minh. Việt Nam chủ trương không liên minh quân sự là hoàn toàn phù hợp và sáng suốt; là điều kiện quan trọng để giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước.
2Việt Nam chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để bảo vệ Tổ quốc. Những người kêu gọi “Việt Nam phải liên minh quân sự” thường chê bai, gièm pha về sức mạnh quân sự Việt Nam hiện nay là “quá yếu”, “lạc hậu”; chính sách quốc phòng là “dâng đất, bán biển”, là “chính sách quy phục nước lớn…”, v.v. Đây là ý kiến hoàn toàn sai lầm, phiến diện, chỉ “thấy cây mà không thấy rừng”, “biết một mà không biết hai”. Một triết lý hiển nhiên ai cũng hiểu là bất cứ nước nào khi tiến hành chiến tranh thì đều phải cần đến vũ khí trang bị, phương tiện quân sự cần thiết, càng hiện đại càng tốt. Nhưng, nếu chỉ dựa vào vũ khí thì Việt Nam không thể nào đánh bại được mọi kẻ thù xâm lược. Lịch sử đã chứng minh, Việt Nam chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược bởi chúng ta có một thứ “vũ khí” vô cùng quan trọng, đó là nhân tố chính trị - tinh thần to lớn, lòng yêu nước nồng nàn, “chúng chí thành thành”, “toàn dân là lính” của toàn dân tộc. Chính “bảo bối” này mới là cái thực lực quyết định và nhân lên sức mạnh của mọi thứ vũ khí khác. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, với tinh thần “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, quân và dân Việt Nam đã vượt qua gian khổ, ác liệt, hy sinh, phát huy cao độ tính năng, tác dụng các loại vũ khí, trang bị hiện có và được bạn bè quốc tế giúp đỡ, đánh thắng hai đế quốc hùng mạnh với vũ khí, trang bị hiện đại nhất, giành độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà.
Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 khẳng định: Việt Nam xây dựng sức mạnh quốc phòng dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời khẳng định, chính sách quốc phòng của Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; tích cực, chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược, chứ không phải là “quy phục láng giềng” như kẻ nào đó rêu rao! Thực tiễn còn cho thấy: (1). Tiềm lực quân sự, quốc phòng Việt Nam hiện nay đã lớn mạnh hơn bao giờ hết, bởi Việt Nam đã là một quốc gia độc lập, thống nhất, có một Đảng chân chính, duy nhất lãnh đạo, có một Nhà nước vững mạnh, có gần một trăm triệu người dân “muôn người như một”; (2). Việt Nam được đánh giá có một nền kinh tế năng động, phát triển trong khu vực năng động, phát triển nhất và đang thu được nhiều thành tựu to lớn, hiệu quả; (3). Việt Nam đã và đang chủ trương xây dựng Quân đội nhân dân: “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, với một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; lấy tập trung xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội; (4). Việt Nam có một thế trận quốc phòng vững chắc là “thế trận quốc phòng toàn dân”, mà “thế trận lòng dân” là cốt lõi, kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế - xã hội, đối ngoại; có nghệ thuật quân sự độc đáo, phong phú, được đúc rút từ hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc; (5). Việt Nam có địa - quân sự thuận lợi cho phòng thủ và tiến công, được thiết lập vững chắc, liên hoàn giữa các khu vực; (6). Việt Nam đã, đang phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường nghiên cứu, phát triển, ứng dụng, làm chủ khoa học, công nghệ cao, vũ khí trang bị hiện đại, bảo đảm phòng, chống hiệu quả và giành thắng lợi trong điều kiện đối phương sử dụng vũ khí công nghệ cao; (7). Việt Nam có quan hệ quốc tế với 194 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó, có quan hệ với tất cả các nước lớn; được hầu hết các nước trên thế giới, nhất là các nước láng giềng đánh giá cao và ủng hộ chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam hiện nay. Đó là cơ sở khẳng định Việt Nam có đủ khả năng để thực hiện đường lối độc lập, tự chủ trong bảo vệ Tổ quốc, giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cở sở luật pháp quốc tế, mà không cần thực hiện liên minh quân sự. Còn những người luôn kêu gọi thực hiện liên minh quân sự là những người đã rơi vào và tuyệt đối hóa quan điểm “vũ khí luận”, muốn ỷ lại, dựa dẫm vào nước khác, vũ khí của người khác, mà đánh mất tinh thần tự tôn dân tộc.
Mặc dù nhất quán thực hiện chính sách “4 không”; song, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 xác định: “Tùy theo tình hình cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế”2. Qua đó cho thấy, chính sách quốc phòng của Việt Nam không chỉ đúng mà còn linh hoạt, mềm dẻo, hợp lý, hợp thời, nhằm phát huy sức mạnh của mọi nguồn lực để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG CHIÊU TRÒ XUYÊN TẠC, HẠ THẤP VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRƯỚC THỀM ĐẠI HỘI ĐẢNG CÁC CẤP



Đã thành “thông lệ”, trước mỗi kỳ đại hội đảng các cấp, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội, phản động lại đẩy mạnh hoạt động chống phá, nhằm xuyên tạc, bóp méo, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng. Vì thế, nhận diện rõ những luận điệu sai trái, phản động và kiên quyết đấu tranh bác bỏ, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trước hết là của cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên.
1. Trên thực tế, các thế lực thù địch đã và đang kết hợp chặt chẽ giữa bên trong và bên ngoài, tạo nên dàn “hợp xướng” tiến công trên nhiều hướng, từ nhiều phía với nhiều nội dung xuyên tạc, chống phá. Họ thực hiện nhiều thủ đoạn nham hiểm vừa trắng trợn, vừa che dấu kín đáo, rất tinh vi, xảo quyệt. Đồng thời, triệt để lợi dụng các phương tiện truyền thông, thông tin hiện đại, đặc biệt là mạng xã hội, kết hợp với các phương thức tuyên truyền truyền thống, tạo nên “ma trận” chống phá Đảng, Nhà nước và đại hội đảng các cấp; trong đó, xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng là hướng cơ bản và nội dung chủ yếu. Các đài phát thanh RFI, VOA, BBC liên tục phát những tài liệu, các cuộc phỏng vấn những phần tử bất mãn, cơ hội chính trị người Việt lưu vong ở nước ngoài để cắt xén, thổi phồng, xuyên tạc một số sự kiện ở trong nước, đưa lên mạng xã hội phát tán rộng rãi, nhằm gây khó khăn cho sự thống nhất về tư tưởng trong Đảng, đồng thuận trong xã hội trước thềm đại hội đảng các cấp.
2. Thực chất về toàn bộ nội dung, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trước thềm đại hội đảng các cấp.
Một là, tung ra những thông tin thất thiệt xuyên tạc công tác chuẩn bị đại hội đảng các cấp và Đại hội XIII của Đảng. Đây là thủ đoạn được chúng thực hiện rất ráo riết, nhằm hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng. Trên internet, mạng xã hội và một số “diễn đàn”, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị cố tình đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc theo kiểu “có ít xít ra nhiều”, “bé xé ra to”, bóp méo sự thật, xuyên tạc tình hình, làm cho thật giả lẫn lộn, gây nhiễu loạn thông tin, làm cho người đọc, người xem thiếu bản lĩnh và kinh nghiệm dễ lầm tưởng, khó phân biệt thật giả, đúng sai. Họ cố tình dựng chuyện “quy chụp”, việc chuẩn bị đại hội là “hoạt động thay cho đại hội”, là “xóa bỏ quyền của các đại biểu dự đại hội”, v.v. Trong thời điểm các tổ chức đảng đang tích cực chuẩn bị đại hội ở cấp mình theo Chỉ thị 35-CT/TW, ngày 30-5-2019 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng, thì các thế lực thù địch, phần tử cơ hội, phản động càng tăng cường tung thông tin xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của các tổ chức đảng ở các địa phương, cơ quan, đơn vị. Chúng rêu rao rằng: ở các địa phương và toàn Đảng, “các phe cánh trong Đảng đang thanh trừng lẫn nhau”; “trong Đảng không có dân chủ nên cần phải đa đảng”; “Đại hội là nơi diễn ra sự đấu đá quyết liệt tranh giành sự ảnh hưởng giữa “nhóm cải cách” và “nhóm bảo thủ” trong Đảng”,… hòng gây mất đoàn kết nội bộ, hạ thấp vai trò, uy tín của Đảng.
Hai là, tập trung xuyên tạc nội dung Dự thảo văn kiện của Đại hội, đặc biệt là các bước chuẩn bị nhân sự cho đại hội đảng các cấp ở các địa phương, cơ quan, đơn vị, nhất là nhân sự Đại hội XIII của Đảng. Đây là thủ đoạn rất nham hiểm đánh vào những vấn đề “cốt lõi, then chốt” của đại hội đảng, nhằm trực tiếp hạ thấp và đi đến phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Họ ra sức thổi phồng, xuyên tạc, bịa đặt đời tư cá nhân, nhằm bôi nhọ thanh danh, uy tín của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, gây hoài nghi, hoang mang trong dư luận, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào Đảng và chế độ. Lợi dụng một số cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, pháp luật và việc xử lý của chúng ta, họ kích động, “suy đoán” bừa, nhằm chia rẽ nội bộ, hình thành “phe nhóm chống đối nhau” trong nội bộ các tổ chức đảng, trong Ban Chấp hành Trung ương. Đồng thời tuyên truyền rằng, công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ cốt cán cho Đại hội XIII là Ban Chấp hành Trung ương đã “tước đi quyền tự do, dân chủ trong việc ứng cử, đề cử và bầu cử của các đại biểu dự Đại hội XIII” (!).
Ba là, ra sức thổi phồng, bóp méo, xuyên tạc, bịa đặt về những hạn chế, yếu kém của các địa phương, bộ, ngành, của Đảng và Nhà nước, nhằm phủ nhận những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới. Thủ đoạn này được chúng rêu rao thường xuyên, nhưng trước, trong quá trình đại hội đảng các cấp, thì càng được thực hiện một cách ráo riết hơn, nhằm hạ thấp và đi đến phủ nhận vai trò lãnh đạo, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, thực tế tình hình đất nước, như: lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội rồi thổi phồng, cắt ghép theo ý đồ, bình luận, nhìn nhận vấn đề có thật một cách méo mó, theo hướng có lợi cho mưu đồ chống phá, xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng. Họ xuyên tạc rằng, cái gọi là thành tựu của đổi mới là do Đảng, Nhà nước Việt Nam “tự vẽ lên”, “tự mình khen mình”, chứ thực chất theo họ là không có thật, đất nước vẫn trong cảnh nghèo nàn, tụt hậu, đời sống của nhân dân còn rất khó khăn. Và rằng: những thành tựu đổi mới nếu có là chỉ “chui vào túi của bọn độc tài”, bọn tham nhũng, quan tham; người dân nghèo thì không được thụ hưởng, v.v. Họ còn lên mặt ra vẻ cổ vũ cho những thành tựu mà nhân dân ta đã đạt được qua gần 35 năm đổi mới đất nước, nhưng lại ra sức lợi dụng những hạn chế, khó khăn để chống phá, với lập luận rằng, đổi mới tuy đã đạt được thành tựu đáng ghi nhận, nhưng đến nay nó đã “hết động lực”, đã đến lúc cần phải đổi mới theo hướng “triệt để hơn nữa”, đặc biệt là đổi mới về chính trị, có như thế thì đất nước mới phát triển! Bổ sung cho mệnh đề đó, họ đưa ra “kiến nghị” với Đại hội XIII là cần phải “xoay trục với nhân dân, với dân tộc”! Những lời lẽ đó được thổi phồng lên rồi tung hô trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên các trang mạng, gây nhiễu loạn thông tin và dư luận xã hội.
3. Trước sự chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội, phản động trước thềm đại hội đảng các cấp, chúng ta cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Thứ nhất, nâng cao tinh thần cảnh giác và khả năng “miễn dịch” cho các tổ chức đảng, toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chủ động đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc, thù địch; kịp thời ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động phá hoại công tác chuẩn bị, đặc biệt là công tác nhân sự đại hội đảng các cấp và Đại hội XIII của Đảng. Chú trọng hơn nữa đến việc “Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào”1. Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận, trình độ lý luận, trình độ nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo sức “đề kháng” cần thiết trước tác động tiêu cực của những luận điệu xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng.
Thứ hai, chủ động thông tin đúng đắn, chính xác về đại hội đảng các cấp và Đại hội XIII của Đảng. Công khai, minh bạch thông tin về những chủ trương, chính sách trong giải quyết các vấn đề bức xúc, nhất là những vấn đề có tính nhạy cảm trước thềm đại hội đảng các cấp. Đây là vấn đề rất quan trọng, không nên để những thông tin giả, tin đồn thất thiệt lan truyền và hoành hành trong cộng đồng xã hội, rồi mới tìm cách khắc phục theo kiểu “chạy theo” tình hình. Các phương tiện tuyên truyền của Đảng, Nhà nước cần chủ động, kịp thời, phản ánh các sự kiện đại hội đảng các cấp và Đại hội XIII của Đảng. Tuyệt đối không để công chúng hoài nghi về công tác truyền thông và không để những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc tự tung, tự tác xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, chống phá đại hội đảng các cấp mà không bị phản bác. Thông tin càng cởi mở, việc kết nối thông tin trong xã hội tới mọi người dân luôn thông suốt, thì càng có điều kiện để phòng, chống tin giả, tin xấu độc, bảo đảm thông tin chính thống giữ vững vai trò chủ đạo, định hướng dư luận. Kịp thời đấu tranh phê phán, phản bác mạnh mẽ với những thông tin, bài viết có nội dung xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, nhất là trên không gian mạng.
Báo chí chính thống phải là hạt nhân dẫn dắt, định hướng thông tin, hạn chế, ngăn chặn, phản bác thông tin xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, gây nhiễu, chống phá đại hội đảng các cấp và Đại hội XIII của Đảng. Hệ thống báo chí nước nhà cần thống nhất, phối hợp chặt chẽ, dự báo và lường trước mọi luận điệu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, để vừa làm chủ trận địa truyền thông, vừa có đối sách thích hợp, nhanh chóng vạch trần và bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng. Các cơ quan chức năng cần chủ động nắm bắt diễn biến tình hình đại hội đảng các cấp, nghiêm khắc xử lý mọi hành vi lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền” để phát tán tài liệu vu cáo, vu khống Ðảng và Nhà nước.
Thứ ba, tăng cường công tác quản lý nội bộ, kịp thời đấu tranh và xử lý đối với những cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, kịp thời phát hiện, ngăn chặn những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị đưa ra thông tin tuyên truyền chống phá, xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng. Làm cho mọi người dân thực sự bình tĩnh, tự mình có thể thẩm định, đánh giá các thông tin chính thống được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng của Đảng, Nhà nước và các địa phương. Mỗi cán bộ, đảng viên và người dân phải thể hiện trách nhiệm với chính bản thân mình và cộng đồng ở việc hình thành một “bộ lọc” khi tiếp nhận mọi thông tin; tránh tự mình trở thành “con rối”, tiếp tay cho kẻ xấu trục lợi, cho các thế lực thù địch tuyên truyền xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, chống phá đại hội đảng các cấp và Đại hội XIII của Đảng.
Thành công của đại hội đảng các cấp và Đại hội XIII của Đảng, cùng sự ổn định, phát triển của đất nước sẽ làm phá sản mọi mưu đồ của các thế lực thù địch hòng xuyên tạc, hạ thấp, thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 199.


BÁO CÁO NHÂN QUYỀN 2019 CỦA HOA KỲ LẠI XUYÊN TẠC SỰ THẬT VỀ TÌNH HÌNH VIỆT NAM



Theo thông lệ, vào quý I hằng năm, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ra Báo cáo về tình hình nhân quyền trên thế giới. Tuy nhiên, Báo cáo này thường tập trung phê phán các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa và những quốc gia “cứng cổ” - không chịu đi theo “cái gậy” chỉ huy, lãnh đạo của Hoa Kỳ. Cách đây không lâu, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã công bố “Báo cáo nhân quyền hàng năm, năm 2019”. Trong phần đề cập về Việt Nam, Báo cáo viết: “Nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là một nhà nước độc tài được cai trị bởi một đảng duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam, dẫn đầu bởi Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân… Cuộc bầu cử Quốc hội gần đây nhất, vào năm 2016 không có tự do và công bằng, dù có sự cạnh tranh một cách hạn chế của các ứng cử viên được Đảng lựa  chọn”, v.v. Cái mà Hoa Kỳ gọi là vi phạm nhân quyền trong bài viết này bao gồm các hành vi, như: “bắt cóc, bắt giam người tùy tiện, tra tấn người bị bắt tạm giam, hạn chế nghiêm trọng quyền tự do, bao gồm: tự do biểu đạt, tự do báo chí, tự do internet, v.v. Về quyền con người, đó là tình trạng “nạn nhân chết trong đồn công an; blogger Trương Duy Nhất “của Đài Á Châu Tự Do” (SIC) bị “bắt cóc” khi đang xin quy chế tỵ nạn ở Thái Lan hồi tháng 01 năm 2019”!
Báo cáo về tình hình nhân quyền Việt Nam của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ năm nay nhấn mạnh và lên án tình trạng đối xử với tù nhân nói chung và tù chính trị nói riêng: “Tù nhân ở Việt Nam thường phải nhận thức ăn có chất lượng thấp, điều kiện giam giữ chật chội. Thậm chí, có tù nhân không được chăm sóc y tế khi có bệnh. Giới chức nhà tù cũng không kiểm soát được tình trạng tù nhân đánh tù nhân… Các tù chính trị thường bị chuyển đi các trại giam xa gia đình, điển hình là ông Lê Đình Lượng, Nguyễn Trung Trực”!
Đối với các quyền dân sự, chính trị, Báo cáo viết: “Hiến pháp và Luật cho phép quyền tự do biểu đạt bao gồm tự do báo chí, tuy nhiên, trên thực tế, Chính phủ không tôn trọng các quyền này và nhiều bộ luật còn vi phạm quyền tự do biểu đạt. Chính phủ tiếp tục sử dụng các điều khoản về an ninh mạng và chống bôi nhọ người khác để hạn chế quyền  tự do biểu đạt”... Trong Báo cáo trên, bộ Ngoại giao Hoa Kỳ còn nhấn mạnh Việt Nam đã hạn chế tự do internet, chặn các website tiếng Việt của Đài Á Châu Tự Do, VOA và BBC.
Tác giả bài viết này xin dừng lại phần trích dẫn ở đây. Bởi, nó sẽ làm mất thời gian của bạn đọc, vì trong bản Báo cáo này người viết cho Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã lặp lại nhiều lần cùng một nội dung. Về chuyện nhân quyền mà Báo cáo nhắc đi, nhắc lại thì rất đáng tiếc là người chắp bút lại không hiểu thế nào là quyền con người! Công bằng mà nói, chỉ có một nội dung mà Báo cáo viết có thể trao đổi, đó là: Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã nêu lên trường hợp “vụ bắt cóc” blogger Trương Duy Nhất “của Đài Á Châu Tự Do” (SIC- đúng nguyên văn). Thế nhưng, trên mạng có người đã nêu câu hỏi tại sao Báo cáo năm 2019, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lại không nhắc đến trường hợp Phạm Chí Dũng? Câu trả lời - Đơn giản vì người viết cẩu thả!
Về Báo cáo Nhân quyền năm 2019, thật đáng tiếc - Một cơ quan, tổ chức lớn như Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lại xuyên tạc sự thật, đồng thời phá hoại quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, nhất là khi thời kỳ chiến tranh lạnh đã khép lại (1991), thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã mở ra. Đặc biệt, khi quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đã sang một trang mới, tốt đẹp, đầy hứa hẹn.
Về quyền công dân và quyền con người ở Việt Nam, không phủ nhận rằng trong mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa kiểu cũ - với Nhà nước chuyên chính vô sản, nền kinh tế quan liêu bao cấp, “ngăn sông cấm chợ”,… Việt Nam còn có những hạn chế nhất định về quyền con người. Thế nhưng, từ khi bước vào thời kỳ đổi mới (1986) đến nay, chế độ xã hội, Nhà nước ở Việt Nam đã có sự thay đổi cơ bản:   Hiến pháp 2013 đã giành cả một chương - Chương II quy định về chế độ chính trị  và quyền con người; trong đó, khẳng định: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Nhà nước tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Về quyền con người, Hiến pháp 2013 đã quy định đầy đủ các quyền con người, từ quyền dân sự, chính trị đến quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, v.v. Những quy định trong Hiến pháp 2013 hoàn toàn phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và tương thích với các Công ước về quyền con người. Cần nói thêm rằng, cho đến nay, Việt Nam đã ký kết, gia nhập hầu hết các Công ước quốc tế về quyền con người; đồng thời, cũng đã nội luật hóa các Công ước quốc tế về quyền con người trong hệ thống pháp luật quốc gia.
Quyền tự do ngôn luận, báo chí đã được quy định trong Luật Báo chí 2016. Điều 11 xác định rõ quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân: “Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí…”. Các hành vi bị nghiêm cấm: “Xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền nhân dân; Bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; Gây chiến tranh tâm lý. Gây chia rẽ giữa các tầng lớp nhân dân, giữa nhân dân với chính quyền nhân dân, với lực lượng vũ trang nhân dân, với tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; Gây hằn thù, kỳ thị, chia rẽ, ly khai dân tộc, xâm phạm quyền bình đẳng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; Gây chia rẽ người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người theo các tôn giáo khác nhau, chia rẽ các tín đồ tôn giáo với chính quyền nhân dân, với tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; xúc phạm niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; Phá hoại việc thực hiện chính sách đoàn kết quốc tế. Đăng, phát thông tin có nội dung kích động chiến tranh nhằm chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; Thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân”, v.v.
Có thể nói rằng, chưa bao giờ uy tín, vị thế của chế độ xã hội và Nhà nước ta cao như hiện nay: Tại khóa họp lần thứ 73 Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 2019, Việt Nam đã được bầu vào ghế Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 với số phiếu gần như tuyệt đối (192/193).
Ở Việt Nam hiện nay, nhằm bảo đảm đầy đủ thông tin đa dạng, nhiều chiều của người dân đã được các cơ quan chức năng tôn trọng, tiếp sóng các hãng thông tấn, báo chí lớn của phương Tây, như: BBC, RFA, VOA, v. v.
 Về trường hợp Trương Duy Nhất bị các cơ quan chức năng bắt, xử lý hình sự thì sao? Câu trả lời rằng: đây là điều bình thường, xử lý đúng theo pháp luật Quốc gia. Còn chuyện bắt Trương Duy Nhất như thế nào thì thuộc quyền của cơ quan chức năng. Được biết Trương Duy Nhất đã bỏ trốn ra nước ngoài cho nên các cơ quan chức năng buộc phải sử dụng phương thức thích hợp. Nếu quan chức Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và các nhà “dân chủ, nhân quyền” (cuội) nêu vấn đề trên thì hãy hỏi nhà cầm quyền Thái Lan vì sao họ lại cho phép Trương Duy Nhất nhập cảnh khi Y đã có lệnh truy nã của Nhà nước Việt Nam? Còn việc giam giữ, “chăm sóc” Blogger Trương Duy Nhất theo đúng quy định đối với những người vi phạm Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có những hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ. Còn chuyện cách ly Trương Duy Nhất thì điều đó cũng là bình thường, cần thiết vì “con viruts dân chủ, nhân quyền dởm” này có thể lây lan bệnh tật nhanh hơn cả con viruts-19.
Với cách lập luận như vậy, Báo cáo Nhân quyền 2019 (phần về Việt Nam) nó đã xuyên tạc trắng trợn tình hình Việt Nam, can thiệp vào công việc nội bộ Việt Nam và phá hoại quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đang trên đà phát triển. Báo cáo này được công bố ngay sau khi nhóm tầu tác chiến sân bay Hoa Kỳ gồm tàu sân bay USS Theodore Roosevelt (CVN-71) và tuần dương hạm USS Bunker Hill (CG-52) đã cập cảng Tiên Sa Đà Nẵng. Trước đó Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Mark T. Esper đã có chuyến thăm chính thức Việt Nam từ ngày 19 đến 21-11-2019. Trong chuyến thăm này, Bộ trưởng Mark T. Esper tái khẳng định cam kết của Hoa Kỳ trong quan hệ đối tác toàn diện với Việt Nam và sự ủng hộ lâu dài của Hoa Kỳ đối với quyền tự do hàng hải, hàng không trên khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương dựa trên Luật Biển quốc tế ở Biển Đông.
Nói về quyền con người ở Việt Nam ngày nay, không thể không nói đến Việt Nam đã ứng phó nhanh chóng, hiệu quả đối với đại dịch covid-19. Đại diện tổ chức Y tế thế giới - WHO đã nhiều lần khẳng định: “Việt Nam đã thể hiện năng lực rất tốt trong việc xử lý các vấn đề y tế công cộng khẩn cấp, kể cả các đợt bùng phát dịch bệnh truyền nhiễm mới xuất hiện. Đây là kết quả của nhiều năm đầu tư tăng cường năng lực cốt lõi, bao gồm giám sát và đánh giá nguy cơ, công tác nghiên cứu, thí nghiệm, phòng ngừa, kiểm soát nhiễm khuẩn và quản lý lâm sàng, truyền thông nguy cơ, v.v. WHO ghi nhận việc Việt Nam đã xử lý dịch bệnh này rất tốt. “Chính phủ đã khởi động hệ thống ứng phó ở ngay giai đoạn đầu của dịch - tăng cường giám sát, đảm bảo phòng ngừa và kiểm soát nhiễm khuẩn, quản lý ca bệnh tại các cơ sở y tế và hoạt động truyền thông, hợp tác đa ngành”. Điều đó, đã thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng, Nhà nước và chế độ ta, tất cả là vì con người, đảm bảo cho họ có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Mọi mưu đồ xuyên tạc về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam sẽ đi ngược lại bản chất, truyền thống và tình hình thực tế của đất nước đang trên đường đổi mới và phát triển; làm ảnh hưởng đến quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đang có chiều hướng tốt.


Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...