“Không liên minh quân sự”
là chủ trương đúng đắn, quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam được
thể hiện trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 vừa được công bố. Đó là
cơ sở quan trọng để chúng ta đấu tranh bác bỏ ý kiến sai trái kêu gọi Việt Nam
phải liên minh quân sự để bảo vệ Tổ quốc.
Ngày
25-11-2019, Việt Nam công bố Sách trắng Quốc phòng 2019, được bổ sung, phát
triển chính sách quốc phòng công bố năm 2009, công khai toàn bộ những vấn đề cơ
bản nhất của quốc phòng Việt Nam; trong đó, xác định: “Việt Nam chủ trương
không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước
kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc dùng lãnh thổ Việt Nam để
chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan
hệ quốc tế”. Chính sách này được nhiều nước và dư luận quốc tế ủng hộ, đánh giá
cao; phản ánh tinh thần trách nhiệm của Việt Nam góp phần vào củng cố hòa bình,
ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.
Tuy
nhiên, một số bài viết trên mạng xã hội, báo điện tử nước ngoài,… cho rằng,
Việt Nam thực hiện chính sách “4 không” là nguy cấp, đồng thời ra sức hô hào,
kêu gọi Việt Nam “phải thực hành liên minh quân sự để bảo vệ Tổ quốc”. Theo họ,
trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần liên minh quân sự với một nước lớn nào đó
có thực lực quân sự, quốc phòng mạnh, như: Mỹ, Nga hay Nhật,… thì sẽ được hỗ
trợ tối đa về mặt quân sự, kể cả đưa vũ khí trang bị, lực lượng quân đội đến
trợ giúp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biên giới, biển, đảo quốc gia. Những bài
viết này đều xuất phát từ những chủ thể và chủ bút luôn có thái độ, hoạt động
chống phá Đảng Cộng sản, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Không
thuần túy là kêu gọi liên minh quân sự ngay lập tức cho Việt Nam, mà ẩn ý của
họ nhắm tới là kích động dư luận xã hội phủ nhận, lên án và gây áp lực với Đảng,
Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam, tạo ra những bất ổn, tiêu cực về quốc
phòng, an ninh, gây mất ổn định chính trị, phá vỡ nền hòa bình, xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó mới là mục đích
“thực” của họ. Vì vậy, cần phải kiên quyết phê phán, bác bỏ ý kiến sai trái
này, với các cơ sở lý luận, thực tiễn sau:
1. Tính
hai mặt của liên minh quân sự. “Liên minh quân sự là sự liên kết hoạt
động quân sự giữa hai hoặc nhiều nước hay tập đoàn chính trị trên cơ sở thống
nhất về mục đích và lợi ích. Tùy
thuộc vào mục đích chính trị, liên minh quân sự có thể là tiến bộ hay phản
động, tự vệ hay xâm lược”1. Theo đó có thể thấy: (1). Liên minh quân
sự tất yếu không chỉ hỗ trợ và ràng buộc nhau về quân sự mà còn cả chính trị và
kinh tế; (2). Liên minh
quân sự phải dựa trên cơ sở thống nhất về mục đích và lợi ích, trước hết là
phải chấp nhận các điều kiện có đi, có lại về chính trị, kinh tế, nhiều khi là
cả chủ quyền quốc gia; (3). Tùy
theo mục đích chính trị, kinh tế, “lợi lộc” đến đâu mà các nước liên minh trước
sau sẽ bộc lộ bản chất tiến bộ - phản động, tự vệ - xâm lược, chính nghĩa - phi
nghĩa, vụ lợi - cùng có lợi.
Như
vậy, liên minh quân sự có hai dạng, tích cực và tiêu cực, tùy theo mục đích,
bản chất chính trị, kinh tế của các bên tham gia liên minh. Nếu liên minh đó là
chính nghĩa, trên tinh thần giúp đỡ lẫn nhau, thì nó sẽ phát huy tác dụng trong
đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền của các bên tham gia, đóng góp chung cho sự
tiến bộ của nhân loại. Ngược lại, liên minh đó là phản động, phi nghĩa, thì
càng làm gia tăng căng thẳng và đối đầu giữa các nước, các khối quân sự; tạo
nguyên cớ để các nước có mưu đồ xấu, các khối quân sự chạy đua vũ trang, đẩy
mạnh hoạt động, tăng cường hiện diện quân sự, đẩy thế giới, khu vực và đất nước
đến “miệng hố chiến tranh”. Thậm chí, các tập đoàn tài phiệt, tập đoàn quân sự
hùng mạnh hay các thế lực phản động thỏa hiệp với nhau, thực hiện chính sách
hai mặt đối với các quốc gia, dân tộc nhỏ yếu bị lôi kéo, ép buộc vào liên
minh, buộc các quốc gia, dân tộc phải từ bỏ một phần hoặc hy sinh những lợi ích
căn bản của mình, đặc biệt là quyền dân tộc tự quyết, độc lập chủ quyền, sự
toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia để phục vụ cho mục đích của họ, nhất là khi đối
tác liên minh đạt được thỏa hiệp có lợi ích lớn hơn với nước đang là đối tượng
gây ra xung đột, chiến tranh với mình, v.v.
Thực
tiễn lịch sử thế giới gần đây cho thấy, các cuộc chiến tranh và xung đột khắp
Nam Âu đến Nam Á, Trung Đông và Bắc Phi mấy thập niên qua, điển hình như nội
chiến ở Xy-ri, xung đột ở U-crai-na,… đều chỉ ra, một trong những nguyên nhân
và “ngòi nổ” của nó là chính sách đối nội và đối ngoại thiếu sự nhất quán của
đảng cầm quyền và của chính phủ các nước đó. Chính phủ và ngay cả một bộ phận
nhân dân các nước này luôn trông chờ sự “cứu giúp” của các thế lực bên ngoài.
Họ biết đâu rằng, đằng sau những hành động và việc làm tưởng như vô tư đó là cả
một mưu đồ tham vọng về lợi ích chiến lược của các cường quốc, mà hậu quả để
lại cho nhân dân các nước đó không chỉ là phá hỏng không gian kinh tế - xã hội,
kéo lùi sự phát triển của đất nước, mà còn là cảnh “nồi da nấu thịt”, chia cắt,
tàn phá đất nước; chế độ và nhà nước có chủ quyền bị thủ tiêu hoặc luôn đối mặt
với các nguy cơ bất ổn. Điều này cho thấy, giữ vững độc lập, tự chủ là bài học
xương máu trong quan hệ quốc tế của mỗi quốc gia, dân tộc. Các nước tham gia
liên minh quân sự đều có lợi ích riêng của mình. Vì vậy, các quốc gia phải cân
nhắc cái được và cái mất để quyết định trước khi tham gia hay không tham gia
liên minh. Việt Nam chủ trương không liên minh quân sự là hoàn toàn phù hợp và
sáng suốt; là điều kiện quan trọng để giữ vững môi trường hòa bình để phát
triển đất nước.
2. Việt Nam chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để bảo vệ Tổ
quốc. Những
người kêu gọi “Việt Nam phải liên minh quân sự” thường chê bai, gièm pha về sức
mạnh quân sự Việt Nam hiện nay là “quá yếu”, “lạc hậu”; chính sách quốc phòng
là “dâng đất, bán biển”, là “chính sách quy phục nước lớn…”, v.v. Đây là ý kiến
hoàn toàn sai lầm, phiến diện, chỉ “thấy cây mà không thấy rừng”, “biết một mà
không biết hai”. Một triết lý hiển nhiên ai cũng hiểu là bất cứ nước nào khi
tiến hành chiến tranh thì đều phải cần đến vũ khí trang bị, phương tiện quân sự
cần thiết, càng hiện đại càng tốt. Nhưng, nếu chỉ dựa vào vũ khí thì Việt Nam
không thể nào đánh bại được mọi kẻ thù xâm lược. Lịch sử đã chứng minh, Việt
Nam chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược bởi chúng ta có một thứ “vũ khí” vô cùng
quan trọng, đó là nhân tố chính trị - tinh thần to lớn, lòng yêu nước nồng nàn,
“chúng chí thành thành”, “toàn dân là lính” của toàn dân tộc. Chính “bảo bối”
này mới là cái thực lực quyết định và nhân lên sức mạnh của mọi thứ vũ khí
khác. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, với tinh thần “không có gì
quý hơn độc lập, tự do”, quân và dân Việt Nam đã vượt qua gian khổ, ác liệt, hy
sinh, phát huy cao độ tính năng, tác dụng các loại vũ khí, trang bị hiện có và
được bạn bè quốc tế giúp đỡ, đánh thắng hai đế quốc hùng mạnh với vũ khí, trang
bị hiện đại nhất, giành độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà.
Sách
trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 khẳng định: Việt Nam xây dựng sức mạnh quốc
phòng dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa; củng cố, tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời khẳng định, chính sách quốc
phòng của Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu
tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở
luật pháp quốc tế; tích cực, chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh,
thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, sẵn sàng chống chiến tranh
xâm lược, chứ không phải là “quy phục láng giềng” như kẻ nào đó rêu rao! Thực
tiễn còn cho thấy: (1). Tiềm
lực quân sự, quốc phòng Việt Nam hiện nay đã lớn mạnh hơn bao giờ hết, bởi Việt
Nam đã là một quốc gia độc lập, thống nhất, có một Đảng chân chính, duy nhất
lãnh đạo, có một Nhà nước vững mạnh, có gần một trăm triệu người dân “muôn
người như một”; (2). Việt Nam được đánh giá có một nền kinh tế năng động, phát
triển trong khu vực năng động, phát triển nhất và đang thu được nhiều thành tựu
to lớn, hiệu quả; (3). Việt
Nam đã và đang chủ trương xây dựng Quân đội nhân dân: “cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, với một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại;
lấy tập trung xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng
tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội; (4). Việt Nam có một thế trận quốc phòng vững chắc là “thế
trận quốc phòng toàn dân”, mà “thế trận lòng dân” là cốt lõi, kết hợp chặt chẽ
giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế - xã hội, đối ngoại; có nghệ thuật quân sự
độc đáo, phong phú, được đúc rút từ hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của
dân tộc; (5). Việt Nam có
địa - quân sự thuận lợi cho phòng thủ và tiến công, được thiết lập vững chắc,
liên hoàn giữa các khu vực; (6). Việt
Nam đã, đang phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường nghiên
cứu, phát triển, ứng dụng, làm chủ khoa học, công nghệ cao, vũ khí trang bị
hiện đại, bảo đảm phòng, chống hiệu quả và giành thắng lợi trong điều kiện đối
phương sử dụng vũ khí công nghệ cao; (7). Việt
Nam có quan hệ quốc tế với 194 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó,
có quan hệ với tất cả các nước lớn; được hầu hết các nước trên thế giới, nhất
là các nước láng giềng đánh giá cao và ủng hộ chính sách quốc phòng đúng đắn
của Việt Nam hiện nay. Đó là cơ sở khẳng định Việt Nam có đủ khả năng để thực
hiện đường lối độc lập, tự chủ trong bảo vệ Tổ quốc, giải quyết tranh chấp, bất
đồng bằng biện pháp hòa bình trên cở sở luật pháp quốc tế, mà không cần thực
hiện liên minh quân sự. Còn những người luôn kêu gọi thực hiện liên minh quân
sự là những người đã rơi vào và tuyệt đối hóa quan điểm “vũ khí luận”, muốn ỷ
lại, dựa dẫm vào nước khác, vũ khí của người khác, mà đánh mất tinh thần tự tôn
dân tộc.
Mặc
dù nhất quán thực hiện chính sách “4 không”; song, Sách trắng Quốc phòng Việt
Nam 2019 xác định: “Tùy theo tình hình cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển
các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở
tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như
các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích
chung của khu vực và cộng đồng quốc tế”2. Qua đó cho thấy, chính
sách quốc phòng của Việt Nam không chỉ đúng mà còn linh hoạt, mềm dẻo, hợp lý,
hợp thời, nhằm phát huy sức mạnh của mọi nguồn lực để bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét