Thứ Sáu, 12 tháng 6, 2020

Quyền tự do ngôn luận, báo chí - Những cái giá phải trả cho nhận thức sai lầm


Trong những ngày cuối tháng 5 vừa qua, những ai có thói quen “lướt  Web” - đọc thông tin trên internet, mạng xã hội thì đều thấy cơ quan chức năng vừa bắt tạm giam hai kẻ vi phạm pháp luật. Đó là trường hợp blogger “Bà Đầm Xòe - Phạm Thành” (bị bắt ngày 21/5), do xúc phạm Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tường Thụy (bắt tạm giam vào sáng ngày 23/5/2020) về tội “làm, tàng trữ, phát tán thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước” (theo Điều 117, Bộ luật Hình Sự, 2019). Cả hai trường hợp nói trên đều vi phạm pháp luật về quyền tự do ngôn luận báo chí. Vậy quyền tự do ngôn luận báo chí là gì? Trong bối cảnh internet, mạng xã hội ngày nay có điều gì cần lưu ý?
Theo nghĩa thông thường, quyền quyền tự do ngôn luận báo chí được hiểu đó là một quyền con người, quyền công dân. Về nội dung, đó là quyền của tất cả mọi người trong việc tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, v.v.
Về nguồn gốc, quyền tự do ngôn luận báo chí được quy định trong nhiều văn kiện quốc tế và Việt Nam. Trong Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945, cộng đồng quốc tế đã nhất trí xem quyền con người bao gồm cả quyền tự do ngôn luận báo chí như là một mục tiêu. Khoản 3, Điều 1 của Hiến chương quy định “Khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam, nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Sau Hiến chương Liên hợp quốc, “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (Việt Nam đã gia nhập năm 1982) quy định cụ thể hơn về quyền này. Tại khoản 2, Điều 19 viết: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, …”. Như vậy, quyền này bao gồm 3 nội dung cơ bản: 1- Quyền tự do “tìm kiếm” thông tin; 2- Quyền “tiếp nhận” (đọc và nhận thức, thể hiện quan điểm của cá nhân) thông tin; 3- Quyền “truyền đạt” mọi thông tin.
Về hình thức thông tin, Công ước quy định: “không phân biệt lĩnh vực, hình thức bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật,…”. Khoản 3, Điều 19 quy định “Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định. Tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để:  “a- Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác. b- Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”. Điều đáng chú ý là, quy định về hạn chế quyền nhằm “Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng” (Khoản b). Từ khoản b của Công ước 1966, người ta thấy quyền tự do ngôn luận báo chí tuy ở mỗi thể chế xã hội khác nhau, nhưng việc bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội…và tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác vẫn được cộng đồng quốc tế thừa nhận như một nguyên tắc hạn chế quyền.
Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận báo chí từng bước được xác lập và ngày càng hoàn thiện. Năm 1945, trước khi Liên hợp quốc ra đời, tháng 10/1945, ngày 2/9/1945, trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn lại “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” Pháp, 1791. Trong đó, Người tái khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Như vậy, theo Tuyên ngôn độc lập 1945, mọi người đều có đầy đủ, bình đẳng về các quyền và nghĩa vụ.
Sau Tuyên ngôn độc lập, Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng quy định: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận; Tự do xuất bản; Tự do tổ chức và hội họp…” (Điều 10). Các bản Hiến pháp tiếp nối Hiến pháp 1946, như: Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013 đều khẳng định và mở rộng quyền tự do ngôn luận báo chí.
Công cuộc đổi mới mở đầu từ Đại hội VI (1986) đã mở ra một thời kỳ phát triển mới của Việt Nam. Dựa trên Đường lối Đại hội VI, mô hình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa kiểu mới được thiết lập. Thay cho mô hình kinh tế cũ - kinh tế quan liêu  bao cấp, Đại hội VI quyết định chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần, trong đó có thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản chủ nghĩa. Về chính trị, mô hình đổi mới, đó là nhà nước pháp quyền, pháp luật tối thượng, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Hiến pháp 2013 đã dành riêng một chương (Chương II) quy định về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó Điều 25 nêu rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”. Đồng thời, Điều 25 cũng nêu nguyên tắc hạn chế quyền: “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
Luật Báo chí năm 2016 cũng quy định về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Điều 13 quy định: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình”. Đặc biệt, khoản 3, Điều 13 quy định: “Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng”. Đồng thời, Luật này cũng quy định: “Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân”.
Năm 1989, Quốc hội thông qua Luật Báo chí năm 1989. Mười năm sau, năm 1999, Quốc hội thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1989. Năm 2016, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung đã được Quốc hội khóa XIII thông qua (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017).
Trong điều kiện internet, mạng xã hội quyền tự do ngôn luận báo chí bao gồm quyền và nghĩa vụ của cá nhân, cơ quan (báo chí) trên internet, mạng xã hội đã được Quốc hội ta luật hóa. Luật Tiếp cận thông tin (2016 và Nghị định 72/2013/NĐ-CP, ngày 15/07/2013) của Chính phủ về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng tái khẳng định định quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do ngôn luận báo chí. Có thể nói, tiếp cận thông tin là một quyền mới. Quyền tiếp cận thông tin, bao gồm: Quyền sáng tạo tác phẩm báo chí; Quyền cung cấp thông tin cho báo chí; Quyền phản hồi thông tin trên báo chí v.v… Như vậy, quyền tiếp cận thông tin không chỉ là một quyền thụ động (do cơ quan nhà nước công khai thông tin) mà còn là một quyền chủ động, quyền của người dân được đòi hỏi các cơ quan, tổ chức nhà nước đáp ứng thông tin.
Tuy nhiên, trên không gian mạng, Nhà nước ta đã có những quy định về quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin và những hạn chế quyền nhất định. Theo đó, công dân có quyền được sử dụng các dịch vụ trên internet, trừ các dịch vụ bị cấm theo quy định của pháp luật và có nghĩa vụ tuân thủ các quy định về bảo đảm an toàn thông tin, an ninh thông tin; phải chịu trách nhiệm về nội dung thông tin do mình lưu trữ, cung cấp, truyền đưa trên mạng xã hội, v.v.
Trên môi trường internet, mạng xã hội, một số kẻ nghĩ rằng trên thế giới ảo thì sự vi phạm pháp luật của chúng có thể bị các cơ quan chức năng bỏ qua. Hai trường hợp bị cơ quan chức năng bắt vừa qua là những trường hợp vi phạm pháp luật trên internet, mạng xã hội. Điều 16, Luật An ninh mạng quy định về tội: a) Xúc phạm nghiêm trọng danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác; b) Thông tin bịa đặt, sai sự thật xâm phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Chứng cứ mà các cơ quan chức năng thu thập được là các thông tin ở các tài khoản của chúng trên internet, cũng như những tài liệu còn được lưu giữ trên máy tính và điện thoại di động mà chúng đang sử dụng. Phân tích hai trường hợp vừa bị bắt cho thấy, đây là những kẻ đã từng nhiều lần vi phạm pháp luật. Hơn nữa, chúng vốn là những kẻ chống phá chế độ đã lợi dụng xã hội đang tập trung vào chống đại dịch Covid để phát tán thông tin xấu độc để thực hiện mưu đồ của mình.
Nói như một blogger, cái sai “chết người” của Phạm Thành và Nguyễn Tường Thụy ở đây là: Chúng đã xúc phạm nhân phẩm, danh dự Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trên cả hai phương diện: 1- Là một công dân Việt Nam (được pháp luật bảo vệ); 2- Trên cương vị Tổng Bí thư, Chủ tịch nước được toàn Đảng, toàn dân kính trọng, tín nhiệm, đương nhiên cũng được thể chế xã hội bảo vệ. Mặt khác, chúng còn soạn thảo và tàng trữ nhiều tài liệu xấu độc, chuẩn bị tán phát trên không gian điện tử. Việc hai blogger của Đài Á Châu Tự Do: Phạm Thành và Nguyễn Tường Thụy bị bắt và xử lý là đúng với các quy định của pháp luật Việt Nam.
TS. CAO ĐỨC THÁI, Giảng viên cao cấp, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Quyền con người, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

ĐẢNG, NHÀ NƯỚC LUÔN QUAN TÂM THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ



Chiều 12-6, với sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, sự điều hành của Phó chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng, Quốc hội thảo luận tại hội trường về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội (KTXH) vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi giai đoạn 2021-2030.

Tại hội trường, 25 đại biểu Quốc hội đã phát biểu ý kiến, 19 đại biểu đăng ký nhưng không còn thời gian phát biểu trực tiếp. Các đại biểu khẳng định, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước luôn được quan tâm thực hiện, đạt được nhiều kết quả quan trọng, đời sống của đồng bào DTTS và miền núi từng bước được nâng lên. Các đại biểu nhất trí, Quốc hội cần ban hành Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KTXH vùng đồng bào DTTS và miền núi.
Bên cạnh đó, các đại biểu Quốc hội cũng đóng góp nhiều ý kiến để bàn về những giải pháp, vấn đề đặt ra để nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện chính sách DTTS và miền núi, nhất là phát triển KTXH, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ cương thổ đất nước ở khu vực biên giới, miền núi.
Đại biểu Vương Ngọc Hà (đoàn Hà Giang) đề nghị Chính phủ nghiên cứu xây dựng tiêu chí về nhóm dân tộc khó khăn, đặc biệt khó khăn; đưa dân tộc Mông vào nhóm dân tộc khó khăn bởi đồng bào dân tộc Mông sinh sống tại các vùng núi cao, dọc biên giới, với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, ít đất sản xuất. Tuy khó khăn, nhưng đồng bào dân tộc Mông vẫn kiên cường sinh sống nơi địa đầu của Tổ quốc, góp phần gìn giữ cương thổ đất nước. “Nếu được thoát nghèo, đặc biệt là được phát triển, thì đồng bào dân tộc Mông sẽ góp phần rất lớn vào sự phát triển KTXH của cả vùng cũng như tạo điều kiện để xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc”, đại biểu Vương Ngọc Hà nói.
Theo đại biểu Châu Quỳnh Dao (đoàn Kiên Giang), nếu đồng bào DTTS, miền núi thiếu tiếp cận thông tin, nhất là thông tin về chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước thì rất dễ bị kẻ xấu lợi dụng kích động, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng đến việc đầu tư phát triển toàn diện về KTXH của cả vùng. Đại biểu Nguyễn Quốc Hưng (đoàn TP Hà Nội) đặt vấn đề, giải pháp nhanh nhất và hiệu quả nhất để sớm đạt được phần lớn các mục tiêu của Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KTXH vùng đồng bào DTTS, miền núi giai đoạn 2021-2030 là phát triển du lịch, vì vùng này không thuận lợi về nhân lực, vật lực để phát triển các ngành công nghiệp, thậm chí cả nông nghiệp, nhưng lại có nhiều tiềm năng, thế mạnh để phát triển du lịch, nhất là du lịch lịch sử văn hóa cộng đồng, sinh thái nghỉ dưỡng, hang động và du lịch lòng hồ thủy điện.
Giải trình ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến nhắc tới điểm mới là Quốc hội đã quyết định để Ngân hàng Chính sách xã hội cho vay với các dự án tạo sinh kế cho đồng bào; khuyến khích sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị, bảo tồn, phát huy văn hóa đặc sắc đi đôi với phát triển du lịch, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, tạo ra sản phẩm khác biệt, độc đáo riêng có của vùng DTTS và miền núi. “Với ý tưởng này, chúng tôi rất kỳ vọng sẽ nhận được sự quan tâm đầu tư của các doanh nghiệp”, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc nói.
Kết luận nội dung này, Phó chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng nêu rõ, đại biểu Quốc hội yêu cầu Chính phủ có đầu tư trọng tâm, trọng điểm để đồng bào DTTS và miền núi giảm nghèo nhanh, bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển cũng như mức sống với các vùng khác. Đại biểu Quốc hội cũng yêu cầu phải chú trọng công tác bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ là người DTTS; chăm lo, giữ gìn bản sắc văn hóa các DTTS; xóa bỏ các hủ tục lạc hậu; chăm sóc sức khỏe đồng bào và chăm lo đến phụ nữ, trẻ em vùng DTTS, miền núi; phát huy truyền thống đoàn kết để bảo vệ vững chắc an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ biên giới và phát huy khối đại đoàn kết các dân tộc.
* Theo thông cáo báo chí số 15 của Tổng thư ký Quốc hội, sáng 12-6, Quốc hội họp phiên toàn thể tại hội trường để xem xét, quyết định về công tác nhân sự; thảo luận về dự thảo Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách tài chính-ngân sách đặc thù đối với Thủ đô Hà Nội.
Về công tác nhân sự, với sự điều hành của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Quốc hội nghe Trưởng ban Công tác đại biểu Trần Văn Túy trình bày báo cáo kết quả thảo luận tại đoàn đại biểu Quốc hội về đề nghị phê chuẩn danh sách các phó chủ tịch, các ủy viên Hội đồng Bầu cử quốc gia; bầu Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH). Danh sách này sau đó được Quốc hội thông qua với tỷ lệ tán thành 449/449 đại biểu có mặt, tham gia biểu quyết.
Kết quả bỏ phiếu kín phê chuẩn danh sách phó chủ tịch và ủy viên Hội đồng Bầu cử quốc gia; bầu ủy viên UBTVQH cũng đã được báo cáo Quốc hội. Theo đó, Hội đồng Bầu cử quốc gia có 4 phó chủ tịch, gồm: Phó chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng; Phó thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình; Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Trần Thanh Mẫn; Phó chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh.
Ông Dương Thanh Bình được bầu làm Ủy viên UBTVQH với tổng số 468 đại biểu Quốc hội tán thành, đạt tỷ lệ 99,15%. Ngày 13-6, Quốc hội tiếp tục làm việc.

Ở VIỆT NAM KHÔNG CÓ CÁI GỌI LÀ “TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM”



Không phải tới bây giờ, mà nhiều năm qua, các thế lực thù địch dường như không biết bấu víu vào vấn đề gì hơn là lợi dụng những vấn đề về dân tộc, tôn giáo, nhân quyền… để chống phá sự nghiệp cách mạng của Việt Nam.
Mũi nhọn mà họ tập trung vào là vấn đề nhân quyền với nhiều hình thức tinh vi, thâm độc, xảo trá. Vậy, sự thật những người mà họ gọi là “tù nhân lương tâm” là những ai? Cần khẳng định rằng: Ở Việt Nam không bao giờ có cái gọi là “tù nhân lương tâm” mà thực chất đó chỉ là những người vi phạm pháp luật.
Ai được các thế lực thù địch gọi là “tù nhân lương tâm” ở Việt Nam?
Sẽ chẳng phải là những cái tên quá xa lạ, bởi những con người ấy đã được báo chí nhắc đến không ít lần. Tuy nhiên, với tuyệt đại đa số người Việt Nam thì những con người ấy chỉ đơn giản là đối tượng vi phạm pháp luật và phải chịu các hình thức xử lý theo quy định của pháp luật. Vậy, họ là những ai? Đó là Cù Huy Hà Vũ, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung, Lê Công Định, Lê Thăng Long; là Trần Anh Kim, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài… Với người dân Việt Nam, thì các vụ án liên quan đến những đối tượng này chỉ là những vụ án hình sự đơn thuần; họ đều bị các cơ quan bảo vệ pháp luật của Việt Nam truy tố, xét xử do phạm tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo quy định tại Điều 88 Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Xin được nêu lại một trường hợp cụ thể để minh chứng rõ hành vi phạm tội của những người được các thế lực thù địch gọi là “tù nhân lương tâm” ở Việt Nam. Cù Huy Hà Vũ, một người được học hành cơ bản, có nhận thức cao và được thừa hưởng nhiều sự ưu ái của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, do thiếu tu dưỡng, rèn luyện, ảo tưởng với danh vọng, quyền lực, nên Vũ đã lầm đường, lạc lối, có nhiều hành vi đi ngược lại lợi ích của Đảng, Nhà nước và dân tộc Việt Nam. Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an phát hiện Vũ đã làm ra nhiều tài liệu có nội dung chống Nhà nước Việt Nam để tuyên truyền, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, tuyên truyền luận điệu chiến tranh tâm lý, đòi lật đổ chế độ, thực hiện đa nguyên, đa đảng, kêu gọi nước ngoài can thiệp. Không những vậy, Cù Huy Hà Vũ còn có quan hệ với các đối tượng có tư tưởng chống đối Nhà nước Việt Nam; thực hiện nhiều cuộc trả lời phỏng vấn các đài, báo của các đối tượng phản động chống Việt Nam ở nước ngoài có nội dung chống Nhà nước và chuyển tải các tài liệu do Vũ làm ra để chúng sử dụng chống phá Nhà nước Việt Nam… Những hành vi nêu trên của Cù Huy Hà Vũ đã vi phạm nghiêm trọng Điều 88 Bộ luật Hình sự.
Như vậy, với những chứng cứ hết sức rõ ràng, Cù Huy Hà Vũ đã vi phạm pháp luật của Nhà nước Việt Nam và bị các cơ quan bảo vệ pháp luật của Việt Nam xử phạt theo đúng các quy định của pháp luật. Với kiến thức về pháp luật và được đào tạo bài bản, chắc chắn Cù Huy Hà Vũ nhận thức đầy đủ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, ngay tại phiên tòa Vũ đã phải cúi đầu nhận tội và nói những lời ăn năn, hối cải. Tuy nhiên, đáng tiếc, do ảo tưởng và sự tham vọng quyền lực, cùng với sự lóa mắt trước những cám dỗ vật chất tầm thường, nên sau khi được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước, Vũ lại "ngựa quen đường cũ", chống phá đất nước, quê hương của mình, đi ngược lại truyền thống dân tộc và truyền thống gia đình, dòng họ.
Điều rất đáng bàn là những người được các thế lực thù địch gọi là “tù nhân lương tâm” ở Việt Nam khi bị bắt và khai trước tòa hầu hết đều thừa nhận rằng do không có kiến thức pháp luật, không lường hết hậu quả của những việc đã làm, do nhận tiền và bị xúi giục, thậm chí bị đe dọa nên buộc phải tham gia. Ví như, tại phiên tòa, hai bị cáo Lê Công Định và Nguyễn Tiến Trung đều thành khẩn khai báo, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đã vi phạm pháp luật. Nguyên nhân là do các bị cáo tiếp thu những quan điểm sai trái về “dân chủ”, “nhân quyền” của các thế lực thù địch chống chủ nghĩa xã hội và sự nhìn nhận chủ quan về các hiện tượng tiêu cực xảy ra trong xã hội. Tại phiên xét xử phúc thẩm diễn ra ngày 11-5-2010, Lê Thăng Long tỏ rõ sự ăn năn, hối cải và nói: “Tôi biết ơn Đảng và Nhà nước đã nuôi dưỡng, giúp đỡ tôi trưởng thành. Tôi không bao giờ muốn xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tôi mong Hội đồng xét xử khoan hồng cho tôi sớm được trở về với gia đình”.
Còn nhiều trường hợp khác mà chúng tôi không thể dẫn giải hết trong bài viết này để cho thấy họ là những “tù nhân lương tâm” theo cách gọi của các thế lực thù địch, phản động hay là những người vi phạm pháp luật Việt Nam.
Vậy, phải chăng, chỉ có ở Việt Nam mới xử lý những người chống đối nhà nước? Trả lời câu hỏi này, chỉ cần một vài thao tác hết sức đơn giản thông qua công cụ tìm kiếm Google trên internet cũng cho ra hàng trăm nghìn kết quả. Đành rằng, mỗi nước tùy theo những quy định của pháp luật của nước mình để xử lý các hành vi vi phạm của công dân. Ví như, tại Singapore, các hành vi tuyên truyền kích động nhằm mục đích chống phá nhà nước, tung tin giả mạo, thao túng môi trường trực tuyến, gây ảnh hưởng đến lợi ích chung của cộng đồng, mức phạt lên tới 100.000SGD hoặc thời hạn tù 10 năm. Hoặc kể từ ngày 1-1-2018, các trang mạng xã hội ở Đức nếu để người dùng đăng tải những nội dung, thông điệp mang tính thù hận dân tộc, gây nguy hại đến an ninh quốc gia, lợi ích đất nước đều bị xử lý với nhiều hình thức tùy thuộc vào tính chất, mức độ… Thậm chí ở một số nước, chưa nói đến lợi ích chung của quốc gia-dân tộc, mà chỉ cần tung tin, giả mạo có tính sỉ nhục cá nhân cũng đã bị các cơ quan bảo vệ pháp luật xử lý một cách nghiêm khắc.
Dẫn lại một vài điều trên để nhằm khẳng định rằng: Ở bất kỳ quốc gia nào, những người vi phạm pháp luật cũng sẽ bị xử lý theo đúng các quy định của pháp luật. Đó là một thực tế mà chúng tôi tin rằng, những người lợi dụng vấn đề về dân chủ, nhân quyền nhằm mục đích chống phá Nhà nước Việt Nam hẳn không thể không biết?
Pháp luật của Nhà nước Việt Nam thể hiện ý chí của nhân dân Việt Nam
Những dẫn chứng nêu trên cho thấy, bất kỳ quốc gia nào cũng đều sử dụng công cụ thông qua hệ thống pháp luật để quản lý xã hội. Mọi hành vi của các tổ chức, cá nhân đều phải tuân thủ những quy định của pháp luật do nhà nước ban hành. Pháp luật của mỗi quốc gia tuy có chung mục đích là để quản lý xã hội, điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân, tổ chức, nhưng chắc chắn sẽ có những điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau, bởi phụ thuộc vào chế độ chính trị, kinh tế-xã hội và những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Vì vậy, không thể lấy pháp luật của nước này để áp dụng đối với công dân của nước kia và ngược lại. Hơn nữa, hệ thống pháp luật của Việt Nam được xây dựng trên cơ sở ý chí, nguyện vọng của nhân dân với mục tiêu cao nhất là bảo đảm mọi quyền lợi, lợi ích cơ bản, chính đáng của nhân dân. Hệ thống pháp luật Việt Nam không dành riêng để bảo vệ một người hoặc một nhóm người, mà duy trì mọi hoạt động chung của xã hội, là công cụ quan trọng để nhà nước bảo vệ trọn vẹn quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân trong xã hội.
Điều 15 Hiến pháp 2013 của Nhà nước Việt Nam đã hiến định: “1. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. 2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. 3. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. 4. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Căn cứ theo quy định nêu trên, mọi công dân đều có quyền của riêng cá nhân mình, nhưng quyền phải luôn gắn liền với nghĩa vụ. Pháp luật Việt Nam luôn bảo vệ quyền lợi chính đáng của mọi công dân, nhưng cũng luôn đòi hỏi mọi công dân phải tuân thủ các quy định của pháp luật. Thực hiện quyền công dân, nhưng không cho phép bất cứ người nào xâm phạm đến lợi ích quốc gia-dân tộc.
Nói vậy, chắc có người cho rằng, người viết chỉ dựa vào hệ thống pháp luật Việt Nam để chứng minh là thiếu khách quan. Vì thế, chúng tôi xin trích dẫn Khoản 2, Điều 29 “Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền năm 1948” nêu rõ: “Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra nhằm bảo đảm những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn”.
Nhìn rộng ra thế giới, một trong những nguyên lý đã được khẳng định: Không có bất kỳ quốc gia nào có thể tồn tại mà thiếu hệ thống pháp luật và luật pháp không thể phát huy hiệu lực của mình nếu không có sức mạnh của bộ máy quốc gia. Để quản lý xã hội, nhà nước phải dùng nhiều công cụ, nhiều biện pháp, nhưng luật pháp là công cụ cơ bản, quan trọng, thiết yếu nhất. Luật pháp và nhà nước luôn có quan hệ khăng khít với nhau. Khi luật pháp phản ánh đúng nguyện vọng, bảo vệ lợi ích chính đáng của dân tộc, của quần chúng nhân dân thì dù chế độ nhà nước nào cũng phải tôn trọng và tuân thủ. Theo đó, mọi hành vi đi ngược với lợi ích quốc gia-dân tộc không chỉ bị nhân dân phản đối, mà cần phải kiên quyết xử lý.
Một bộ máy nhà nước lành mạnh là một tổ chức trong đó các quyết sách phải được thực thi một cách nghiêm minh, nhất quán từ trên xuống dưới mà không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bất kỳ cá nhân nào trong xã hội. Luật pháp chính là những mắt xích giúp cho bộ máy nhà nước có thể hoạt động nhịp nhàng, đồng bộ, hiệu quả. Suy cho cùng, pháp luật cũng là để phục vụ người dân, đối với người dân pháp luật chính là lẽ phải, sự công bằng, là môi trường pháp lý bình đẳng giúp người dân yên tâm làm ăn, sinh sống.
Tinh thần thượng tôn pháp luật cùng với một hệ thống pháp luật hoàn thiện thống nhất sẽ là động cơ mạnh mẽ giúp bộ máy nhà nước vận hành trơn tru, thúc đẩy đất nước phát triển. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; nhà nước của dân, do dân và vì dân. Hệ thống pháp luật của Việt Nam là thể hiện ý chí, nguyện vọng của toàn dân Việt Nam. Vì vậy, việc tuân thủ pháp luật, thượng tôn pháp luật của mọi tổ chức, mọi công dân là vấn đề tất yếu. Đó cũng chính là cách để Nhà nước Việt Nam bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mọi công dân. Theo đó, xử lý những người vi phạm pháp luật cũng là lẽ bình thường, đâu phải là chuyện riêng của Việt Nam. Vì vậy, cần khẳng định rằng: Ở Việt Nam không có cái gọi là “tù nhân lương tâm” mà chỉ có những đối tượng vi phạm pháp luật, bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam.


THẮNG "GIẶC COVID-19" - MINH CHỨNG RÕ TÍNH ƯU VIỆT CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM



Đến thời điểm này, có thể coi cuộc chiến chống “giặc Covid-19” của Việt Nam đã giành thắng lợi. Ngay từ đầu, khi Covid-19 tràn qua biên giới, Việt Nam đã nhận biết và đánh giá đúng tác hại không thể lường trước nếu lơ là, mất cảnh giác, coi thường nó và đã xác định ngay chống Covid-19 như chống giặc.
Mà đã coi là giặc tức là phải đánh, phải tiêu diệt chứ không chỉ chống. Vì vậy, ngay từ đầu, cả hệ thống chính trị ở Việt Nam đã vào cuộc và tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh chiến đấu của “Bộ Tổng tư lệnh”. Chiến thuật đánh Covid-19 tuân thủ nguyên tắc của chiến dịch đánh giặc. Các hình thức chiến thuật vận dụng từ đánh nhỏ đến đánh lớn, từ bao vây, phục kích, đánh chặn đến dốc toàn lực lượng đánh một trận tổng lực để quyết giành thắng lợi và tiến tới thắng lợi hoàn toàn!
Trong khi Việt Nam đã giành thắng lợi cơ bản thì không ít quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đang đương đầu với đại dịch Covid-19. Nhiều nước trên thế giới đã ca ngợi thành công của Việt Nam, một đất nước tiềm lực kinh tế còn hạn chế nhưng đã không chịu khuất phục "giặc Covid-19", đã chiến đấu kiên cường và giành thắng lợi một cách ngoạn mục. Cho đến cuối tháng 5 vừa qua, khi Việt Nam đã là một trong những nước mở cửa sớm nhất để phục hồi nền kinh tế thì trên hệ thống truyền thông của nhiều nước vẫn không ít nhận xét, đánh giá về thành công của Việt Nam và cho rằng những gì Việt Nam làm được là bài học hết sức quý giá cho các nước; ngay từ đầu, Việt Nam đã tiến hành cách ly người về từ ngoài biên giới để đánh chặn Covid-19; cách phòng dịch sớm, chủ động phòng ngừa từ xa của Việt Nam là cách ít tốn kém nhất và đem lại kết quả tốt nhất… Chính vì vậy, thành công đáng nể nhất là Việt Nam đã bảo vệ được mạng sống người dân của mình hiệu quả nhất. Cũng từ thành công của Việt Nam, truyền thông nhiều nước, các chính trị gia, nhà kinh tế khẳng định Việt Nam sẽ là một trong số ít nước trên thế giới kinh tế tăng trưởng dương trong năm 2020.
Người viết bài này muốn điểm lại dư luận của nhiều nước về thành công của Việt Nam trước một đại dịch toàn cầu đang cướp đi sinh mạng của hàng trăm nghìn người trên khắp thế giới và đang làm cho nền kinh tế toàn cầu rơi vào khủng hoảng lớn… Nhắc lại để thấy rõ hơn ý nghĩa thành công của Việt Nam qua con mắt của bạn bè khắp thế giới.
Vậy mà khi thế giới đang hết lời khâm phục Việt Nam thì lại có những giọng điệu lạc lõng, những luận điệu xảo trá của những kẻ bất mãn chế độ, của các thế lực thù địch trong và ngoài nước nhằm xuyên tạc, bôi đen, bóp méo sự thật, muốn phủ nhận sạch trơn thành quả chống "giặc dịch" của chúng ta. Họ cho rằng Việt Nam chống được dịch Covid-19 là vì Việt Nam đàn áp nhân dân. Họ gọi những thôn, xã, phường cách ly là những "nhà tù" không hơn không kém. Việt Nam không minh bạch thông tin, bóp nghẹt tự do ngôn luận để che giấu tổn thất do dịch. Trắng trợn hơn, họ còn cao giọng nói rằng Việt Nam chống được dịch là vì thể chế “độc đảng”… Rõ ràng những luận điệu ấy còn nguy hại hơn cả dịch. Trớ trêu thay, trong số những người lên giọng phủ nhận ấy có người lại đang sống trên chính đất nước mình. Những ngày cả đất nước gồng mình chống chọi với "giặc Covid-19", những con người ấy cũng được chứng kiến và thụ hưởng thành quả chống dịch, được cả guồng máy xã hội bảo vệ mạng sống… Tôi không muốn liệt kê ra những giọng điệu lạc lõng, có ý đồ xuyên tạc bởi vì thực tế không thể khác, những giọng điệu ấy không đánh lừa được ai.
Cả đất nước đang bước vào trạng thái bình thường mới nhằm khôi phục lại nền kinh tế vừa trải qua một "cơn bão bệnh dịch". Thời điểm này cũng là lúc chúng ta cần nhìn thẳng vào thực tế để hiểu những gì chúng ta đã trải qua sau hơn 3 tháng cả nước gồng lưng chống "giặc Covid-19". Nhìn thẳng để tin dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, cả nước đã đồng sức, đồng lòng vượt qua cái chết bằng trí và lực của chính mình. Trong suốt hơn 3 tháng cam go chống "giặc dịch", Chính phủ hầu như từ 2 đến 3 ngày lại có một cuộc họp chỉ đạo; các thành viên Chính phủ tỏa khắp các tỉnh, thành phố chỉ đạo, kiểm tra, truyền đạt ý chí quyết tâm từ Trung ương xuống các địa phương để ổn định tình hình, kịp thời phát hiện và ngăn chặn dịch lây lan trong cộng đồng.
Ngày 30-3-2020, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ra lời kêu gọi đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài đoàn kết một lòng, thống nhất ý chí và hành động, thực hiện quyết liệt, hiệu quả những chủ trương của Đảng và Nhà nước, kiên quyết chiến thắng đại dịch Covid-19. Lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước như lời hịch hội tụ sức mạnh truyền thống dân tộc trước hiểm họa của "giặc dịch". Lời kêu gọi có đoạn: “… Với tinh thần coi sức khỏe và tính mạng của con người là trên hết, tôi kêu gọi toàn thể đồng bào, đồng chí và chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài hãy đoàn kết một lòng, thống nhất ý chí và hành động, thực hiện quyết liệt, hiệu quả những chủ trương của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Mỗi người dân là một chiến sĩ trên mặt trận phòng, chống dịch”.
Trên thực tế, ngay từ những ngày đầu, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; Ban chỉ đạo quốc gia về phòng, chống dịch Covid-19, các ngành, các cấp, các địa phương, cả hệ thống chính trị đã đoàn kết "chung lưng đấu cật", không quản ngại gian khổ, hy sinh, triển khai quyết liệt nhiều biện pháp đồng bộ để chống dịch. Thành công của những ngày đầu tiên thể hiện sức mạnh đoàn kết dân tộc và quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân ta.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, cả hệ thống chính trị từ Trung ương tới địa phương, các tổ chức chính trị, xã hội… đã sát cánh cùng nhau chống "giặc dịch". Trên tuyến đầu, các y sĩ, bác sĩ dốc sức, dốc lòng cứu người bệnh; quân đội, công an trở thành lực lượng nòng cốt giúp đồng bào trong nước, ngoài nước trở về, nhường cơm sẻ áo, nhường nhà, nhường doanh trại cho người cách ly… Trong đại dịch, không chỉ xuất hiện nhiều nhà từ thiện cùng góp công, góp sức, góp tiền của cho cuộc chiến chống dịch mà từ trong nhân dân cũng xuất hiện nhiều tấm gương, tấm lòng hướng về các y sĩ, bác sĩ nơi tuyến đầu chống dịch thật sự xúc động. Người có tiền giúp tiền, người có gạo giúp gạo, có người chỉ mớ rau, củ, quả cũng đem đến giúp đỡ người ở tuyến đầu… Những tấm lòng thơm thảo của đồng bào, đồng chí như tiếp thêm năng lượng cho các y sĩ, bác sĩ đang không quản ngại hy sinh.
Sự nỗ lực không biết mệt mỏi của ngành y tế, quân đội, công an và các ban, bộ, ngành Trung ương, sự vào cuộc kịp thời của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, cộng đồng doanh nghiệp… làm tăng thêm niềm tin trong nhân dân về thành công của cuộc chiến chống dịch. Chính từ niềm tin ấy, mọi quyết sách của Đảng, Nhà nước, Chính phủ được nhân dân đồng lòng, đồng sức ủng hộ.
Với tinh thần coi sức khỏe và tính mạng của con người là trên hết, trong hiểm nguy của đại dịch, quyết tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ là không để ai bị bỏ lại phía sau, không ai bị bỏ ngoài xã hội. Gói hỗ trợ 62.000 tỷ đồng của Chính phủ đã thể hiện điều đó. Các đối tượng chính sách, người nghèo, người không nơi nương tựa, người bán vé số; đối tượng kinh tế vỉa hè, người yếu thế đều có quyền thụ hưởng. Giữa cơn đại dịch Covid-19, ở Việt Nam, tất cả mọi người đều được bình đẳng chữa trị, trong nước cũng như nước ngoài về. Tính đến đầu tháng 6 này, trên thế giới đã có hơn 7 triệu người nhiễm Covid-19 và hơn 400.000 người tử vong nhưng Việt Nam không có ai tử vong. Nhiều người nước ngoài bị nhiễm Covid-19 đến Việt Nam được chữa trị khỏi, khi trở về nước đã không cầm lòng được, chỉ biết thốt ra lời: “Cảm ơn Việt Nam!”…
Một đất nước trong cơn hoạn nạn đã đoàn kết, đồng sức, đồng lòng xung quanh Đảng, Nhà nước, Chính phủ để chống dịch. Một đất nước trong cơn hoạn nạn không một ai bị bỏ lại phía sau, kể cả người nước ngoài và người Việt ở nước ngoài về. Một đất nước mà quyền cao nhất của con người là được sống, được bảo vệ mạng sống... đó không phải là giá trị cao nhất của nhân quyền ư?

BẢN CHẤT CỰC ĐOAN VÀ RẤT NGUY HIỂM CỦA BẤT TUÂN DÂN SỰ



Mạnh Bùi
"Bất tuân dân sự" hay còn gọi là "Dân sự bất hợp tác", nghĩa là cá nhân (hoặc thiểu số công dân) có thể không tuân thủ, không phục tùng nhà nước; thậm chí, có thể thực hành chống lại luật pháp của nhà nước nếu cảm thấy những điều luật đó không phù hợp với người dân, kể cả là với thiểu số, bằng phương pháp "cách mạng hòa bình". 
Nghe có thể có lý, nhưng thực chất đây là quan điểm cực đoan, "vô chính phủ", là một phuowng thức, thủ đoạn của cái gọi là "diễn biến hòa bình". Trong các cuộc "cách mạng ca hát", "cách mạng màu", "cách mạng đường phố" ở các nước Đông Âu và Liên Xô vào những năm cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21; "Mùa xuân Ả Rập" ở các nước Trung Đông và Bắc Phi đầu những năm 2010... đều có dấu ấn của phong trào "bất tuân dân sự". Khi được sử dụng trong tay chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế đã trở thành một thủ đoạn phản cách mạng nhằm chống phá, lật đổ chính quyền, thay đổi chế độ chính trị ở những nước tiến bộ, không cùng "quỹ đạo" với chúng.
Về bản chất, “bất tuân dân sự” là các hoạt động công khai từ chối tuân theo, hoặc vi phạm một cách cố ý và có ý thức đối với một số đạo luật  nhất định nhằm cản trở quá trình thực thi chính sách, luật pháp của nhà nước; là hình thức phản kháng bất bạo động, gây áp lực buộc nhà nước phải thay đổi chính sách, luật pháp, thậm chí lật đổ chính quyền; bản chất là hành vi vi phạm pháp luật.
“Bất tuân dân sự" là các hoạt động công khai từ chối tuân theo, hoặc vi phạm một cách cố ý và có ý thức đối với một số quy định pháp luật nhất định của nhà nước. Điều này khác hẳn với nguyên tắc phổ biến mà hầu hết các nhà nước pháp quyền trên thế giới đều thực hiện, đó là: Tiểu số phục tùng đa số; lợi ích riêng phải nằm trong lợi ích chung; lợi ích cá nhân phải phục tùng lợi ích cộng đồng, xã hội, dân tộc. Vì vậy, "bất tuân dân sự" về cơ bản thể hiện tư tưởng cực đoan, "vô chính phủ", hầu như không được nhà nước pháp quyền nào chấp nhận (ngoại trừ những thế lực muốn lợi dụng nó để chống lại nhà nước pháp quyền).
"Bất tuân dân sự" hình thức phản kháng, không tuân thủ, không phục tùng, không hợp tác cơ bản là ôn hòa, bất bạo động. Tuy nhiên, không phải tất cả hình thức đều là ôn hòa, bất bạo động. Thậm chí, theo những người chủ trương "bất tuân dân sự", hành động vũ trang của kẻ yếu chống lại kẻ mạnh hơn có vũ trang thì được coi là bất bạo động. Điều này thể hiện sự mập mờ về tính chất của các hình thức đấu tranh gọi là bất bạo động; hay nói cách khác, ranh giới giữa bất bạo động và bạo động là khá mong manh, có thể chuyển hóa cho nhau rất nhanh chóng. Thực chất, đây là cách ngụy tạo để biện giải, mở đường cho đấu tranh bạo động khi bất bạo động đã tích lũy đủ điều kiện hay "châm ngòi" thành công.
Hành vi phản kháng, không tuân thủ, không phục tùng những điều luật đã được ban hành; được thực hiện thông qua hình thức bất bạo động thể hiện sự coi thường kỷ cương, pháp luật, trái với các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền trong một xã hội văn minh. Hơn nữa, khi hướng tới mục tiêu chính trị, "bất tuân dân sự" là bước khởi đầu của một cuộc "cách mạng mềm" nhằm thay đổi chế độ chính trị đang tồn tại hoặc lực lượng chính trị đang nắm quyền. Vì vậy, trong hầu hết các vụ việc, về bản chất, đây là hành vi vi phạm pháp luật.

ĐẨY LÙI NHỮNG BIẾN TƯỚNG CỦA “BẤT TUÂN DÂN SỰ” Ở VIỆT NAM



Mạnh Bùi
Bất tuân dân sự là phản động, cực đoan, vi phạm pháp luật. Ở Việt Nam, không cho phép những hành vi có tính "bất tuân dân sự". Vậy nên, những hành vi mang bóng dáng, biến tướng mới của "bất tuân dân sự", như: "Bất tuân cưỡng chế" của một số đối tượng khi giải phóng mặt bằng ở Bắc Giang, Hải Phòng, Hà Nội, Đắc Nông, Gia Lai...; "bất tuân" quy định về thành lập hội (nhóm), đòi lập các tổ chức xã hội dân sự (thực chất là phản động trá hình) như "Hội anh em dân chủ", "Hội phụ nữ nhân quyền Việt Nam", "Hội cựu tù nhân lương tâm Việt Nam", "Hội văn đoàn độc lập Việt Nam", "Hội nhà báo độc lập Việt Nam", "Mạng lưới Blogger Việt Nam"...; “bất tuân” để phản đối Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội (năm 2014), Luật An ninh mạng (năm 2018)… cần thiết phải bị lên án, bị loại bỏ.
Trách nhiệm chung của xã hội, đặc biệt của cán bộ, đảng viên trong phòng chống những biến tướng mới của “bất tuân dân sự” là:
1. Tích cực tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn hóa "thượng tôn pháp luật" cho mọi công dân. Trong đó, cần chú trọng nâng cao trình độ giác ngộ, niềm tin vào tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật đối với mọi tầng lớp nhân dân. Đồng thời, tích cực đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục; làm cho mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước đến được với người dân một cách cụ thể, gần gũi, dễ hiểu, dễ tuân thủ, chấp hành. Tăng cường đấu tranh vạch rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn sử dụng "bất tuân dân sự" để chống phá Việt Nam của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
2. Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước; nâng cao chất lượng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính của cơ quan hành chính các cấp, nhất là ở cơ sở. Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu quả, trong sạch, vững mạnh... Bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức; đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm của cán bộ các cấp, củng cố niềm tin của người dân đối với Đảng, Nhà nước…
3. Các cơ quan, đơn vị, địa phương tiến hành khảo sát kỹ lưỡng thực trạng "bất tuân dân sự" trên địa bàn quản lý; xây dựng kế hoạch phòng, chống chặt chẽ; bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng xử lý. Phối hợp chặt chẽ giữa công an, quân đội, các lực lượng chức năng và cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp trong việc bám nắm cơ sở, nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của bọn phản động trong việc kích động, lôi kéo nhân dân thực hiện "bất tuân dân sự".


NHẬN BIẾT THỦ ĐOẠN MỚI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH VỚI CÔNG NHÂN



                                      An Nhiên
Trong tình hình mới, các thế lực thù địch vẫn luôn câu kết chặt chẽ với nhau để thúc đẩy từ “diễn biến hòa bình” sang “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta, chống phá Đảng, Nhà nước và giai cấp công nhân Việt Nam với cấp độ và cường độ ngày càng quyết liệt, thâm hiểm hơn. Song mọi mưu mô xảo quyệt và thủ đoạn thâm hiểm của các thế lực thù địch có đạt được hay không, điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào bản lĩnh, trí tuệ và kinh nghiệm lãnh đạo của mỗi tổ chức đảng, tổ công đoàn và giai cấp công nhân Việt Nam. Do vậy, để nhận diện thủ đoạn mới của các thế lực, thù địch hiện nay đối với cách mạng Việt Nam nói chung và giai cấp công nhân hiện nay có ý nghĩa rất cấp bách. Thủ đoạn của chúng hiện nay:
Một là,  Lợi dụng các hoạt động đình công của công nhân để tuyên truyền xuyên tạc, lôi kéo, kích động tập hợp lực lượng phục vụ cho âm mưu chống Đảng, chống Nhà nước Việt Nam.
Hai là,  Lợi dụng các tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp còn thiếu và yếu, để tích cực kêu gọi, vận động thành lập "Công đoàn độc lập" làm "người đại diện quyền lợi của công nhân ” để nhằm lãnh đạo lực lượng công nhân.
Ba là, Dùng mọi thủ đoạn đẩy mục tiêu các cuộc đình công của công nhân từ "quyền lợi dân sinh" sang ”chính trị". Biến các cuộc đình công mang tính tự phát sang các cuộc đình công có tổ chức do các thế lực phản động thù địch lãnh đạo chỉ đạo chống đối chính quyền và gây mất an ninh chính trị…
Về lực lượng và phương tiện chống phá: dùng Đài phát thanh, người Việt Nam di tản, sinh sống ở nước ngoài; sử dụng lực lượng trong nước: binh sĩ, cảnh sát nhân viên làm việc trong chính quyền ngụy trước đây; sử dụng phần tử bất mãn, cơ hội thoái hóa, tham nhũng. Sử dụng đài, sách báo, tài liệu, mạng internet tuyên truyền bôi nhọ các lãnh tụ của Đảng, xuyên tạc vai trò công đoàn cách mạng...
Về thời gian: chúng tận dụng tối đa thời gian để chống phá, không phân biệt ngày đêm, đặc biệt lợi dụng thời điểm đất nước có những sự kiện trọng đại, ngày lễ, ngày nghỉ...
Về không gian: chú trọng tập trung vào các khu công nghiệp lớn, từng bước phát triển chân rết ra các nơi. Chúng đặc biệt chú ý tới những địa điểm, nhà máy có "vấn đề" để khoét sâu các mâu thuẫn, tạo ra những điểm đen là ngòi nổ cho các vụ biểu tình lớn trên phạm vi khu vực và cả nước.
Trong bối cảnh đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ, đời sống của công nhân còn gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, các thế lực phản động và thù địch vẫn âm mưu lợi dụng tình hình này để kích động, lôi kéo công nhân vào các hoạt động nhằm chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, làm cho giai cấp công nhân Việt Nam tự đánh mất sứ mệnh lịch sử của mình.
Trên đây là một số thủ đoạn âm mưu của các thế lực thù địch dùng chiêu bài “DBHB” đối với giai cấp công nhân Việt Nam để tiến hành các hoạt động phá hoại sự nghiệp phát triển của đất nước. Vì vậy, đối với mỗi người dân đất Việt, đặc biệt là giai cấp công nhân luôn cảnh giác cao và nhận diện khi tham gia vào không gian mạng. Đồng thời, chủ động và tích cực đấu tranh lật tẩy những mưu đồ đen tối, những kẻ đeo mặt nạ trá hình trước ánh sáng công lý và pháp luật.

NHẬN RÕ ÂM MƯU BÀNH TRƯỚNG VÀ NHỮNG PHÁT NGÔN “NGỤY BIỆN ” !



                                      An Nhiên
Trong thời gian vừa qua, với tham vọng bá quyền của mình, Trung Quốc luôn tìm mọi cách để lấn chiếm chủ quyền biển đảo của các quốc gia khác trên biển Đông, bất chấp luật pháp quốc tế. Trung Quốc tự ý đưa ra đường lưỡi bò, bồi đắp các đảo nhân tạo, đưa quân chiếm đóng các đảo thuộc chủ quyền của quốc gia khác. Ngoài ra, Trung Quốc còn đưa tàu vũ trang của mình đi tuần tra trái phép trên biển Đông, đâm chìm tàu đánh cá và bắt bớ ngư dân của các quốc gia láng giềng với lí do “xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc. Đáng nói là, sau những sự việc trên, Trung Quốc lại luôn thể hiện thái độ vô tội, giả nhân, giả nghĩa và lớn tiếng vu cáo các quốc gia khác xâm phạm chủ quyền biển đảo.
Mới đây, sau vụ việc tàu hải cảnh của quân đội Trung Quốc đâm chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam, tờ Hoàn Cầu thời báo (tờ báo trực thuộc Nhân dân Nhật báo, cơ quan ngôn luận của ĐCS Trung Quốc) mới đây đăng bài viết “Tại sao Việt Nam xâm phạm Biển Đông vào thời điểm này”. Bài viết này đưa ra những luận điệu rất sai lệch liên quan đến tranh chấp chủ quyền biển đảo, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc theo hướng Việt Nam liên kết với Mỹ nhằm dồn Trung Quốc vào thế bất lợi. Tờ báo này nói rằng “Chính phủ Việt Nam không đề cập gì đến tám ngư dân đã được cứu mà không có bất kỳ thương tích nào từ tàu Trung Quốc mà họ đâm phải” mà chỉ nhăm nhăm đổ lỗi cho Trung Quốc rồi thì là “Việt Nam đã cố gắng đánh bắt cá ở vùng biển nước ngoài và sau đó đánh lừa công chúng bằng những tuyên bố sai trái và các cáo buộc chống lại Trung Quốc”, cố tình bắt tay với Mỹ để gây khó khăn cho Trung Quốc. Chẳng nhẽ, chúng tôi phải cảm ơn những kẻ mà mới phút trước đâm chìm tàu của chúng tôi, rồi giả vờ lương thiện cứu vớt ngư dân bị chìm tàu ư, thật hoang đường làm sao.
Không dừng lại ở đó, tờ này còn cho rằng “Khi Trung Quốc đang chiến đấu gian khổ với COVID-19, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên ban hành lệnh phong tỏa Trung Quốc và đình chỉ du lịch hàng không trong và ngoài nước, và di tản các công dân Việt Nam khỏi Trung Quốc, những hành động phù hợp với các động thái của Hoa Kỳ”. Thực tế, đâu chỉ Việt Nam đóng đường biên giới với Trung Quốc mà tất cả các quốc gia láng giềng đều làm như thế, trước tình trạng dịch bệnh Covid-19 lan nhanh kinh hoàng, và chưa hề có thuốc đặc trị thì đó là biện pháp tự vệ của mỗi quốc gia. Việt Nam có 1281 km biên giới trên đất liền với Trung Quốc, hoạt động giao thương, du lịch diễn ra liên tục; trong lúc bùng phát dịch, nếu Việt Nam không kịp thời phong tỏa biên giới với Trung Quốc, liệu giờ đây, Việt Nam có khống chế được dịch hay không., đó là “phù hợp với các động thái của Mỹ”.
Nực cười hơn, Trung Quốc cho rằng vụ việc tàu cá Việt Nam “tự đâm” vào tàu hải cảnh vừa qua bởi lẽ “Hà Nội có ý định chuyển sự chú ý khỏi áp lực trong nước gần đây và sự bất lực trong việc xử lý đại dịch sang căng thẳng trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc”. Lịch sử đã chứng minh điều ngược lại, bởi lẽ Trung Quốc mới là nước gây ra tranh chấp biên giới, lãnh thổ để thu hút sự chú ý của dư luận, tiện đường cho những mưu tính của giới cầm quyền. Năm 1979, khi mới lên cầm quyền, trước áp lực cải cách trong nước, đồng thời để tiện đường “dọn dẹp” lại nội bộ trong Đảng Cộng sản, Đặng Tiểu Bình đã phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam. Hay năm 2019, để giảm bớt sức nóng của các cuộc biểu tình ở Hồng Kong, Trung Quốc đã cố tình gây ra tranh chấp chủ quyền trên biển Đông, thông qua đưa tàu thăm dò Hải Dương 8 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.


BÁO CHÍ, TRUYỀN THÔNG VÀ NHIỆM VỤ BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH, PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH



Báo chí có trách nhiệm góp phần làm cho thế giới quan Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, động viên toàn Đảng, toàn dân vượt qua khó khăn, thử thách, năng động, sáng tạo trong thực hiện Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, giữ vững ổn định chính trị, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhân dân ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách để đạt những thành tựu có ý nghĩa lịch sử không thể phủ nhận. Trong quá trình đó, chúng ta luôn phải đối mặt với sự chống phá của các thế lực bên ngoài cùng với nguy cơ suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị không ngừng hoạt động âm mưu “diễn biến hòa bình”, thường xuyên phát tán các luận điệu sai trái, thù địch, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng trên mọi phương tiện báo chí, truyền thông Internet, mạng xã hội, không ngừng tìm cách thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hòng làm tan rã nội bộ.
NHỮNG ĐÓNG GÓP NỔI BẬT CỦA BÁO CHÍ, TRUYỀN THÔNG TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH
Thứ nhất, trong thời kỳ đổi mới, thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đổi mới tư duy quản lý, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tất yếu nảy sinh nhiều vấn đề mới, phức tạp, đồng thời bộc lộ những yếu kém, sơ hở của công tác lãnh đạo, quản lý, nhất là quản lý nhà nước. Các phương tiện thông tin đại chúng đã đi sát thực tế, thông tin kịp thời và phân tích sâu sắc các sự kiện mới; phát hiện và phản ánh trung thực những điển hình tiên tiến, nhiệt tình ủng hộ, cổ vũ những nhân tố mới, dũng cảm đấu tranh chống những hiện tượng lạc hậu, trì trệ và mọi biểu hiện tiêu cực khác; đề cập và chỉ ra phương hướng giải quyết những vấn đề thiết thực mà xã hội quan tâm; xây dựng dư luận xã hội lành mạnh, động viên quần chúng tích cực hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Dấu ấn đáng nhớ trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới là báo chí, truyền thông đã đi đầu mạnh mẽ thực hiện “Những việc cần làm ngay” do cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh phát động, hầu hết các báo, đài, tạp chí đều mở chuyên mục Hưởng ứng “Những việc cần làm ngay”, khơi dậy đề cao cái tích cực, cái tốt, cái tiến bộ, đấu tranh sắc bén với cái tiêu cực, cái ác, cái xấu, cái trì trệ. Nhiều vụ việc tiêu cực, lãng phí, tham nhũng đã bị báo chí phát hiện, phanh phui và được pháp luật xử lý nghiêm minh, được nhân dân đồng tình cao.
Thứ hai, khi mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, tác động tiêu cực đến cách mạng nước ta, tác động mạnh mẽ, trực tiếp đến tâm trạng, tư tưởng các tầng lớp nhân dân. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hoang mang, lo lắng; một bộ phận khác hoài nghi, dao động, buông xuôi; một bộ phận nhỏ trở cờ, cơ hội chính trị, nhìn vào con đường khác. Các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Đảng ta vẫn vững vàng, kiên định con đường cách mạng đã chọn, lựa chọn một trong những mũi nhọn nòng cốt cách mạng là báo chí, truyền thông. Báo chí có trách nhiệm góp phần làm cho thế giới quan Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, động viên toàn Đảng, toàn dân vượt qua khó khăn, thử thách, năng động, sáng tạo trong thực hiện Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, giữ vững ổn định chính trị, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa(1). Lúc này, hàng loạt cơ quan báo chí, truyền thông đã chủ động, tích cực đổi mới nội dung, thông tin, tuyên truyền, động viên cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân vững vàng trước cam go, thử thách, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định lập trường chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bám sát nhiệm vụ công tác tư tưởng, tích cực tuyên truyền, cổ vũ công cuộc đổi mới. Coi trọng đúng mức việc phát hiện, biểu dương các nhân tố mới, điển hình tiên tiến; tích cực đấu tranh, góp phần ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, các tiêu cực và tệ nạn xã hội; phản bác có hiệu quả những thông tin, quan điểm sai trái, phản động, thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng…
Thứ ba, trong giai đoạn hiện nay, với sự ra đời của Luật Báo chí 2016, Nghị quyết số 35 và những văn bản nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan lĩnh vực báo chí, truyền thông và công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, sự tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của các cơ quan của Đảng, Nhà nước, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đã được đẩy lên một tầm mới với sự vào cuộc của các cấp các ngành, đến nay đã khẳng định đạt được những kết quả đồng bộ, cả trên lĩnh vực công tác tuyên truyền, đấu tranh pháp lý, đàm phán ngoại giao với doanh nghiệp cung cấp nền tảng thông tin số, công nghệ kỹ thuật, quản lý kinh tế, xử lý hành chính, hình sự. Từ năm 2019 đến nay, báo chí, truyền thông tiếp tục khẳng định vị trí đi đầu trong tuyên truyền, cổ vũ nhiệm vụ chính trị, những tập thể, cá nhân điển hình, người tốt, việc tốt, phát hiện và đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Dấu ấn nổi bật thể hiện rõ vai trò tiên phong trên mặt trận tư tưởng của báo chí, truyền thông là sự vào cuộc tích cực thực hiện các tuyến tin bài chuyên sâu bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đi đầu đấu tranh trực diện phản bác các quan điểm sai trái, thù địch một cách sắc bén, hiệu lực, hiệu quả. Tiêu biểu như Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Báo Nhân dân, Thông tấn xã Việt Nam, Báo Quân đội nhân dân, Báo Công an nhân dân, Tạp chí Tuyên giáo, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam và nhiều cơ quan báo chí ngành, địa phương… kịp thời tổ chức các chuyên mục, tin bài đấu tranh vạch rõ các âm mưu, luận điệu sai trái của thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, giúp bạn đọc nhận diện hành vi đi ngược quá trình phát triển đất nước; vạch trần thủ đoạn đen tối của các tổ chức, cá nhân chống phá. Từ giữa năm 2019, Đài truyền hình Việt Nam thực hiện chuyên mục “Đối diện” thu hút sự quan tâm của dư luận các tầng lớp người xem, với góc nhìn thẳng thắn về các vấn đề thiết thực trên mọi lĩnh vực của đời sống để nhận diện, phân tích, đối mặt và đề xuất, gợi mở những giải pháp giải quyết vấn đề đặt ra. Gần đây nhất, chương trình “Đối diện” tháng 5-2020 nhận diện âm mưu “diễn biến hòa bình” và vấn đề cách mạng màu đã vạch trần âm mưu lợi dụng một số vụ việc phức tạp, sơ hở, yếu kém trong quản lý nhà nước của một số cơ quan, địa phương để phát tán thông tin kích động trên mạng xã hội, tụ tập đông người gây rối, chống phá theo kịch bản “cách mạng màu” từng xảy ra ở một số nước, từ đó cảnh tỉnh và phòng ngừa…
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LĨNH VỰC BÁO CHÍ, TRUYỀN THÔNG THỰC HIỆN NHIỆM VỤ BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH PHẢN BÁC THÔNG TIN, QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRONG TÌNH HÌNH MỚI.
Thứ nhất, các thế lực thù địch, phản động không ngừng thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gia tăng lợi dụng các chiêu bài “tự do ngôn luận”, “tự do tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá Đảng, Nhà nước. Chúng triệt để tận dụng báo chí, Internet, mạng xã hội, xây dựng các trang web, đặt máy chủ ở nước ngoài, đăng tải thông tin xuyên tạc sự thật, quan điểm sai trái, thù địch. Hàng nghìn tài liệu, sản phẩm xấu độc, phản động được tuồn vào trong nước hàng ngày tác động xấu đến đạo đức, lối sống, tư tưởng, tâm hồn của một bộ phận nhân dân, nhất là giới trẻ.
 Thứ hai, bên cạnh những kết quả tích cực, còn có một số cơ quan báo chí, truyền thông, một bộ phận người làm báo đang bỏ trống trận địa hoặc tạo thuận lợi cho thông tin xấu độc, sai trái xâm chiếm “thị phần”. Trên truyền thông xã hội, việc bắt gặp thông tin sai lệch không còn là “của hiếm”, thậm chí có cả tin đồn và tin giả (fake news) khiến người đọc hoang mang. Nhưng điều cần quan tâm hơn là những nội dung thiếu chính xác, đu bám trào lưu phê phán thiếu cơ sở, thiếu tinh thần xây dựng ngay trên một số trang báo chính thống, hoặc do những nhà báo ít nhiều có ảnh hưởng đăng tải trên mạng xã hội. Gần đây nhất, liên quan tình hình dịch COVID-19 xuất hiện một số thông tin sai lệch trên cơ quan báo chí chính thống gây hoang mang dư luận (dẫn tin của báo chí nước ngoài thiếu kiểm chứng “người dân Vũ Hán thà chết ở nhà còn hơn đi cách ly”, “một tài xế nghi dương tính với virus corona tại Hà Nội”...). Những thông tin sơ hở trên báo chí, truyền thông đã làm “mồi béo” cho các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị khuếch đại, xuyên tạc chống phá.
Thứ ba, sức thuyết phục chưa cao của các tài liệu, bài viết đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch. Theo kết quả điều tra, chỉ có khoảng 1/3 số người được hỏi cho rằng các tài liệu, bài viết đấu tranh phản bác là có sức thuyết phục cao, đa số đánh giá “sức thuyết phục có mức độ” (54%). Kết quả điều tra xã hội học ghi nhận có nhiều nguyên nhân khiến những bài viết, bình luận phản bác thông tin, quan điểm sai trái có sức thuyết phục chưa cao. Trong đó nguyên nhân “Thiếu thông tin về những vấn đề phức tạp, tế nhị, nhạy cảm” là có tỷ lệ đa số ghi nhận (63%), các nguyên nhân được đề cập khác (từ 25- 33% ghi nhận) là do “Lý lẽ xơ cứng, giáo điều, bảo thủ, xa rời thực tiễn”...
 Thứ tư, báo cáo khảo sát điều tra cho thấy, điều đáng quan ngại là những loại quan điểm sai trái dễ khiến công chúng mất cảnh giác, sẵn sàng tiếp nhận. Theo các số liệu điều tra ghi nhận, những loại quan điểm sai trái dễ khiến công chúng mất cảnh giác, sẵn sàng tiếp nhận là: (1) “Quan điểm sai trái dựa trên thực trạng tham nhũng, sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên” (67%). (2) “Quan điểm sai trái dựa trên những sự kiện, chứng cứ có thật” (56%). (3) “Quan điểm sai trái dựa trên sự lo lắng, bức xúc của nhân dân trên lĩnh vực bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc” (55%). Điều này xuất phát từ thực tế có những chính sách của cơ quan chức năng chưa hoàn thiện, còn bất cập, một số cán bộ, đảng viên mắc sai phạm nghiêm trọng, có những doanh nghiệp và cá nhân lợi dụng kẽ hở của luật pháp để kiếm lợi bất minh.
Thứ năm, trong khi có nhiều chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước đưa Việt Nam trở thành một trong những hình mẫu về phát triển, được nhiều lãnh đạo, giới doanh nhân và chuyên gia nước ngoài khen ngợi, thì không ít nhà báo, người dân trong nước thường có cái nhìn tiêu cực. Thực trạng này một phần chính là do cách tuyên truyền thông tin của báo chí, truyền thông. Chưa cần phải chịu sự tác động của các lực lượng thù địch, mà chính một bộ phận trong đội ngũ những người làm báo với thái độ nghiệp vụ thiếu chuyên nghiệp, vì lợi ích riêng, hoặc quy chụp vì thiếu thông tin, đã phần nào gây ảnh hưởng tâm lý tiêu cực to lớn đến đông đảo công chúng, làm giảm niềm tin của người dân với Đảng, Nhà nước, chế độ…
Thứ sáu, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý nhà nước có những hạn chế, lúng túng nhất định. Tình trạng cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo “cầm tay chỉ việc”; chưa quan tâm đúng mức đến công tác dự báo tình huống để chủ động chỉ đạo, định hướng thông tin, tuyên truyền; chậm cung cấp thông tin cho báo chí, truyền thông; cơ quan tham mưu chậm trễ trong việc tham mưu những chủ trương lớn liên quan đến hoạt động báo chí, truyền thông trong điều kiện mới. Cơ quan chủ quản buông lỏng cơ quan báo chí, truyền thông trực thuộc; các cấp ủy đảng và tổ chức đảng tại cơ quan báo chí, truyền thông chưa làm tốt trách nhiệm và không thể hiện đúng tầm vai trò trong các cơ quan báo chí, truyền thông vốn được coi là các cơ quan chính trị; công tác kiểm tra chưa được thực hiện thường xuyên; có lúc chưa xử lý tốt mối quan hệ giữa việc thực hiện định hướng tuyên truyền với đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng... Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy bài học kinh nghiệm là, trong bất kể hoàn cảnh và tình thế nào, Đảng và Nhân dân luôn kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng, luôn cảnh giác và đấu tranh kiên quyết với mọi biểu hiện cơ hội chính trị, sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận về con đường phát triển hợp quy luật của đất nước là cơ sở vững chắc vượt qua mọi thách thức, khó khăn để đi đến thắng lợi.

CHỐNG CHỦ NGHĨA CƠ HỘI ĐỂ XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH



 Để xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh và bảo vệ nền tảng tư tưởng của một Đảng mác xít chân chính, giai cấp vô sản và chính Đảng kiểu mới không chỉ phải đấu tranh chống những tư tưởng tư sản phản động mà còn phải đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội; coi đó là một trong những nhiệm vụ vừa cấp bách vừa thường xuyên của mỗi tổ chức Đảng và từng cán bộ, đảng viên.
CHỦ NGHĨA CƠ HỘI PHÁ VỠ KHỐI ĐOÀN KẾT, THỐNG NHẤT TRONG ĐẢNG
Theo V.I.Lênin, chủ nghĩa cơ hội là chủ nghĩa của những người chủ trương và hành động vô nguyên tắc; luôn hy sinh cái cơ bản để đạt tới lợi ích cục bộ, trước mắt và sẵn sàng thỏa hiệp chính trị. Và những người cơ hội chủ nghĩa là những người không kiên quyết, vô nguyên tắc, không rõ ràng, lờ mờ, quanh co, do dự, thiếu kiên định, dao động, lừng chừng về chính trị. Với những người này, thì họ “dễ dàng thừa nhận mọi công thức và rời bỏ mọi công thức cũng dễ dàng như thế”. Vốn bắt nguồn từ bản chất của chủ nghĩa cơ hội, những người sa vào chủ nghĩa cơ hội, những người cơ hội chủ nghĩa bao giờ cũng tránh đặt các vấn đề một cách rõ ràng, dứt khoát, tìm cách thoả hiệp quan điểm này với quan điểm kia, để đứng trung dung giữa những quan điểm đối chọi nhau, do đó, đối với họ, chỉ luôn là những lời nói bóng gió và giả thiết trống rỗng; là lời nói không đi đôi với việc làm, “cái thói nói cách mạng suông mà không ngượng miệng”.
Thực tế là, trong Đảng vẫn còn đó không ít những thủ đoạn, biểu hiện của những kẻ cơ hội chủ nghĩa - những người mang danh mácxít song lại sẵn sàng hy sinh lợi ích lâu dài, bền vững của giai cấp vô sản để mưu lợi cho sự “hào nhoáng bề ngoài và chốc lát của mình”, sẵn sàng thoả hiệp với mọi cái xấu để đạt được lợi ích cá nhân, tìm cách thích nghi với mọi phía và mong được các phái chấp nhận, dung nạp, tạo thành bè phái và cánh hẩu. Thực tế cũng cho thấy là, nơi nào có quyền lực, có nhiều lợi ích thì chủ nghĩa cơ hội càng dễ phát sinh; đồng thời ở nơi đó, cũng không thể thiếu những kẻ cơ hội chủ nghĩa - những kẻ “lập lờ”, “ẩn mình” dưới những lời nói hay nhưng trong việc làm thì vô nguyên tắc, chỉ chăm chăm lo lợi ích của chính mình mà không màng đến lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Vì thế, để bảo vệ Đảng, V.I.Lênin kiên quyết đấu tranh với những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái đó và phê phán kịch liệt sách lược cơ hội chủ nghĩa của những người kém tính Đảng, kém ý thức tổ chức, mang nặng chủ nghĩa cá nhân, những người làm chia rẽ sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong Đảng, chia rẽ nội bộ Đảng, phá hoại sức mạnh khối đoàn kết của Đảng.
Chủ nghĩa cơ hội gồm khuynh hướng cơ hội tả khuynh, hữu khuynh, chủ nghĩa cải lương và chủ nghĩa biệt phái. Nhìn bề ngoài, chúng có vẻ đối lập nhau, song đều giống nhau là những trào lưu tư tưởng, chính trị đối lập, thù địch với chủ nghĩa Mác, với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Bởi rằng, về mặt lý luận và thực tiễn, những người theo chủ nghĩa cơ hội luôn bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản và chống lại giai cấp vô sản, bằng cách và tìm cách sửa chữa chủ nghĩa Mác, lấy từ chủ nghĩa Mác những điều mà giai cấp tư sản có thể chấp nhận được, nhưng vứt bỏ nguyên lý cách mạng, linh hồn của chủ nghĩa Mác. Do vậy, V.I.Lênin khẳng định, Đảng phải đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội và coi đó là quy luật phát triển của Đảng; đồng thời, nhấn mạnh rằng: “Khi nói đến đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội thì không bao giờ được quên đặc điểm của tất cả chủ nghĩa cơ hội hiện đại trong mọi lĩnh vực là: nó mang tính chất không rõ ràng, lờ mờ và không thể nào hiểu nổi được. Do bản chất của mình, phái cơ hội chủ nghĩa bao giờ cũng tránh đặt các vấn đề một cách rõ ràng và dứt khoát; bao giờ cũng tìm con đường trung dung, quanh co uốn khúc như con rắn nước giữa hai quan điểm đối chọi nhau và "tìm cách “thoả thuận” với cả quan điểm này lẫn quan điểm kia, vì nó quy những sự bất đồng ý kiến của mình lại thành những điều sửa đổi nhỏ nhặt, những sự hoài nghi, những nguyện vọng thành tâm và vô hại, v.v. và v.v..”[1].
V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích Nga đã tiến hành đấu tranh triệt để trong nội bộ phong trào công nhân và ngay trong hàng ngũ của Đảng để chống chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh, chủ nghĩa giáo điều tả khuynh và chủ nghĩa bè phái, vì “bọn này dĩ nhiên là kẻ thù chính của chủ nghĩa bônsêvích trong nội bộ phong trào công nhân. Nó lại còn là kẻ thù chính trên phạm vi quốc tế nữa”[2]. Đồng thời, đấu tranh quyết liệt với bọn Tờrốtkit trên tinh thần: “Cuộc đấu tranh ấy phải được tiến hành thẳng tay, và nhất định phải đẩy, như chúng ta đã đẩy, cuộc đấu tranh ấy tới chỗ làm cho tất cả các thủ lĩnh bất trị của chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa xã hội - sôvanh phải hoàn toàn bị nhục nhã và bị tống cổ ra khỏi các công đoàn”[3]. Có một thực tế không thể phủ nhận là, chủ nghĩa cơ hội hiện luôn song hành cùng với phong trào cộng sản, vì thế, V.I.Lênin nhấn mạnh không chỉ Đảng Bônsêvích Nga mà nếu các Đảng Cộng sản khác mà lơ là, mất cảnh giác và không chủ động, thường xuyên tiến hành cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội thì không chỉ nguy hiểm, cực kỳ nguy hiểm mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của phong trào cộng sản, đến vai trò lãnh đạo của mỗi Đảng Cộng sản và vận mệnh của mỗi quốc gia, dân tộc.
Một trong những nghĩa vụ thiêng liêng của những người mácxít chính là bảo vệ lý luận của chủ nghĩa Mác. Vì thế, theo V.I.Lênin, mỗi Đảng cộng sản, mỗi người cộng sản phải chủ động đấu tranh quyết liệt chống chủ nghĩa cơ hội để giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng. Muốn giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh này, mỗi Đảng phải có phương pháp đấu tranh phù hợp, đúng mức trên cơ sở đi sâu nghiên cứu thực tiễn, hiểu rõ sự tình với điều kiện, hoàn cảnh của nước mình.
Để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và phát triển, theo V.I.Lênin, phải thường xuyên liên tục, không được lơi là cuộc đấu tranh chống những kẻ cơ hội chính trị - những kẻ cái gì cũng cho là đúng, cũng tán thưởng, không có quan điểm chính trị rõ ràng, luôn ngả nghiêng, dao động, không kiên định nguyên tắc dẫn đến gây bè cánh trong Đảng; những kẻ sẵn sàng quỳ gối, uốn lưỡi cho vừa lòng và phù hợp với quan điểm của cấp trên và quần chúng, hòng tăng phiếu ủng hộ trong các dịp bầu cử, nhất là luôn “hy sinh lợi ích căn bản của quần chúng cho lợi ích tạm thời của một số hết sức ít công nhân, nói cách khác tức là sự liên minh giữa một bộ phận công nhân với giai cấp tư sản để chống lại quần chúng vô sản”[4]. Đồng thời, phải chủ động phòng ngừa và đấu tranh chống những phần tử cơ hội chính trị - những kẻ luôn biểu hiện, thể hiện bản thân rất vững vàng về lập trường chính trị, luôn phát biểu và tỏ ra thông suốt lý luận chủ nghĩa Mác, nhưng thực tế thì không phải vậy: chúng không vì lý tưởng cách mạng mà vì động cơ quyền lực, không vì Đảng, vì dân mà hy sinh phấn đấu mà vì lợi ích cá nhân mình; những kẻ “tìm mọi cách” chui vào Đảng, xâm nhập vào bộ máy quyền lực, tìm mọi cách để giành được vị thế/quyền lực, để từ vị trí đó và dùng quyền lực đó thực hiện mục đích của cá nhân, rồi kết bè, kéo cánh cùng những phần tử cơ hội cũ, tạo thành một thế lực đáng kể trong Đảng, làm giảm sức mạnh, uy tín và thanh danh của Đảng; những kẻ không nhận thức đúng con đường đi lên của sự nghiệp cách mạng vô sản, sợ khó khăn trong việc kiến thiết xã hội chủ nghĩa, để những khó khăn đó làm cho khiếp đảm và tỏ ra tuyệt vọng hay hoang mang hèn nhát, người đó không phải là một người xã hội chủ nghĩa[5]. Hơn nữa, phải kiên quyết đưa ra khỏi Đảng “những kẻ gian giảo, những đảng viên cộng sản đã quan liêu hóa, không trung thực, nhu nhược, và những người mensêvích, tuy “bề ngoài” đã được phủ một lớp sơn mới, nhưng trong tâm hồn thì vẫn là mensêvích”[6], làm cho Đảng thực sự là đội ngũ đoàn kết, thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đủ năng lực và sức mạnh lãnh đạo tương xứng với nhiệm vụ chính trị được giao.
VẬN DỤNG CHỈ DẪN CỦA V.I.LÊNIN ĐỂ CHỐNG CHỦ NGHĨA CƠ HỘI Ở VIỆT NAM
Trong hơn 90 năm xây dựng và phát triển, nhất là trong hơn 34 năm đổi mới và hội nhập, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chủ động đấu tranh với những tư tưởng và những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa được triển khai xuyên suốt trong Đảng, trong hệ thống chính trị đã góp phần tạo sự thống nhất nhận thức chính trị của cán bộ, đảng viên và sự đồng thuận trong xã hội. 
Tuy nhiên, thực tiễn công tác xây dựng Đảng cũng cho thấy, vì cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có một bộ phận còn diễn biến phức tạp. Ở không ít tổ chức Đảng vẫn còn có một bộ phận những người cơ hội chủ nghĩa, không chỉ mơ hồ, hoang mang, dao động, lập trường tư tưởng chính trị không vững vàng, thiếu sự tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, bản lĩnh chính trị không vững vàng mà còn sa vào chủ nghĩa cá nhân, tham ô, tham nhũng, lãng phí, cục bộ, bè phái, lợi ích nhóm, v.v.. Sự suy thoái đó chính là nguy cơ thúc đẩy sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong Đảng và chế độ.
Cùng với đó, trước mỗi kỳ đại hội Đảng nói riêng và trong công tác cán bộ nói chung, ở mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị vẫn còn đó những kẻ cơ hội "diễn gương", luôn tỏ ra có tác phong quần chúng, đi đâu cũng chủ động thăm già, hỏi trẻ, khích lệ đồng chí, đồng nghiệp, nhưng thực chất là “nhẫn nhịn” để chờ thời, lấy phiếu vào quy hoạch, để được bổ nhiệm. Rồi từ đó, dùng vị thế "đạt được" của mình vi phạm, thậm chí bỏ qua nguyên tắc tập trung dân chủ mà quyết định những vấn đề ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân; tác động xấu đến tâm tư, tình cảm và niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ… Dạng cán bộ, đảng viên này và những biểu hiện cơ hội đó đã được Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ chỉ rõ. Đó là, có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên “phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái. Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước…Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể…Thao túng trong công tác cán bộ; chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội... Sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi. Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”.
Vì thế, để “kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi với làm”[7] theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và chủ động phòng và đấu tranh chống những kẻ cơ hội, những biểu hiện cơ hội  trong bối cảnh toàn Đảng đang chuẩn bị và tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội XIII của Đảng, cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, nâng cao nhận thức của cấp ủy các cấp về tầm quan trọng của việc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội để xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh. Cùng với đó, quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước trên tinh thần giữ vững tính Đảng, tính chính trị, tính khoa học, nguyên tắc thống nhất giữ lý luận và thực tiễn trong đấu tranh về tư tưởng, lý luận của Đảng. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để chủ động, sáng tạo, thường xuyên, liên tục, kiên trì, bền bỉ, bám sát tình hình thực tiễn trong cuộc đấu tranh này trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Quán triệt mục tiêu, nguyên tắc, phương pháp luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để không chỉ thực hiện tốt “nhiệm vụ thứ nhất của bất cứ một chính đảng nào có trọng trách đối với tương lai là thuyết phục cho đa số nhân dân thấy được sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình”[8], mà còn chủ động đấu tranh vạch trần tính chất phản khoa học, phản động trong những quan điểm, tư tưởng sai trái của những phần tử cơ hội. Đi liền cùng đó là đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, gắn lý luận với thực tiễn, tổng kết thực tiễn để kết luận những vấn đề mới mà thực tiễn đặt ra, thiết thực xây dựng Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Hai là, phát huy vai trò sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sự phối hợp và tổ chức chặt chẽ của các lực lượng tạo thành thế trận vững chắc, nhiều tầng nấc trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nói chung, chống chủ nghĩa cơ hội nói riêng. Cụ thể, nâng cao tính chủ động, thiết thực, hiệu quả của các ban chỉ đạo từ Trung ương đến địa phương trong công tác tham mưu, hướng dẫn, tổ chức thực hiện cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chống âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" trên trận địa tư tưởng. Nâng cao tính chuyên sâu của các cơ quan nghiên cứu, của đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận, các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành và tính kịp thời, đa dạng, phong phú của các cơ quan thông tấn, báo chí, truyền thanh, truyền hình, coi đó là nhiệm vụ, trách nhiệm chính trị cao cả của mọi tổ chức, mọi lực lượng dưới sự lãnh đạo của Đảng để phòng và đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội.
Trong đó, cần sử dụng linh hoạt, đa dạng các hình thức, phương pháp đấu tranh trực tiếp và gián tiếp; khơi dậy và phát huy cao độ khả năng, thế mạnh của mỗi tổ chức, mỗi lực lượng tham gia; đồng thời, khắc phục sự đấu tranh kiểu một chiều, khuôn sáo theo công thức định sẵn, thoát ly các vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn. Chú trọng xây dựng và tổ chức các lực lượng, nhất là lực lượng nòng cốt có trình độ chuyên sâu, có phương pháp khoa học, đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ trong cuộc đấu tranh gay go, phức tạp này gắn với việc nâng cao hiệu quả việc giám sát hoạt động, ngăn chặn liên lạc, vô hiệu hóa hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng của các đối tượng cơ hội, của các thế lực thù địch trên mạng xã hội bằng các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ hữu hiệu.
Ba là, gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để không chỉ phát huy vai trò lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng, nắm rõ tâm tư, nguyện vọng, tình hình chính trị, tư tưởng của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân, kịp thời uốn nắn những nhận thức lệch lạc mà còn góp phần ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Cụ thể, đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ gắn với công tác giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, đẩy mạnh chống tham ô, tham nhũng, quan liêu cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; nghiêm túc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết, thống nhất, tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát, thực hành dân chủ trong Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân…; đồng thời, thường xuyên sàng lọc đội ngũ cán bộ, đảng viên, kiên quyết đưa những người không đủ tiêu chuẩn, những đảng viên thoái hoá về chính trị, tư tưởng, về đạo đức lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, cố tình vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước ra khỏi Đảng gắn với coi trọng chất lượng công tác phát triển Đảng.
Bốn là, phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị nói riêng trong việc nêu cao ý thức tự rèn luyện, tự bảo vệ mình trong sạch về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; chủ động và tích cực đấu tranh phê phán những quan điểm, tư tưởng sai trái, phản động, âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch. Mỗi người trong thực nhiệm vụ chính trị, thực thi công vụ phải thống nhất giữa nói và làm, giữa dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo theo tinh thần Quy định số 101-QĐ/TW của Ban Bí thư về Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, Quy định số 47-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về Những điều đảng viên không được làm và Quy định số 08-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; nhất là trong phòng, chống và đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội như tư duy nhiệm kỳ, đầu cơ chính trị, chạy phiếu bầu, chạy quy hoạch, luân chuyển, chạy chức, chạy quyền…
Năm là, tiếp tục thực hiện nghiêm Quy chế dân chủ ở cơ sởPháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấnQuy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hộiQuy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Đồng thời, hướng về cơ sở, gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ; trong giám sát việc thực hiện đạo đức và trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước; trong chuẩn bị nhân sự cấp ủy khóa mới các cấp đảm bảo tiêu chuản vừa hồng vừa chuyên; nhất là, cần tạo nhiều kênh thông tin, nhiều diễn đàn để lắng nghe và tiếp nhận ý kiến góp ý xây dựng của nhân dân, coi đó là một biện pháp hữu hiệu để sớm phát hiện những kẻ cơ hội trong Đảng và những kẻ cơ hội đang tìm mọi cách chui vào Đảng nhằm thăng quan, phát tài, "vinh thân, phì gia", mưu cầu lợi ích cá nhân, nhóm lợi ích, dòng họ, địa phương./.
[1] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.8, tr.476-477.
[2] V.I.Lênin: Toàn tậpNxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.41, tr.17.
[3] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 41, tr.43-44.
[4] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.26, tr.307-308.
[5] V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.40, tr.366.
[6] V.I.Lênin: Toàn tậpNxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.44, tr.154.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.202.
[8] V.I.Lênin: Toàn tậpNxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.36, tr.208.


Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...