Thứ Năm, 12 tháng 12, 2019

QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - MỘT TẤT YẾU LỊCH SỬ



Lịch sử vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam, thực tiễn phát triển của thế giới suốt thế kỷ XX, cũng như thập niên đầu thế kỷ XXI đã bác bỏ hoàn toàn những luận điệu xuyên tạc, đồng thời chứng minh rằng, nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế vận động tiến bộ của thời đại và điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam.
Sau những biến động chính trị ở Liên Xô và Đông Âu cuối những năm 80 đầu những năm 90 thế kỷ XX, một chiến dịch công kích, phê phán, xuyên tạc, bôi nhọ chủ nghĩa xã hội (CNXH) và chủ nghĩa Mác - Lênin được dấy lên trên khắp thế giới bởi các thế lực thù địch với CNXH. Họ nhanh chóng chớp lấy cơ hội “ngàn năm có một” này để tổng tấn công hòng “chôn vùi vĩnh viễn” chủ nghĩa Mác - Lênin và CNXH.
Trong bối cảnh CNXH hiện thực lâm vào khủng hoảng, phong trào cách mạng thế giới đứng trước những thử thách đầy cam go, những người hoang mang, dao động về lý tưởng đã “khuyến cáo” Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ con đường đi lên CNXH mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Bởi theo họ, đến thành trì của CNXH hùng mạnh như Liên bang Xô Viết mà còn không đứng vững, thì một đất nước nhỏ bé, nghèo nàn, lạc hậu như Việt Nam làm sao có thể đi lên CNXH được(?). Một số người thậm chí cho rằng, giá như vào nửa đầu thế kỷ XX, nếu lựa chọn đi con đường khác thì biết đâu nước ta vẫn giành được độc lập, kinh tế, văn hóa vẫn phát triển, lại tránh được mấy cuộc kháng chiến gian khổ, hao tổn xương máu.v.v..
Một câu hỏi đặt ra: Có thật là như vậy?
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”(1). Trong xu thế vận động chung đó của thế giới, thì việc Việt Nam “đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử… Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một TKQĐ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”(2). Điều đó được lý giải bởi những lẽ sau:
Thứ nhất, lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội (HTKTXH). Song, không phải HTKTXH này kết thúc hoàn toàn rồi HTKTXH tiếp sau mới ra đời. Giữa  HTKTXH cũ bị thay thế và HTKTXH mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một giai đoạn chuyển tiếp, đó là TKQĐ. Xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa với giai đoạn đầu là CNXH, một chế độ xã hội mới hoàn toàn về chất so với các chế độ xã hội trước đó lại càng đòi hỏi phải trải qua một TKQĐ lâu dài, đầy khó khăn, thử thách, khó tránh khỏi những va vấp, đổ vỡ tạm thời. Trong “Phê phán Cương lĩnh Gô-ta”, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã chỉ rõ “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một TKQĐ chính trị...”(3)
Thứ hai, học thuyết Mác - Lênin chứng minh rằng, loài người với tính cách một chỉnh thể nhất thiết phải trải qua 5 HTKTXH. Nhưng, do đặc điểm lịch sử - cụ thể về không gian và thời gian, do những điều kiện đặc thù khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong chi phối, không phải quốc gia nào cũng tuần tự trải qua tất cả các HTKTXH từ thấp đến cao theo một trình tự sơ đồ chung. Có những nước có thể bỏ qua một hoặc vài HTKTXH nào đó trong tiến trình phát triển của mình tùy thuộc điều kiện lịch sử cụ thể đặc thù của từng nước. Điều đó hoàn toàn phù hợp quy luật khách quan.
Thứ ba, cũng như lịch sử xã hội loài người nói chung, trong thời đại ngày nay, việc bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN quá độ lên CNXH ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Điều đó được quy định bởi:
1) Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ làm cho lực lượng sản xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ cao, đã mở đầu giai đoạn mới của quá trình xã hội hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế, tạo điều kiện hiện thực để nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Trong điều kiện kinh tế thế giới có bước nhảy vọt về cơ sở vật chất - kỹ thuật, xã hội loài người đòi hỏi phát triển lên một xã hội mới của nền văn minh cao hơn - đó là nền văn minh của kinh tế tri thức. Do đó, quá độ lên CNXH là con đường phát triển hợp quy luật khách quan. Sau CNTB nhất định phải là một chế độ xã hội tốt đẹp hơn - chế độ XHCN mà sự lựa chọn của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Nước ta là nước đã giành được độc lập dân tộc, có chính quyền dân chủ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, đặc biệt là những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh CNH, HĐH, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế quốc tế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Đây là điều kiện tiên quyết, quyết định con đường quá độ lên CNXH ở nước ta. 
2) Sự lựa chọn xu hướng phát triển. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, từ nền nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, nền kinh tế nước ta nảy sinh một yêu cầu khách quan là: chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa và thúc đẩy sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển lên thành sản xuất lớn dựa trên cơ sở kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Nếu để nền kinh tế phát triển tự phát chuyển thành nền kinh tế TBCN, trên cơ sở phân hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ, do tác động của quy luật giá trị thì sẽ hình thành CNTB, dẫn đến những hậu quả như: Chính quyền do chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã phải tốn bao xương máu mới giành được, sẽ bị mất; và chính nhân dân lao động lại rơi xuống địa vị người làm thuê, bị bóc lột và khó có thể thực hiện được mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chúng ta không đi theo con đường TBCN vì thời đại ngày nay không phải là thời đại của CNTB, mặc dù CNTB đang có sự Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội...” điều chỉnh để thích nghi với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhưng CNTB vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn, bất công xã hội thuộc về bản chất của chế độ TBCN. Theo quy luật phát triển của lịch sử thì CNTB không thể không bị phủ định. Vì thế, Đảng ta đã lựa chọn hướng đi phù hợp với lịch sử cụ thể của Việt Nam là thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN dựa trên cơ sở củng cố chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; dựa vào khối liên minh công - nông - trí thức để tổ chức và huy động mọi tiềm lực của các tầng lớp nhân dân, tiến hành CNH, HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. Con đường này hoàn toàn mới mẻ và không ít khó khăn, nhưng giảm bớt được đau khổ cho nhân dân lao động. “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội...”(4).
 Những thành tựu đã đạt được qua hơn 30 năm đổi mới đã chứng tỏ sự lựa chọn đó là đúng hướng, phù hợp với lợi ích của cả dân tộc và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh: quy luật của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Và trong thực tiễn, CNXH không những đã trở thành động lực tinh thần, mà còn là sức mạnh vật chất to lớn góp phần đưa sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta đến thắng lợi. Quá trình cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã tạo những tiền đề cả vật chất và tinh thần để có thể “rút ngắn” tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của xã hội. Vì thế, dân tộc ta đã chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Đó là con đường phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, cả về đặc điểm lịch sử - cụ thể trong nước và hoàn cảnh quốc tế.
Nói “nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN” chỉ có nghĩa là trong lịch sử nước ta không có một giai đoạn, trong đó giai cấp tư sản nắm chính quyền và quan hệ sản xuất TBCN giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế quốc dân. “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị thế thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”(5). Con đường đi lên CNXH ở nước ta, gọi là TKQĐ với ý nghĩa là đất nước ta phải trải qua một trạng thái xã hội mang tính trung gian, chuyển tiếp giữa HTKTXH cũ và HTKTXH mới, trong đó nền kinh tế là nền kinh tế quá độ gồm nhiều thành phần kinh tế. Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, sự hợp tác kinh tế quốc tế đa phương, đa dạng cho phép chúng ta tận dụng đại công nghiệp của cả thế giới để có thể “rút ngắn” quá trình phát triển kinh tế đất nước. Sự phát triển “rút ngắn” chỉ có nghĩa là đẩy nhanh tương đối quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, bằng những khâu trung gian, những hình thức, bước đi quá độ - được coi là cực kỳ cần thiết và có tác dụng sắc bén đối với những nước mà sản xuất nhỏ là phổ biến đi lên CNXH. Đồng thời, phải tôn trọng và vận dụng sáng tạo những tính quy luật của quá trình phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN.
Thứ tư, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân của nước ta chứng minh rằng, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, có nhiều phong trào đấu tranh chống Pháp thấm đượm tinh thần yêu nước, bất khuất, song đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất bại. Đó là sự bế tắc và thất bại về đường lối chiến lược. Và như vậy, tất cả các phương án chính trị của các giai cấp, từ đường lối cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, đến những đường lối theo lập trường nông dân, lập trường tiểu tư sản, tư sản, đều được lịch sử khảo nghiệm nhưng rốt cuộc đều thất bại. Trong bối cảnh đó, Đảng ta ra đời, nhanh chóng gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH đưa sự nghiệp Cách mạng Việt Nam không ngừng phát triển đi lên.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945; tiến hành 9 năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống thực dân Pháp và 20 năm hy sinh đầy xương máu chống đế quốc Mỹ. Với chiến thắng oanh liệt mùa Xuân năm 1975, cả nước độc lập, thống nhất, bước vào thời kỳ xây dựng, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Quá trình xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, có lúc Đảng ta đã phạm sai lầm nghiêm trọng về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, nhưng với bản lĩnh khoa học, Đảng ta đã nhận thức rõ những sai lầm khuyết điểm do nguyên nhân thiếu kinh nghiệm và nhất là do chủ quan duy ý chí, vi phạm những quy luật khách quan, dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Qua kiểm điểm, Đảng đã rút ra những bài học kinh nghiêm sâu sắc, đồng thời, tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, từng bước xác định rõ hơn con đường quá độ lên CNXH; quá trình đổi mới tư duy, trước hết là tư duy về kinh tế, Đảng đã xác định rõ hơn phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt và đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN, như Đại hội XII của Đảng đã nhận định: “Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo: con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”(6). Như vậy, cả từ phương diện lý luận, cả từ phương diện thực tiễn vận động của lịch sử nhân loại suốt thế kỷ XX, thập niên đầu thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch sử đấu tranh giải phóng, xây dựng đất nước ở Việt Nam, việc nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu khách quan, là hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại, với đặc điểm lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân ta./.

(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, tr. 69, 70. (3) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, H, 1995, t. 19, tr. 47. (4), (5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr.23, 21. (6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2016, tr. 66.

TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRONG TÌNH HÌNH MỚI



(TG)- Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam thực chất là bảo vệ Đảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Đảng, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lấy lại và củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, với nền tảng tư tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân Việt Nam không chỉ bằng lý luận, lời nói hay nghị quyết mà phải hành động thực tiễn, “nói đi đôi với làm”, xây dựng, chỉnh đốn Đảng thành công để Đảng ta thực sự là một chính đảng, khoa học, cách mạng và nhân văn, của giai cấp công nhân Việt Nam, của dân tộc Việt Nam.
Nhận diện âm mưu tuyên truyền của các thế lực thù địch chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Thời gian gần đây, nhất là khi chúng ta chuẩn bị Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng; các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã đẩy mạnh tuyên truyền chống phá cách mạng Việt Nam, bằng mọi âm mưu, thủ đoạn chúng tăng cường xuất bản, tán phát các loại ấn phẩm, tài liệu như: Các báo cáo, nghị quyết, dự luật của nghị viện, quốc hội một số nước phương Tây; các văn bản pháp lý của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ như: Tổ chức Ân xá Quốc tế (AI), Tổ chức theo dõi nhân quyền quốc tế (HRW)…; các ấn phẩm xuất bản, như: sách báo, tạp chí, tập san, tờ rơi… của các cá nhân, tổ chức phản động lưu vong, số đối tượng cơ hội chính trị trong và ngoài nước; các trang web, các chương trình phát thanh, phát hình bằng tiếng Việt, …
Trong đó, họ đã lập hàng nghìn trang web, blog, hàng trăm loại báo chí, nhà xuất bản và các đài  phát thanh truyền hình có chương trình tiếng Việt, tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm làm việc trực tiếp với các tổ chức, cá nhân phản động trong và ngoài nước… để xuyên tạc nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng ta. Qua đó, chúng phủ nhận đường lối lãnh đạo của Đảng, phủ nhận những thành tựu đã đạt được trong các cuộc chiến tranh đã qua và trong công cuộc đổi mới, bóp méo thực tế những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, những sơ hở thiếu sót trong thực hiện chính sách, pháp luật hoặc những vụ việc phức tạp nảy sinh trong dân tộc, tôn giáo nhằm kích động, lôi kéo các tầng lớp nhân dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất an ninh, chính trị trật tự an toàn xã hội; nhằm hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xuyên tạc đường lối lãnh đạo của Đảng, hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.
Tư duy mới về bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối lãnh đạo của Ðảng
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn nhấn mạnh vị trí, vai trò của công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, coi đó là một bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng nhằm bảo vệ đường lối, Cương lĩnh lãnh đạo của Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Ngày 22-10-2018, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị, về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Nghị quyết nêu rõ: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Ðảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”. Ðó là nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân, trong đó các cơ quan báo chí tuyên truyền các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu.
Nghị quyết nêu bảy nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu. Trọng tâm là tiếp tục làm cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; đổi mới nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục đối với các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, nhằm nâng cao sức đề kháng, khả năng chủ động đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch.
Để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh lãnh đạo của Đảng, những năm qua, các cấp uỷ, tổ chức đảng luôn coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện hiệu quả nhiệm vụ đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, làm cho cán bộ, đảng viên, nhân dân luôn kiên định nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hiện nay, trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, nhiệm vụ đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch càng phải được coi trọng, lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, hiệu quả. Những năm qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo công tác phòng ngừa, đấu tranh trên lĩnh vực này, như nghị quyết các kỳ Đại hội của Đảng, trong đó, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tích cực đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động phòng ngừa, đấu tranh phê phán, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”[1]. Đảng ta yêu cầu“Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”[2]. Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII), Đảng ta chỉ rõ: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” nhấn mạnh: Chủ động chuẩn bị các phương án, biện pháp cụ thể, sát với tình hình; xây dựng lý luận sắc bén để đấu tranh, phản bác có hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì thế, để bảo vệ nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng, việc tăng cường đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái của các thế lực thù đich, cơ hội chính trị chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng là đòi hỏi khách quan, nhiệm vụ cấp bách trước mắt, đồng thời cũng là nhiệm vụ thường xuyên, cơ bản, lâu dài.
Thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước sẽ gia tăng các hoạt động thực hiện “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa với phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi và xảo quyệt hơn, nhất là hoạt động tuyên truyền phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, hiến pháp, pháp luật của Nhà nước trên không gian mạng và các trang mạng Internet, mạng xã hội. Các thế lực thù địch sẽ triệt để lợi dụng những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, nhất là những khó khăn, hạn chế, yếu kém của ta trong phát triển kinh tế xã hội, tệ nạn tham ô, tham nhũng để tuyên truyền xuyên tạc chống phá Đảng, Nhà nước; lôi kéo tập hợp lực lượng và kích động tư tưởng chống đối; chia rẽ nội bộ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa’ trong nội bộ, gây mất ổn định chính trị, an ninh, trật tự an toàn xã hội. Công tác đảm bảo quốc phòng, an ninh trên lĩnh vực  chính trị - tư tưởng, văn hoá sẽ gặp nhiều thách thức mới.
Giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Trước hết, thường xuyên bám sát định hướng chỉ đạo, hướng dẫn trong các chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị (khoá XII) đối với công tác đấu tranh phòng chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận; gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để xây dựng các chương trình, kế hoạch, giải pháp công tác cụ thể; đưa công tác phòng, chống “diễn biến hòa bình”, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội đi vào nền nếp đạt hiệu quả cao.
Hai là, chủ động nắm tình hình, phát hiện sớm hoạt động chống phá của đối tượng để đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. Công tác nắm tình hình cần tập trung vào những vấn đề cụ thể như: Phát hiện các trang web, blog, “diễn đàn” thường xuyên đăng tải những nội dung xấu, thù địch; phát hiện âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động tuyên truyền chống phá của chúng trên không gian mạng, kịp thời nhận diện những phương thức, thủ đoạn mới; phát hiện cá nhân, tổ chức sở hữu, quản lý, điều hành các trang mạng xã hội thường xuyên đăng tải các bài viết, hình ảnh, video tuyên truyền phá chống phá cách mạng Việt Nam; phát hiện những bất cập, hạn chế của các biện pháp, công tác nghiệp vụ đã và đang được triển khai...
Để nắm tình hình có hiệu quả, đòi hỏi các cơ quan báo chí cách mạng cần sử dụng tổng hợp các lực lượng, phương tiện, biện pháp; thường xuyên rà quét, lên danh sách các trang web, blog, diễn đàn có nội dung phức tạp, các đối tượng viết bài trên những trang mạng này (có thể là tên thật hoặc nickname, bút danh); khai thác thông tin trên các trang web, blog để xác định được đối tượng sở hữu, quản lý bài viết và đề xuất biện pháp kịp thời xử lý.
Ba là, phát huy tốt vai trò của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu, Ban Chỉ đạo 35, cơ quan chức năng các cấp, nhất là vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Tập trung lãnh đạo kiện toàn, xây dựng phát triển lực lượng đấu tranh theo hướng chủ động tạo thế liên hoàn, vững chắc, có bộ phận nòng cốt, chuyên sâu, tập hợp lực lượng rộng rãi; quản lý chặt chẽ tình hình chính trị nội bộ, nắm, dự báo, xử lý kịp thời những vấn đề tư tưởng nảy sinh. Trong tổ chức thực hiện, cần duy trì tốt các chuyên trang, chuyên mục chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở các cơ quan, đơn vị. Các cơ quan báo chí cần phát huy vai trò nòng cốt đấu tranh vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, phản động, góp phần định hướng dư luận xã hội.
Cùng với đó, cấp ủy, chính quyền các cấp cần tích cực thông tin và tăng cường đối thoại với nhân dân; chủ động, linh hoạt tham gia các vấn đề cụ thể của xã hội. Thường xuyên duy trì, thực hiện có hiệu quả việc phối hợp với các cơ quan chức năng; phát huy vai trò của các cơ quan báo chí, tạo thế trận rộng khắp, chặt chẽ trong đấu tranh phản bác quan điểm, luận điệu sai trái thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Bốn là, thường xuyên tổ chức các cuộc tọa đàm, trao đổi, rút  kinh nghiệm giữa các cơ quan chức năng, lực lượng nòng cốt chuyên sâu trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên internet, mạng xã hội. Với phương châm vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, cấp ủy, tổ chức đảng cơ quan, đơn vị cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức các cuộc tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, hội nghị rút kinh nghiệm theo hướng thiết thực, hiệu quả. Lực lượng đấu tranh nòng cốt chuyên sâu phải thường xuyên được trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn, bồi dưỡng nghiệp vụ; được trang bị đầy đủ, vững chắc lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Các thông tin đấu tranh phải trung thực, khách quan, vì lợi ích lâu dài của dân tộc, của đất nước, mang tính đảng, tính khoa học cao. Cuộc đấu tranh này phải được triển khai sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân với nội dung phong phú, phù hợp với từng đối tượng. Đặc biệt, cần huy động được rộng rãi trí tuệ, tâm huyết của các nhân sĩ, trí thức và nhân dân tiến bộ trên thế giới tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, thù địch với nước ta.
Năm là, tăng cường hoạt động quản lý, kiểm soát đối với các trang mạng xã hội và chủ động sử dụng các biện pháp kỹ thuật, ngăn chặn việc truy cập vào các trang mạng “độc hại” một cách có hiệu quả. Chủ động phối hợp với các nhà cung cấp dịch vụ, tính toán sử dụng các giải pháp về công nghệ để ngăn chặn một cách triệt để các tin tức xấu độc trên các trang mạng. Đặc biệt, phải chủ động sử dụng các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ để xâm nhập, chiếm quyền quản trị, điều hành các trang web, blog, diễn đàn mạng xã hội, sau đó xóa dữ liệu, vô hiệu hóa hoặc ngăn chặn việc truy cập vào các trang mạng có nội dung “độc hại” trong một thời gian nhất định. Kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Ðiều lệ Ðảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Ðảng. Siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong Ðảng. Các cấp ủy và tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ bí mật của Ðảng, Nhà nước, lan truyền những thông tin sai lệch hoặc tán phát những đơn thư nặc danh, mạo danh, hoặc thư có danh nhưng có nội dung xấu, xuyên tạc, vu khống, kích động.
Kinh nghiệm cho thấy, đấu tranh, phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, ngăn chặn hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, chống phá đường lối lãnh đạo của Đảng, chính  sách, pháp luật của Nhà nước bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là cuộc chiến đầy khó khăn, thách thức. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và các cơ quan chức năng của Đảng, Nhà nước ta, với những thành tựu đã đạt được trong công cuộc đổi mới và trong phòng chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
Chúng ta tin tưởng rằng, cuộc đấu tranh, ngăn chặn, phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá nền tảng tư tưởng, đường lối lãnh đạo của Đảng, hiến pháp, pháp luật của Nhà nước sẽ được bảo vệ vững chắc. Đó là những nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân, trong đó lực lượng tuyên giáo các cấp là nòng cốt; là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị; của các bộ, ban, ngành và từng địa phương, cơ quan, đơn vị; của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu./.

[1][2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia. H.  2016, tr. 186, 201


NHẬN THỨC ĐÚNG VỀ ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN CỦA ĐẢNG TA



Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quan điểm, đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD) vững mạnh là nội dung được Đảng ta xác định có vị trí quan trọng hàng đầu.
Tuy cách thể hiện có khác nhau, nhưng qua từng thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định, muốn hoàn thành thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, chúng ta phải phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân. Yếu tố cốt lõi để tạo nên sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc đó chính là nền QPTD vững mạnh.
Cơ sở để Đảng ta xác định và nhất quán thực hiện quan điểm, đường lối ấy chính là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kinh nghiệm thực tiễn từ lịch sử dựng nước, giữ nước mấy nghìn năm của dân tộc và tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa giữ nước của nhân loại vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam.
 Lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra rằng: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ”. Xuất phát từ luận điểm ấy, ngay sau cách mạng Tháng Mười Nga thành công, để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ chế độ V.I.Lê-nin đã yêu cầu: "phải có một thái độ nghiêm túc đối với vấn đề khả năng quốc phòng và đối với vấn đề chiến đấu của nhà nước"(1).
Theo tư tưởng, quan điểm của V.I. Lênin sức mạnh bảo vệ chính quyền, bảo vệ chế độ, bảo vệ đất nước là sức mạnh tổng hợp, trong đó vai trò của quần chúng nhân dân rất quan trọng. Trong các tác phẩm đề cập đến vấn đề này, V.I Lê nin đều thống nhất quan điểm: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người làm nên lịch sử”.  Sức mạnh QPTD theo tư tưởng của V.V. Lênin không phải là chiến lược chung chung, trừu tượng mà bao hàm những thành tố rất cụ thể, sức mạnh quốc phòng là sức mạnh tổng hợp, sức mạnh toàn diện trong đó quân đội giữ vai trò nòng cốt. Nói về tăng cường sức mạnh của nền QPTD, VI.Lê nin chỉ rõ rằng phải xây dựng được quân đội mạnh làm nòng cốt. VI.Lê nin khẳng định: “Muốn bảo vệ chính quyền của công nông... chúng ta phải có Hồng quân mạnh mẽ... Có Hồng quân mạnh, chúng ta sẽ vô địch”...
Kế thừa và phát triển truyền thống mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, đồng thời vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hình thành nên tư tưởng quân sự. Chính bằng tư tưởng quân sự ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dẫn đường, chỉ lối quân và dân ta đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Nội dung cốt lõi của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh chính là xây dựng nền QPTD vững mạnh. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn, do đó để bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng và duy trì, phát triển hoạt động của chính quyền chuyên chính vô sản, không có con đường nào khác là phải bằng sức mạnh tổng hợp của nền QPTD.
Ngay trong Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tư tưởng ấy đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: " Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". 
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: chúng ta phải xây dựng nền QPTD, toàn diện. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền QPTD phải là nền quốc phòng mang tính chất nhân dân, nền quốc phòng của dân, do dân xây dựng nên, nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng.
Mặt khác theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh xây dựng nền QPTD phải gắn liền với thế trận chiến tranh nhân dân phải có lực lượng vũ trang với ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích) làm nòng cốt, có hậu phương vững mạnh. Cùng với đó Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền quốc phòng hiện đại, xây dựng nền QPTD phải gắn liền với xây dựng nền an ninh nhân dân .
Quán triệt và thực hiện quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ xây dựng nền QPTD mà Đảng ta đã xác định những năm qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, toàn diện, thiết thực. Tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, an ninh của đất nước được tăng cường, đáp ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tuy nhiên, trên thực tế còn không ít những vấn đề đặt ra, đáng chú ý là bên cạnh sự xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động, ngay trong nội bộ cũng có những quan điểm chưa đúng, những nhận thức lệch lạc về sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc; về đường lối xây dựng nền QPTD... Do nhận thức lệch lạc, chưa đầy đủ và hiểu chưa đúng nên quá trình thực hiện đường lối xây dựng nền QPTD còn nhiều tồn tại, hạn chế. Đáng chú ý là trong thực hiện chủ trương phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với xây dựng, củng cố quốc phòng – an ninh, nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương chỉ nhấn mạnh hiệu quả kinh tế mà xem nhẹ yếu tố quốc phòng – an ninh. Do quá trình triển khai cơ quan chức năng, chủ đầu tư và các tổ chức, cá nhân có liên quan không chú ý tới những tác động đến bảo đảm quốc phòng – an ninh và an toàn cộng đồng, nên không ít công trình, dự án phải đình chỉ. Đặc biệt, nhiều khu rừng, cánh rừng từng “che bộ đội”, “vây quân thù” trong kháng chiến, tạo vành đai xanh bảo vệ biên giới trong hòa bình, nay đang bị tàn phá không thương tiếc... 
Thực trạng ấy Đảng và Nhà nước ta đã thấy rõ, chỉ ra và có nhiều giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt đấu tranh ngăn chặn, khắc phục.
Đặc biệt, sau khi thẳng thắn đánh giá thực trạng, phân tích cụ thể nguyên nhân, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, đã chỉ rõ những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Một trong những biểu hiện được Ban Chấp hành Trung ương chỉ ra là: “Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi "phi chính trị hóa" quân đội và công an; xuyên tạc đường lối QPTD và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an”.
Để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả với biểu hiện ấy, Ban Chấp hành Trung ương xác định tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ, toàn diện, có hiệu quả nhiều giải pháp. Một trong những giải pháp quan trọng, phải làm thường xuyên là tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, bồi dưỡng cho nhân dân, trước hết là cán bộ, đảng viên hiểu đúng, nhận thức đầy đủ về xây dựng nền QPTD.
Cùng với tuyên truyền làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của đường lối, cần phân tích làm cho nhân dân hiểu rằng xây dựng nền QPTD vững mạnh là yêu cầu khách quan của sự nghiệp bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN chứ không phải do ý muốn chủ quan của cá nhân hay tổ chức nào. Đây là một chủ trương chiến lược của Đảng ta, đồng thời cũng là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Do đó, cần làm cho nhân dân, trước hết là cán bộ, đảng viên thấu suốt quan điểm, muốn hoàn thành thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, chúng ta phải biết phát huy sức mạnh tổng hợp và một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp là phải xây dựng nền QPTD và an ninh nhân dân vững mạnh. Điều đó chỉ có được khi mọi công dân, mọi tổ chức, mọi lực lượng, mọi cấp, mọi ngành nhận thức đúng, ý thức đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đối với việc xây dựng nền QPTD, an ninh nhân dân. 
Để huy động được mọi nguồn lực, phát huy trách nhiệm của mọi người, mọi tổ chức, mọi lực lượng cùng tham gia xây dựng nền QPTD, chúng ta phải làm cho nhân dân hiểu rõ nền QPTD mà Đảng ta chủ trương xây dựng đó là nền quốc phòng mang tính chất “vì dân, do dân, của dân”, phát triển theo phương hướng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng – an ninh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, do nhân dân làm chủ, nhằm giữ vững hòa bình, ổn định của đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Xây dựng nền QPTD gắn với xây dựng nền an ninh nhân dân vững mạnh là tạo ra sức mạnh để ngăn ngừa, đẩy lùi, đánh bại mọi âm mưu, hành động xâm hại, phá hoại công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Việc xây dựng nền QPTD, an ninh nhân dân của Việt Nam không nhằm mục đích nào khác là tự vệ chính đáng, là để chống lại thù trong, giặc ngoài, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ XHCN và cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Đây chính là thể hiện sự khác biệt về bản chất trong xây dựng nền QPTD, an ninh nhân dân của Việt Nam cũng như các quốc gia có độc lập, chủ quyền đi theo con đường XHCN với các quốc gia khác.  
Sức mạnh của nền QPTD, an ninh nhân dân của Việt Nam là sức mạnh tổng hợp được tạo nên bằng nhiều yếu tố như: chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, khoa học, đối ngoại, quân sự, an ninh,... cả ở trong nước, ngoài nước, cả của dân tộc và của thời đại, trong đó những yếu tố bên trong bao giờ cũng giữ vai trò quyết định.
Chỉ có thông qua tuyên truyền, phổ biến, giáo dục làm cho nhân dân, trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên hiểu đúng, nhận thức đầy đủ những vấn đề cơ bản đó, chúng ta mới góp phần xây dựng niềm tin, nâng cao trách nhiệm và ý chí, quyết tâm trong xây dựng nền QPTD, an ninh nhân dân. Đây cũng là biện pháp quan trọng để chúng ta phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; huy động mọi nguồn lực cho sự nghiệp xây dựng, củng cố nền QPTD gắn với nền an ninh nhân dân nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

HƯ CẤU HAY BÔI NHỌ ANH HÙNG DÂN TỘC



Thời gian qua, một số người đã tự cho mình “quyền năng hư cấu” trong sáng tác văn học, nghệ thuật, bịa đặt ra những chi tiết phi lý, bôi nhọ, xúc phạm các danh nhân, anh hùng dân tộc. Đây đích thực là hành động phi nghệ thuật, mượn danh nghệ thuật để tuyên truyền những giá trị phi nhân văn, phản động, xuyên tạc lịch sử cần lên án, đấu tranh loại bỏ.
Đó chính là việc một số văn nghệ sĩ hoặc là do hạn chế về kiến thức lịch sử, hoặc là do non kém về tay nghề đã có những sáng tác hoặc phát ngôn thể hiện thái độ “đạp đổ”, “hạ bệ”, bịa đặt, bôi đen các danh nhân lịch sử - văn hóa, anh hùng dân tộc. Họ đã mượn “tinh thần đổi mới” để biểu đạt những anh hùng dân tộc bằng một cách nhìn, cách tiếp cận theo hướng của con người tự nhiên, con người bản năng; đưa hình tượng nghệ thuật là những anh hùng, vĩ nhân về với đời thường, để họ “thật hơn”, có “chất người” hơn. Họ còn cho rằng: “không nên phong thánh cho con người, hãy trả con người về với đúng kích thước của nó”. Thậm chí, có người coi hư cấu các nhân vật anh hùng trong lịch sử là “quyền sáng tác của nhà văn”, sự đồng tình hay phản bác là quyền của bạn đọc - đó là “biểu hiện của cái nhìn dân chủ”(!)
Cái thứ được gọi là “biểu hiện của cái nhìn dân chủ”, hay chỉ là mượn dân chủ, lợi dụng văn học, nghệ thuật để bịa đặt, đưa ra những thông điệp mù mờ, bệnh hoạn để xuyên tạc những hình tượng đã “đóng đinh” trong lòng nhân dân ta, dân tộc ta; làm cho mọi người hoài nghi nhân tính, có cái nhìn méo mó, lệch lạc, biến dạng các giá trị lịch sử và nhân cách văn hóa của các anh hùng dân tộc trong đời sống tinh thần của nhân dân, gây tổn thương lương tri, đạo lý dân tộc. Đó thực sự là hành động phản bội lại lịch sử, bôi nhọ tổ tiên, phủ nhận giá trị lịch sử, văn hóa, phủ nhận truyền thống, đạo lý mà dân tộc ta đã xây dựng hàng nghìn năm.
Như chúng ta đã biết, văn học, nghệ thuật thuộc ý thức xã hội, phản ánh hiện thực bằng các hình tượng nghệ thuật cụ thể. Văn học, nghệ thuật có đa chức năng, như: giáo dục, nhận thức, thẩm mỹ, giải trí, giao tiếp, tổ chức, điều chỉnh xã hội, v.v. Không thể phủ nhận khả năng kỳ diệu của văn học, nghệ thuật; đó là giúp con người nhận thức, khám phá hiện thực khách quan, làm chuyển biến tư tưởng, tình cảm, điều chỉnh hành vi sống và thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người và xã hội. Người nghệ sĩ tài năng là người nắm bắt một cách mẫn cảm lý tưởng của thời đại, xây dựng nên hình tượng nghệ thuật để hướng dẫn con người theo tư tưởng, hành động cao đẹp. Mặc dù hình tượng nghệ thuật là sự chứa đựng trong đó những vấn đề về cuộc sống, nhưng không phải là sự sao chép nguyên bản hiện thực cuộc sống, mà quá trình xây dựng hình tượng nghệ thuật đòi hỏi phải có sự kết hợp cả nguyên tắc khái quát hóa và điển hình hóa. Nghĩa là, từ những vấn đề thực tiễn của đời sống hiện thực, người nghệ sĩ phải khái quát hóa để tìm ra được cái bản chất, cái quy luật của cuộc sống. Điển hình hóa là phải tìm ra được cái riêng, cái cá tính, cái điển hình trong cái chung. Để kết hợp được khái quát hóa và điển hình hóa trong hình tượng nghệ thuật, người nghệ sĩ cần có sự hư cấu. Tuy nhiên, sự hư cấu phải có hạn độ.
Tưởng tượng, hư cấu là thuộc tính của văn học, nghệ thuật và là quyền năng sáng tạo của văn nghệ sĩ, nhưng phải dựa trên nguyên tắc cao nhất là chân - thiện - mỹ. Hư cấu phải là sự tập hợp, sắp xếp, lựa chọn nhiều tài liệu từ một hay nhiều hiện tượng khác nhau mà tái tạo, tìm kiếm thông qua trí tưởng tượng để tạo dựng nên một sự vật, hiện tượng mới vừa riêng biệt vừa thể hiện được bản chất của cuộc sống. Trong sáng tạo nghệ thuật, bất kỳ tác phẩm nào cũng phải có hai phần: phần từ đời sống thực và phần hư cấu của văn nghệ sĩ. Hai phần này có vai trò, vị trí ngang nhau, không thể thiếu nhau và không thể đối lập, tách biệt nhau. Nếu tác giả nào đó chỉ quan tâm, đề cao phần đời sống thực thì tác phẩm ấy sẽ thành tư liệu lịch sử, ghi chép đời sống, không thể là nghệ thuật - sáng tạo. Ngược lại, nếu ai tự vỗ ngực cho rằng: tôi là văn nghệ sĩ, tôi sáng tác tác phẩm lịch sử, tôi không cần sự chuẩn xác của lịch sử, tôi chỉ cần hư cấu,... thì tác phẩm đó sẽ phi thực tế, phi lịch sử. Như vậy, họ sẽ đánh mất đi vai trò văn nghệ sĩ chân chính của chính mình.
Đối với đề tài về các anh hùng dân tộc, hư cấu được xem như một quy luật điển hình hóa trong văn học, nghệ thuật để có nhận thức sâu sắc hơn về bản thân họ, để hình tượng nghệ thuật - người anh hùng dân tộc sinh động hơn, điển hình hơn, khái quát hơn; nghĩa là mang những đặc điểm thẩm mỹ chân thực hơn mà không làm mất đi sự tự do sáng tạo của các văn nghệ sĩ. Hư cấu là để thỏa mãn nhu cầu khám phá bản chất thật, bản chất “người” của những nhân vật lịch sử là thần tượng của công chúng, nhưng phải giúp cho mọi người có cái nhìn toàn diện hơn, sâu sắc và nhân văn hơn.
Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam đã sản sinh ra rất nhiều anh hùng giải phóng dân tộc và chống giặc ngoại xâm; họ cũng đồng thời là những danh nhân văn hóa, đại biểu của văn hóa dựng nước, giữ nước. Đó là những thần tượng trong lòng nhân dân, là sự phóng chiếu tư tưởng, đạo đức, khát vọng của cộng đồng; đồng thời, là chất liệu để dệt nên bản sắc văn hóa dân tộc Việt và cũng đặt ra bổn phận cho văn học - nghệ thuật. Đúng như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: cái cao quý của một đất nước, một dân tộc là ở giá trị văn hóa; văn học - nghệ thuật có nhiệm vụ và tác dụng to lớn trong việc sáng tạo nên những giá trị cao quý ấy. Theo đó, trong văn học - nghệ thuật, cái nhìn lý tưởng hóa đã xây dựng nên hình tượng nhân vật trung tâm với tư thế và vẻ đẹp hào hùng. Họ chính là hóa thân của một dân tộc anh hùng; mang trong mình những phẩm chất giản dị, bình thường mà phi thường về sức mạnh tinh thần. Cho nên, trong sáng tạo nghệ thuật, những anh hùng dân tộc cần được ghi nhận, mô tả như những con người đẹp nhất, lớn lao nhất, giàu tính chiến đấu nhưng không khiên cưỡng, xơ cứng, mà trở nên sinh động hơn, gần gũi hơn với đời thực, làm cho những hình tượng này đẹp lên trong con mắt của các thế hệ sau.
Sáng tác các loại hình văn học, nghệ thuật về các anh hùng dân tộc, trước hết tác giả phải có cái “tâm”, không được đem “tà tâm” gửi vào tác phẩm của mình. Bởi, sáng tác về các anh hùng dân tộc là sáng tác những hình tượng nghệ thuật, mà qua đó khái quát nên những quy luật lịch sử, những bài học nhân sinh một cách gián tiếp theo phương thức tiếp nhận đặc thù của nghệ thuật. Xây dựng hình tượng người anh hùng dân tộc trong các tác phẩm văn học, nghệ thuật là một hình thức giáo dục sinh động, dễ nhớ và gây ấn tượng sâu sắc để người đọc, người xem hiểu biết đầy đủ những giá trị lịch sử truyền thống của các thế hệ đi trước, xây dựng lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý thức, trách nhiệm tiếp tục phát huy giá trị truyền thống đó. Trên cơ sở quan điểm, lý tưởng thẩm mỹ và sự cảm nhận sâu sắc, lòng biết ơn, sự ngưỡng mộ những anh hùng dân tộc, bằng tài năng sáng tạo và trách nhiệm công dân của mình, văn nghệ sĩ cần tạo ra các tác phẩm văn học - nghệ thuật về những nhân vật lịch sử này để góp phần nâng cao nhận thức, giáo dục, định hướng cho con người vươn tới. Do đó, hư cấu về anh hùng dân tộc trong văn học, nghệ thuật tuyệt nhiên không phải là phóng đại, bịa đặt, gán ghép cho nhân vật lịch sử những chi tiết về tính cách, tình cảm, tư tưởng xa lạ. Ngược lại, hư cấu luôn phải được kiểm soát bằng lô-gic của nghệ thuật và lịch sử. Qua sự hư cấu hình tượng những anh hùng dân tộc mà tác động vào tư tưởng, tình cảm con người, tạo nên những ấn tượng sâu sắc, thấm thía, lâu bền; không gò bó, áp đặt, mà tự nguyện, tự giác, tự cảm hóa, khuyên răn con người. Đó là quá trình tự giáo dục, tự trải nghiệm, tự thừa nhận, tự điều chỉnh hành vi của mình theo những chuẩn mực đạo đức của các hình tượng nghệ thuật mà tác phẩm đó xây dựng nên. Con người sẽ tự rút ra bài học, tự điều chỉnh hành vi, lối sống để hoàn thiện mình hơn trong cuộc sống.
Là quốc gia có vị thế địa chính trị quan trọng, đất nước và con người Việt Nam luôn gắn liền với bề dày lịch sử hào hùng, với nhiều biến động, nhiều sự kiện, thời khắc cá nhân anh hùng mang dấu ấn thời đại. Ðây chính là nền tảng, là kho tư liệu vô giá để gợi mở nhiều cảm hứng sáng tác cho đội ngũ văn nghệ sĩ. Trong bầu không khí đổi mới của đất nước hơn 30 năm qua, văn học - nghệ thuật Việt Nam đã có những tác phẩm tìm tòi sáng tạo theo khuynh hướng này và đạt được những giá trị tư tưởng, giá trị nghệ thuật nhất định. Những tác phẩm ấy đã phần nào giúp công chúng tiệm cận gần hơn với các bậc vĩ nhân, anh hùng dân tộc, nhân vật lịch sử,… khi họ được miêu tả gần hơn với cuộc sống đời thường, để công chúng chiêm ngưỡng và học tập; qua đó, góp phần vun đắp cho một hiện tại tốt đẹp hơn. Nhưng thực tiễn sáng tạo văn chương nói chung, sáng tạo nghệ thuật về các anh hùng dân tộc nói riêng lại chưa đáp ứng được kỳ vọng của xã hội, của cộng đồng thưởng thức, chưa sánh vai được với một số quốc gia trong khu vực. Hiện nay, chúng ta đang thiếu hẳn tác phẩm lịch sử có giá trị nhân văn sâu sắc về các anh hùng dân tộc, như: “Lá cờ thêu sáu chữ vàng”, “Trăng nước Chương Dương”, “Ông trạng thả diều”, v.v. Trong khi đó, những tác phẩm như kiểu “Trở lại Lệ Chi Viên” của Nguyễn Thúy Ái1 đã hư cấu theo kiểu “thêm râu thêm ria” với những chi tiết xúc phạm Danh nhân văn hóa, Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Thật không thể chấp nhận được khi Nguyễn Trãi trong tác phẩm đó lại là con người háo danh, mưu mô với những mưu đồ chính trị đen tối, v.v. Thực chất, đây chính là sự lợi dụng văn học - nghệ thuật để xuyên tạc, bóp méo lịch sử, làm biến dạng anh hùng dân tộc, làm tầm thường hóa cái cao cả, gây tổn thương lương tri, đạo lý dân tộc. Và đó sẽ là những nhân tố, những điều kiện để các thế lực đen tối, phần tử phản động,... mượn cớ để xét lại lịch sử, phủ nhận truyền thống, đạo lý của dân tộc; dần dần làm phai nhạt, dẫn đến mất dần nền văn hóa tốt đẹp, truyền thống hào hùng hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Những tư tưởng, hành động đó cần được cả xã hội kiên quyết đấu tranh, lên án, làm cho chúng không có “mảnh đất dung thân”, để cùng nhau xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại.

XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH


(TG) - Qua thực tiễn xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố; quyền con người, quyền công dân được bảo đảm tốt hơn; tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành của hệ thống chính trị từng bước được đổi mới, hoàn thiện, nâng cao hiệu quả. 
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm chăm lo xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Từ khi giành được chính quyền, Đảng vừa là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị, vừa là hạt nhân lãnh đạo hệ thống ấy. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh chi phối tính chất, mục tiêu, nhiệm vụ, hiệu quả xây dựng hệ thống chính trị. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động các tổ chức của hệ thống chính trị chính là thước đo năng lực lãnh đạo, uy tín, vị thế, địa vị cầm quyền của Đảng.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quyết định bảo đảm sự thành công của công cuộc đổi mới. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị là nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng, tăng cường hiệu lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính đồng bộ, phù hợp giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị.
Trên cơ sở kiên trì các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản, công tác xây dựng Đảng được tiến hành trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Xây dựng Đảng về chính trị đã giúp giữ vững, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng; kiên định các nguyên tắc nền tảng; tăng cường bản lĩnh chính trị; nâng cao chất lượng đường lối, chính sách. Công tác tư tưởng, lý luận được tăng cường đã tạo sự thống nhất trong Đảng và đồng thuận xã hội trước những vấn đề lớn của đất nước, của công cuộc đổi mới; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; tìm tòi, bổ sung và phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tổ chức đảng và hệ thống chính trị có bước đổi mới quan trọng, từ thể chế, tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành, đến nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược; chỉnh đốn lề lối, tác phong công tác; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, lãng phí; tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng được đặc biệt coi trọng, có tác dụng quan trọng trong đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên. Qua thực tiễn xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố; quyền con người, quyền công dân được bảo đảm tốt hơn; tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành của hệ thống chính trị từng bước được đổi mới, hoàn thiện, nâng cao hiệu quả.
Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là nhân tố quyết định tạo nên những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới ở Việt Nam hơn 30 năm qua. Thông qua xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam trưởng thành hơn trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, khơi dậy tiềm năng sáng tạo, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khuyến khích nhân dân tham gia xây dựng Đảng và quản lý Nhà nước.
Tuy nhiên, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị cũng bộc lộ những yếu kém, khuyết điểm: năng lực dự báo, định hướng chính sách, thể chế hóa, cụ thể hóa để tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, còn khoảng cách với đòi hỏi của thực tiễn. Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội chưa nâng lên kịp với đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới. Bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể chậm được sắp xếp lại cho tinh giản và nâng cao chất lượng, còn nhiều biểu hiện quan liêu, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân. Công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, thay thế, trẻ hoá, chuẩn bị cán bộ kế cận còn lúng túng, chậm trễ. Quản lý, giáo dục đảng viên chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả chưa cao. Năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hoá về phẩm chất đạo đức; sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở Đảng chưa cao. Chất lượng sinh hoạt Đảng, tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu, thực hiện trách nhiệm nêu gương của đảng viên nhiều nơi thiếu nền nếp, chưa trở thành ý thức tự giác. Chưa đạt hiệu quả cao trong đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; chưa phân định rõ vai trò lãnh đạo tập thể và trách nhiệm cá nhân; thực hiện kiểm soát quyền lực chưa tốt. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” chậm được thể chế hóa một cách đồng bộ. Còn nhiều yếu kém trong quản lý kinh tế - xã hội, để nhiều vụ việc tồn đọng kéo dài, chậm được xử lý, gây bức xúc trong nhân dân.
Hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay còn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng. Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa không giữ đúng kỷ cương, phép nước xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị chưa được xác định rành mạch, trách nhiệm không rõ; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào tạo, bồi dưỡng; chính sách đối với cán bộ cơ sở còn chắp vá. Có thể khẳng định, trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, cùng với đổi mới nền kinh tế, từng bước đổi mới kiện toàn hệ thống chính trị là đòi hỏi khách quan, yêu cầu cấp bách.

XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, PHÁT HUY SỨC MẠNH KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC
Để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần tập trung một số nhiệm vụ trọng tâm như sau:
Thứ nhất, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Theo đó, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đảng ta kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới và chủ trương: “Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(1).
Bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp phải được nâng cao; không dao động trong bất cứ tình huống nào. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên phải được giữ vững.
Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách của Đảng phù hợp với quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng phục vụ yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị, phù hợp với từng giai đoạn, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội;
Tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; coi đó là công việc thường xuyên của tổ chức đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội các cấp, các địa phương, đơn vị và cần gắn với thực hiện các Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và khóa XII về công tác xây dựng Đảng, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng.
Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi với làm. Thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát của tổ chức đảng, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân về phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. 
Củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân. Giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, những kiến nghị chính đáng của nhân dân và khiếu nại, tố cáo của công dân.
Tăng cường thực hiện tổ chức trao đổi, đối thoại với nhân dân theo Quy định 11-QĐi/TW ngày 18-2-2019 của Bộ Chính trị về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, phát huy mạnh mẽ vai trò, hiệu lực của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, có hiệu lực và hiệu quả.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội. Bãi bỏ những thủ tục hành chính gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp.
Đề cao đạo đức công vụ, trách nhiệm xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo và thực thi công vụ của cán bộ, công chức. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp, ngang tầm yêu cầu của giai đoạn mới. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ, công chức.
Thứ ba, tiếp tục củng cố, tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng bảo vệ Tổ quốc.
Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Tổ chức thực hiện tốt Quyết định số 217-QĐ/TW về giám sát và phản biện xã hội và Quyết định số 218-QĐ/TW về tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, cần “tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”(2).
Khắc phục những hạn chế, bảo đảm tác dụng, hiệu quả thực chất hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; tạo sự đồng thuận trong toàn xã hội. Để tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, cần hoàn thiện cơ chế, quy chế và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc tự phê bình, phê bình, chất vấn trong các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp. Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả cơ chế phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng.
Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, nhất là nội dung Nhân dân làm chủ và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Để Nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân, đoàn kết được toàn dân, cần đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quốc hội thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao, nhất là đối với việc quản lý, sử dụng các nguồn lực của đất nước Hoàn thiện thể chế hành chính dân chủ - pháp quyền, quy định trách nhiệm và cơ chế giải trình của các cơ quan nhà nước; giảm mạnh, bãi bỏ những thủ tục hành chính gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp.
Đề cao đạo đức công vụ, trách nhiệm xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo và thực thi công vụ của cán bộ, công chức; đẩy nhanh việc áp dụng mô hình chính phủ điện tử. 
______________________
(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2016, tr.160, 159.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...