Thứ Tư, 21 tháng 8, 2019

PHẢI CHĂNG Ở VIỆT NAM CHỈ CÓ ĐỔI MỚI KINH TẾ, KHÔNG CÓ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ



                                                                                         Tất Thắng
Cùng với những thành tựu to lớn trong tiến trình đổi mới toàn diện đất nước 30 năm qua nói chung và sự đúng đắn trong nhận thức, tư duy về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta nói riêng, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng từng bước giải quyết hài hòa, linh hoạt, sáng tạo và có hiệu quả mối quan hệ giữa hai lĩnh vực cơ bản này; góp phần quan trọng vào thành tựu chung của sự nghiệp đổi mới đất nước. Mặc dù vậy, thực tế vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định trong quá trình nhận thức và xử lý mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta. Song nếu chỉ dựa vào những khiếm khuyết (mặt thứ yếu, không cơ bản) của vấn đề này mà lại vội vàng quy chụp cho rằng, ở Việt Nam chỉ có đổi mới kinh tế, không có đổi mới chính trị; hoặc đổi mới chính trị “lệch pha” so với đổi mới kinh tế,… thì quả là một sự “ngụy biện” có chủ đích; một sự xuyên tạc, bó mép trắng trợn, thô thiển của các thế lực thù địch.
Bởi lẽ, sự kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, sự thống nhất biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là nét độc đáo riêng có của Việt Nam, hoàn toàn khác với Liên Xô, với các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây, cũng như khác ngay cả với Trung Quốc. Nếu như ở Liên Xô, ngay trong bước đầu của cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã đi vào cải tổ chính trị, nêu ra dân chủ hóa, công khai hóa; hơn nữa, lại để phong trào phát triển vô chính phủ, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tách Đảng khỏi Nhà nước, tách Nhà nước ra khỏi Đảng, nêu khẩu hiệu Đảng hóa thân vào Nhà nước. Xét đến cùng, đây là sự vô hiệu hóa Đảng, nên đã dẫn đến tan vỡ Đảng, sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa và sự tan rã của Liên bang Xô Viết. Trong khi đó, Trung Quốc ngay từ đầu đã tiến hành đồng bộ cải cách thể chế chính trị với cải cách kinh tế, chính vì vậy đã tạo sự phát triển ấn tượng. Nhưng, sau sự kiện năm 1989, tốc độ cải cách chính trị có phần chững lại, không theo kịp đà cải cách và phát triển trong lĩnh vực kinh tế. Bất cập này đã tác động bất lợi đến sự phát triển kinh tế, làm nảy sinh các tiêu cực và nhiều vấn đề khác như phân hóa xã hội, gia tăng bất bình đẳng về thu nhập,... Trái lại, ở Việt Nam, ngay từ khi đề ra đường lối đổi mới cũng như trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta xác định: “Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị”[1]; “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị”[2]; “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp”[3], v.v..
Điều đó có nghĩa, công cuộc đổi mới ở nước ta vừa có đổi mới kinh tế, vừa có đổi mới chính trị. Đổi mới kinh tế không phải là đổi mới một cách tùy tiện, vô nguyên tắc mà theo một định hướng chính trị nhất định. Đổi mới, phát triển kinh tế tạo ra môi trường và điều kiện để củng cố cơ sở kinh tế cho đổi mới chính trị, là nhân tố suy đến cùng quyết định sự ổn định chính trị - xã hội. Ngược lại, đổi mới chính trị lại tạo ra cơ sở chính trị - pháp lý cho sự phát triển kinh tế; đồng thời tạo động lực và gia tăng sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế.
Với những luận chứng, luận cứ trên chứng minh rõ ràng rằng, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam luôn song hành, hỗ trợ, bổ sung cho nhau; làm cơ sở, tiền đề, điều kiện của nhau; luôn có mối quan hệ biện chứng và thống nhất hữu cơ với nhau.


[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 54.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1996, tr. 71.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 99.

PHÊ PHÁN LUẬN ĐIỆU CHO RẰNG “HỒ CHÍ MINH LÀ NHÀ DUY TÂM ĐẠO ĐỨC”



                                                                                                         Tất Thắng                                     
          Với mưu đồ đen tối hòng bôi nhọ uy tín, xóa bỏ những cống hiến to lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã và đang có không ít quan điểm, luận điệu cho rằng: “Hồ Chí Minh luôn đề cao thái quá, tuyệt đối hóa đạo đức nên rõ ràng là một nhà duy tâm chủ nghĩa”, “nhà duy tâm đạo đức”. Vì theo họ, lý luận mác xít đã chỉ ra, đạo đức là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng của xã hội, là một trong những hình thái ý thức xã hội. Tức là mặt tinh thần của đời sống xã hội.
          Đúng là Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới vấn đề đạo đức nói chung, và việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói riêng; coi đó là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước. Song, điều đó không phải một sự ngẫu nhiên hay là chủ quan duy ý chí của Người. Trái lại, cơ sở hiện thực và tính khoa học, cách mạng trong hệ thống quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức đã khẳng định rõ điều này.
Với tư duy khoa học và tầm nhìn chiến lược cùng với sự mẫn cảm chính trị sâu sắc, Người đã tiên lượng, sớm chỉ ra và cảnh báo nguy cơ cán bộ, đảng viên dễ mắc phải “căn bệnh” suy thoái đạo đức, chủ nghĩa cá nhân. Bởi họ nắm trong tay “chìa khóa” của quyền lực, lại phải thường xuyên đối mặt với cạm bẫy và cám dỗ về lợi ích vật chất, nên đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên lãnh đạo, quản lý cơ bản đứng trước nguy cơ bị thoái hóa, biến chất về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống,… Trong điều kiện Đảng cầm quyền, nguy cơ đó sẽ ngày càng tăng nếu mỗi cán bộ, đảng viên xem thường việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của bản thân. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn coi trọng và đặt ra yêu cầu cao đối với cán bộ, đảng viên về việc tích cực tu dưỡng, rèn luyện đạo đức.
Mặt khác, đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh là nền "đạo đức cách mạng, là đạo đức mới chứa đựng trong đó tất cả tính khoa học và cách mạng của nó. Đạo đức đó không phải là đạo đức cũ - đạo đức thủ cựu. Đạo đức cũ, thủ cựu là đạo đức của giai cấp bóc lột, là công cụ tinh thần để thống trị, bóc lột nhân dân lao động và chỉ phục vụ cho lợi ích, danh vọng của giai cấp ấy. Ngược lại, ở Hồ Chí Minh đó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người. Đó là nền đạo đức mang bản chất của giai cấp công nhân, có tính dân tộc và nhân dân sâu sắc, có tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung.
Các chuẩn mực của nền đạo đức mới được xác lập trên lập trường của giai cấp công nhân, của Đảng Cộng sản Việt Nam, phù hợp với lợi ích của cách mạng, của dân tộc và của nhân loại mà thực chất là hướng tới giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, hướng tới phục vụ Đảng, phục vụ cách mạng và phụng sự Tổ quốc theo lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Bất cứ suy nghĩ, hành động nào nhằm những mục đích cao cả đó đều là chân thực nhất, thiện nhất và đẹp nhất. Mọi suy nghĩ, hành động đi ngược lại những mục đích cao cả đó đều là giả dối nhất, độc ác nhất và xấu xa nhất.
Bên cạnh đó, Người còn khẳng định, đạo đức không phải có sẵn trong con người, lại càng không phải do "Thượng đế" ban cho, mà là kết quả của quá trình đấu tranh, tu dưỡng thường xuyên, kiên trì và bền bỉ trong mọi mặt của đời sống xã hội. Nói cách khác, để có đạo đức theo Hồ Chí minh con người phải phấn đấu tu dưỡng sao cho phần thiện ngày càng nảy nở như hoa mùa xuân, còn phần ác ngày càng mất dần đi.
Đặc biệt, tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức trên thực tế đã trở thành một trong những phương châm chỉ đạo, kim chỉ nam và “cẩm nang” để Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng quán triệt, vận dụng vào quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng nói chung, công tác xây dựng Đảng nói riêng; qua đó góp phần quan trọng vào thắng lợi vẻ vang trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và đưa lại những thành công to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới đất nước hơn 30 năm qua.
Rõ ràng, những phân tích, lập luận với đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn, những bằng chứng và chỉ dẫn đầy sức thuyết phục nói trên đã chứng tỏ các quan điểm, luận điệu của những kẻ cơ hội chính trị, thù địch đã, đang cố tình cho rằng “Hồ Chí Minh đề cao đạo đức là duy tâm” là một sự xuyên tạc, sai trái.

CUỘC CHIẾN CHỐNG “GIẶC NỘI XÂM” ĐANG MANG LẠI KẾT QUẢ TỐT


QĐND - Một số phần tử phản động, thế lực thù địch bên ngoài và một số người bất đồng chính kiến đang cố tình xuyên tạc, hiểu sai cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay tại Việt Nam với các luận điệu như: Chống tham nhũng vẫn có giới hạn, vẫn có vùng cấm không được đụng tới; cuộc chiến chống tham nhũng không hiệu quả; nhân dân không tin tưởng vào thành công của cuộc đấu tranh này; chế độ độc đảng lãnh đạo là cái gốc sinh ra tham nhũng... Nhưng thực tế đã chứng minh không phải như vậy.
Tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”
Cuộc đấu tranh hay cuộc chiến đấu chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay là cuộc chiến đấu sống còn của toàn Đảng, toàn dân đối với “giặc nội xâm” để củng cố niềm tin trong toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chính vì vậy, cuộc tiễu trừ “giặc nội xâm” đang được thực hiện từng bước chắc chắn, rất quyết liệt và không khoan nhượng. Từ nhiệm kỳ Đại hội Đảng XI đến nay, các vụ án kinh tế lớn, những sai phạm nghiêm trọng liên quan đến những vị “lãnh đạo to”, các “dây lợi ích” mà theo suy nghĩ trước đây thì dường như khó đụng tới, nay đã được đưa ra xét xử nghiêm minh với các mức án nghiêm khắc. Trong đó, Dương Chí Dũng, từng giữ chức Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam, từng là Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) bị tuyên án tử hình về tội tham ô, bị yêu cầu bồi thường 110 tỷ đồng.
Đặc biệt, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng tới nay, cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực càng thể hiện rõ tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”. Ngay đầu nhiệm kỳ, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (nay là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước), Trưởng ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã thể hiện rõ tinh thần này: “Từ nay trở đi, bất cứ trường hợp nào mà vi phạm kỷ luật, chúng ta phải xử lý nghiêm, làm nghiêm từ trên xuống dưới để giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng, để lấy lại và củng cố lòng tin và tình thương yêu, quý trọng của nhân dân”.
Từ cựu Ủy viên Bộ Chính trị như ông Đinh La Thăng, đến hai cựu Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn, rồi hai cựu Thứ trưởng Bộ Công an là Trần Việt Tân, Bùi Văn Thành đều bị xử lý nghiêm khắc vì tham nhũng, vi phạm pháp luật... Người nhà của một vài đồng chí nguyên Ủy viên Bộ Chính trị cũng đã bị bắt do vi phạm pháp luật. Như thế là cả cấp Ủy viên Bộ Chính trị, bộ trưởng, cán bộ cao cấp của lực lượng vũ trang cũng bị kỷ luật, bị xử tù nếu tham nhũng, vi phạm pháp luật. Không có vị trí an toàn, khu vực an toàn và cũng không còn khái niệm “hạ cánh an toàn”, hàng loạt cán bộ đã nghỉ hưu mà bị phát hiện có sai phạm trong thời gian đương chức vẫn bị đưa ra kỷ luật. Mới nhất là nguyên Phó thủ tướng Vũ Văn Ninh bị Bộ Chính trị kỷ luật cảnh cáo; nguyên Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Hồng Trường bị kỷ luật cách chức Ủy viên Ban cán sự đảng Bộ Giao thông vận tải (nhiệm kỳ 2011-2016, 2016-2021) về các sai phạm khi còn đương chức... Thậm chí, đảng viên vi phạm đặc biệt nghiêm trọng thì dù đã qua đời vẫn kiểm tra, kết luận và xử lý kỷ luật. Điều này được nêu rõ trong Văn bản số 04-HD/UBKTTW hướng dẫn thực hiện một số điều trong Quy định số 102-QĐ/TW của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm. Như thế là quy định của Đảng liên quan đến xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm đã nghiêm khắc hơn, mang tính răn đe cao hơn so với các quy định của pháp luật áp dụng cho các công dân. Điều này là hoàn toàn sáng suốt, thể hiện rõ tính tiên phong, tính gương mẫu của Đảng trong mọi vấn đề, trong đó có cả việc xử lý sai phạm.  
Hiệu quả thấy rõ của cuộc đấu tranh
Đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, có cảm nhận việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng (PCTN) ở cấp Trung ương cương quyết hơn, “nóng” hơn, còn các cấp dưới có vẻ như “lạnh” hơn, chủ yếu là thụ động chờ các hành động của trên thì nay, tổ chức đảng ở các địa phương cũng đã chủ động PCTN, tiêu cực trong hệ thống. Điều này cho thấy, công tác PCTN đã lan tỏa, trên đã quyết tâm thì dưới dứt khoát phải chuyển động. Cụ thể như, Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội vừa kỷ luật một số cán bộ của huyện Phúc Thọ, trong đó cách chức tất cả chức vụ trong Đảng đối với ông Hoàng Mạnh Phú, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện Phúc Thọ do có sai phạm nghiêm trọng trong chỉ đạo, quản lý, để xảy ra vi phạm tại một số dự án đầu tư xây dựng trên địa bàn huyện trong thời gian ông này là Chủ tịch UBND huyện. 6 tháng đầu năm 2019, các địa phương đã khởi tố 176 vụ án/425 bị can về các tội tham nhũng, chức vụ (tăng 13,5% về vụ và 32,8% về số bị can so với cùng kỳ năm 2018).
Một khí thế chống tham nhũng, tiêu cực đang dâng cao trên khắp cả nước. Theo báo cáo tại phiên họp thứ 16 Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, từ đầu năm 2019 đến nay, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 123 tổ chức đảng và 7.923 đảng viên; trong đó có 256 đảng viên bị kỷ luật do có hành vi tham nhũng, cố ý làm trái. Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật đối với 1 tổ chức đảng, 13 đảng viên thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, cả đương chức và đã nghỉ hưu. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, hơn 70 cán bộ, đảng viên thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý bị thi hành kỷ luật Đảng và xử lý hình sự. Cơ quan thanh tra, kiểm toán kiến nghị thu hồi, xử lý 61.392 tỷ đồng và 142ha đất; kiến nghị xử lý kỷ luật hành chính 692 tập thể và nhiều cá nhân; chuyển cơ quan điều tra xem xét xử lý 46 vụ, 73 đối tượng. Thanh tra Chính phủ tập trung thanh tra, ban hành kết luận thanh tra các dự án, vụ việc theo kế hoạch của Ban chỉ đạo.
Thời gian qua, việc kê biên, thu giữ tài sản trong một số vụ án tham nhũng, kinh tế lớn đạt kết quả khá cao. Cụ thể, vụ Giang Kim Đạt thu hồi hơn 300 tỷ đồng; vụ Hứa Thị Phấn hơn 10.000 tỷ đồng; vụ Ngân hàng Đông Á hơn 2.000 tỷ đồng; vụ Phạm Công Danh (giai đoạn I) hơn 6.000 tỷ đồng; vụ AVG hơn 8.500 tỷ đồng… Theo báo cáo tại phiên họp thứ 16 Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, hiện nay, việc tạm giữ, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, ngăn chặn giao dịch, chuyển nhượng tài sản liên quan các vụ án thuộc diện Ban chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo có giá trị tài sản hơn 10.000 tỷ đồng.
Sự quyết liệt đấu tranh khiến tham nhũng đang từng bước được đẩy lùi. Theo báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2018 được công bố vào tháng 3 vừa qua thì hiện tượng “tham nhũng vặt” (chi phí "bôi trơn" quy mô nhỏ mà doanh nghiệp phải chi trả để xin cấp các loại giấy phép) trong năm 2018 đã giảm so với thời kỳ trước, với chỉ 54,8% doanh nghiệp phải chi trả chi phí không chính thức, thấp nhất trong 5 năm trở lại đây. Quy mô chi trả chi phí không chính thức có xu hướng giảm, khi chỉ có 7,1% doanh nghiệp cho biết phải chi trả hơn 10% doanh thu cho các loại chi phí không chính thức (năm 2015 là 11,1% doanh nghiệp). Trong các cuộc tiếp xúc cử tri, ý kiến chung của cử tri và nhân dân đều tỏ ý tin tưởng rằng với sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, sự hoàn thiện các quy định của Đảng, của pháp luật (Quy định số 102-QĐ/TW của Bộ Chính trị; Luật PCTN đã được ban hành...) và kiên quyết xử lý sai phạm thì tham nhũng dứt khoát sẽ bị đẩy lùi.
Thể chế chính trị không phải là bản chất tạo ra tham nhũng
Hiện nay có ý kiến sai trái cho rằng, chế độ độc đảng lãnh đạo là căn nguyên tạo ra tham nhũng. Muốn hiểu về vấn đề này chúng ta phải nhìn nhận bản chất của tham nhũng là gì? Karl Marx cũng giống như nhiều nhà triết học phương Tây đã cho rằng, động lực sâu xa thúc đẩy con người hoạt động chính là lợi ích. Mà con người thường có xu hướng muốn tối ưu hóa lợi ích của cá nhân mình, từ đó có thể làm xâm hại đến lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng, lợi ích quốc gia, dân tộc. Từ đó phải có giải pháp để điều chỉnh lợi ích của cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bản chất của tham ô là lấy của công làm của tư, là gian lận, là tham lam, là trộm cướp”. Như thế, hành vi tham ô, tham nhũng liên quan đến tư cách đạo đức của con người chứ không liên quan đến thể chế chính trị. Bởi vì, dù thể chế chính trị gì, nhưng nếu con người không được giáo dục tốt từ gia đình, nhà trường, xã hội; không có một hệ thống pháp luật tốt để ngăn chặn, răn đe, công tác quản lý nhà nước bị buông lỏng thì tham nhũng sẽ có cơ hội hoành hành.
Nhìn rộng ra thế giới, không một quốc gia nào, thuộc chế độ chính trị nào có thể tự hào là miễn nhiễm đối với tham nhũng. Nước Mỹ cũng luôn đau đầu bởi vấn nạn tham nhũng. Theo thống kê của Đại học Illinois, thủ đô Washington D.C và các thành phố lớn, như: Chicago, Los Angeles, Manhattan, Miami có số công chức bị kết tội tham nhũng rất cao. Theo đó, giai đoạn từ năm 1976 tới năm 2016, Chicago có hơn 1.700 công chức bị xử lý, cao nhất tại Mỹ. Los Angeles đứng thứ hai với hơn 1.500 công chức bị xử lý. Manhattan đứng thứ ba với hơn 1.300 công chức. Đứng thứ tư và thứ năm lần lượt là Miami với 1.165 công chức và Washington D.C với gần 1.200 công chức. Nếu so sánh các bang trên bình quân đầu người (số người bị kết tội trong 10.000 dân), Columbia là bang có tình trạng tham nhũng tồi tệ nhất tại Mỹ vì cứ 10.000 dân lại có 17,24 công chức bị kết tội. Như thế, mặc dù Mỹ có rất nhiều đảng phái cạnh tranh với nhau, giám sát nhau, hệ thống pháp luật khá hoàn thiện, nhưng tình trạng tham nhũng vẫn nghiêm trọng. Hay tại châu Âu, nơi đại đa số các quốc gia theo chế độ đa đảng thì theo báo cáo về tham nhũng của Đảng Xanh châu Âu (European Green Party) công bố cuối năm 2018 cho biết một thực trạng tồi tệ, đó là các quốc gia thành viên của EU mất tới 900 tỷ euro (khoảng 1.000 tỷ USD) mỗi năm vì tham nhũng. Trước đó, báo cáo chống tham nhũng của Liên minh châu Âu (EU) năm 2014 cho hay, tham nhũng gây thiệt hại cho nền kinh tế khu vực này khoảng 120 tỷ euro mỗi năm. Như thế, chống tham nhũng là cuộc đấu tranh, là cuộc chiến mà mọi quốc gia đều phải tiến hành.
Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện tốt cuộc đấu tranh PCTN nếu luôn giữ vững quyết tâm cao trong toàn Đảng, toàn dân. Cùng với nâng cao chất lượng công tác giáo dục công dân, hoàn thiện các quy định của Đảng và hệ thống pháp luật, bịt các kẽ hở của luật pháp, thì việc kiên quyết trừng phạt hành vi tham nhũng, tội phạm tham nhũng sẽ làm cho những người thực thi công vụ “không thể tham nhũng, không dám tham nhũng và không muốn tham nhũng”.

CHƯƠNG TRÌNH GIAO LƯU ĐIỂN HÌNH TOÀN QUỐC TRONG HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH


TCCSĐT - Thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; nhân dịp sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW và 50 năm thực hiện Di chúc của Người, ngày 19-8-2019, tại Hà Nội, Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức Chương trình giao lưu toàn quốc các điển hình tiên tiến tiêu biểu trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2019 với tên gọi “Hồ Chí Minh - Hành trình khát vọng”.
Tham dự Chương trình có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Chính phủ; Trần Quốc Vượng, Thường trực Ban Bí thư;  Võ Văn Thưởng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Nguyễn Văn Bình, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương; các đồng chí Bí thư Trung ương Đảng: Trần Thanh Mẫn, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Nguyễn Hòa Bình, Chánh án Toà án nhân dân tối cao; lãnh đạo một số bộ, ngành Trung ương, lãnh đạo Ban Tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy và đặc biệt là sự có mặt của các điển hình tiên tiến trong toàn quốc về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh vai trò lãnh tụ thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã để lại cho thế hệ hôm nay và mai sau một di sản tinh thần vô cùng quý báu, đó là tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và lâu dài của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan, đơn vị và của từng cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước ta.
Đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ đã nêu bật những kết quả quan trọng trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bước đầu ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nội dung sinh hoạt chính trị, văn hóa quan trọng này ngày càng sâu rộng, trở thành công việc thường xuyên, tự giác, thiết thân của mỗi người, mỗi nhà, mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương. Kết quả của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng nếp sống văn hóa mới, củng cố nền tảng tư tưởng và đạo đức trong toàn xã hội, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về việc tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hăng hái phấn đấu thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nhiệt liệt chúc mừng và biểu dương các tập thể, cá nhân đại diện các điển hình tiêu biểu trong cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế tham dự cuộc gặp mặt này. Thông qua các tập thể, các cá nhân tiêu biểu, những tấm gương sáng trong học tập và làm theo Bác, những câu chuyện cảm động về tình yêu quê hương, đất nước, yêu thương con người, về đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư sẽ được lan tỏa trong đời sống xã hội, tạo động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước, góp phần khẳng định, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, để chúng ta sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ hằng mong ước.
Để việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đạt được kết quả cao hơn nữa, ngày càng có nhiều điển hình tiên tiến, nhiều nhân tố mới, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh, cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục để cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân nhận thức sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, của nền văn hóa và con người Việt Nam; tiếp tục xây dựng và nhân rộng hơn nữa các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước của các cấp, các ngành trong mọi tầng lớp nhân dân, trên tất cả các lĩnh vực, đồng thời nghiêm khắc phê bình, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, nói không đi đôi với làm, kiên quyết đẩy lùi nạn tham nhũng, quan liêu, thói vô cảm, vô trách nhiệm, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đấu tranh với các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội.
Sau bài phát biểu của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc là phần giao lưu với các điển hình tiên tiến trong học và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác. Đó là những con người tiêu biểu, bình dị mà cao quý, thuộc các giới, tầng lớp khác nhau với tấm lòng kính yêu Bác Hồ, mong muốn được học và làm theo Bác, đã cố gắng, nỗ lực vươn lên với một khát vọng mạnh mẽ, đạt nhiều thành tích trong học tập và công tác, giúp ích cho cộng đồng và xã hội. Đó là những câu chuyện, phóng sự, những chia sẻ hết sức dung dị, chân thành của bác Ngô Văn Đậu, một nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi, một người có tấm lòng thiện nguyện, luôn giúp đỡ người nghèo; của họa sĩ Đặng Ái Việt, ở tuổi thất thập cổ lai hy, nhưng bà đã rong ruổi khắp các cung đường khói bụi dọc đất nước để vẽ chân dung Mẹ Việt Nam Anh hùng; của Anh hùng Lao động, Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Đức Thìn, bằng nghị lực thép, đã vượt qua và chiến thắng bệnh tật để đến nay là một hướng dẫn viên của khu di sản, tâm linh Đền Đô, xã Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, người hơn nửa thế kỷ trước đã khởi xướng phong trào “nghìn việc tốt” làm nức lòng đồng bào cả nước; qua câu chuyện của cựu tù chính trị Côn Đảo, Tiến sĩ sử học, Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới Bùi Văn Toản, người đã sống, chiến đấu kiên cường trong nhà tù Côn Đảo, nơi được mệnh danh là “địa ngục trần gian” để giữ vững khí tiết của người cộng sản và rất nhiều tấm gương khác. Những câu chuyện, chia sẻ của các điển hình tiên tiến trong buổi giao lưu thật sự xúc động, chạm tới trái tim của tất cả mọi người. Họ là những tấm gương sáng về nghị lực, tinh thần vượt qua khó khăn, gian khổ để sống, chiến đấu, học tập, cống hiến, noi gương Bác Hồ vĩ đại, xứng đáng là những bông hoa đẹp nhất trong học tập và noi gương Bác.Cũng tại buổi giao lưu này, thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng đã trao bằng khen cho các điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.


THỰC HIỆN KHÁT VỌNG "BẮC NAM SUM HỌP MỘT NHÀ" THEO DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH



(TG)- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa tròn 50 năm, song khát vọng và nỗ lực hoạt động của Người trong hành trình đấu tranh vì độc lập, tự do, thống nhất đất nước vẫn trường tồn. 50 năm sau, sức mạnh toàn dân đoàn kết - kết tinh bản lĩnh, trí tuệ, ý chí và sức mạnh nội sinh dân tộc Việt dưới sự lãnh đạo của Đảng ta để thực hiện thắng lợi hoài bão của Người vẫn đồng hành cùng dân tộc trên hành trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng của mọi người dân Việt Nam yêu nước; là mục tiêu phấn đấu, thể hiện rõ trong mọi thời điểm và trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Vì vậy mà, trong những thời điểm khác nhau, phát biểu ở các diễn đàn khác nhau, nhưng hoài bão của Người về một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất đều thể hiện sự nhất quán, xuyên suốt, đó là: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”[1](12/1920); “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” (9/1945); “Kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”(1946), “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” (7/1966); “Tiến lên! Chiến sĩ đồng bào/Bắc Nam sum họp/Xuân nào vui hơn” (Thơ mừng xuân 1969); “Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà” (Di chúc, 1969),v.v..

Trong hành trình hoạt động cách mạng và đấu tranh để đạt được hoài bão đó, Người đã không chỉ đến với chủ nghĩa Mác- Lênin mà còn truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin về Việt Nam - vào trong phong trào công nhân và phong trào đấu tranh yêu nước; chuẩn bị về mọi mặt và sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam; đào tạo đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa hồng vừa chuyên; tập hợp, cổ vũ, động viên quần chúng nhân dân tham gia đấu tranh cách mạng trong Mặt trận dân tộc thống nhất, trong các đoàn thể chính trị, các hình thức hội phù hợp yêu cầu từng giai đoạn cách mạng để nhân nguồn sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc…

Ngay sau khi ra đời ngày 3/2/1930, trong Cương chính trị đầu tiên, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định đường lối cách mạng Việt Nam là trải qua hai giai đoạn: trước hết là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa, thực hiện chủ nghĩa cộng sản ở nước ta. Vì độc lập, tự do của Tổ quốc, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tập hợp quần chúng, đã lãnh đạo và đưa quần chúng ra đấu tranh với tinh thần và ý chí “toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Người đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mùa Thu năm 1945, sáng lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; đồng thời, khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và dân tộc. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”[2] trong bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945.

Tuy nhiên, trước dã tâm xâm lược của thực dân Pháp và trước nguy cơ mất nước một lần nữa; trân trọng giá trị thiêng liêng của độc lập, tự do và không cam tâm làm nô lệ, với tinh thần và ý chí “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, hưởng ứng lời hịch cứu nước của Người: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”, toàn thể nhân dân Việt Nam đã quyết tâm “thà hy sinh tất cả, nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[3]. Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp đầy khó khăn, thử thách ấy, không chỉ đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn, Người và Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, cổ vũ, động viên đồng bào và chiến sĩ cả nước kiên trì kháng chiến và kiến quốc; từng bước giành thắng lợi và và kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bằng một "Điện Biên Phủ chấn động địa cầu".

Ngày 20/7/1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Theo tinh thần của Hiệp định, cuộc tổng tuyển cử tự do, thống nhất hai miền Nam - Bắc sẽ được thực hiện vào năm 1956. Tuy nhiên, thực hiện học thuyết Trurman; lo ngại sự sụp đổ dây chuyền của khu vực Đông Nam Á bởi cộng sản, Mỹ đã phá hoại hiệp định Giơnevơ, can thiệp vào miền Nam Việt Nam, dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam. Vậy là, khát vọng về một nước Việt Nam độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất - non sông liền một dải của Người và toàn thể nhân dân ta chưa thể trở thành hiện thực.

Tiếp tục thực hiện khát vọng độc lập, tự do và thống nhất đất nước, để tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã căn cứ vào tình hình quốc tế, trong nước, so sánh thế và lực giữa ta và địch, nắm vững phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin để giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng (cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc) phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước.

Trong khi tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ đã liên tục thay đổi các chiến lược chiến tranh ở miền Nam, âm mưu và tìm mọi cách chia rẽ hai miền Nam - Bắc; ngày càng mở rộng quy mô cuộc chiến tranh, tăng cường xây dựng chế độ ngụy quyền Sài Gòn, xây dựng quân đội ngụy và tăng cường đội quân của các nước chư hầu vào tham chiến; tăng cường đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân, nhằm hủy diệt cơ sở vật chất và tinh thần của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình và nhiệm vụ mới, Đảng ta và Hồ Chí Minh đã một mặt nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ trong việc hoạch định đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tạo sức mạnh tổng hợp để đánh Mỹ và thắng Mỹ; đồng thời, tăng cường đoàn kết, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, phát huy sức mạnh của dân tộc và thời đại. Mặt khác, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cổ vũ đồng bào và chiến sĩ cả nước quyết tâm xây dựng, bảo vệ vững chắc hậu phương miền Bắc, chi viện cho miền Nam đánh Mỹ; giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhiệm vụ xây dựng hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đấu tranh giải phóng miền Nam, để miền Nam ruột thịt, với vị trí là tiền tuyến lớn, trực tiếp đương đầu với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai luôn nhận được sự chi viện không ngừng nghỉ sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc.

Sau phong trào Đồng Khởi 1959-1960, cách mạng miền Nam ngày càng phát triển... Quân dân ta đã lần lượt đánh bại hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh đơn phương” và “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Trong bối cảnh đó, tháng 3/1965, Tổng thống Mỹ Johnson đã quyết định thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở Việt Nam. Tình hình cách mạng miền Nam diễn biến hết sức phức tạp, chiến tranh lan rộng ra cả nước, vận mệnh dân tộc đứng trước thử thách thức nghiêm trọng. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước diễn ra ngày càng quyết liệt. Để khẳng định niềm tin và quyết tâm đánh thắng Mỹ, ngày 17/7/1966, trong Lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa (…), song nhân dân việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do”[4], nêu cao tinh thần và thúc giục quân dân cả nước quyết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.Trên toàn miền Nam, quân dân ta đã giành được những thắng lợi quan trọng sau gần hai năm trực tiếp đương đầu với quân Mỹ, quân đồng minh và quân đội Việt Nam cộng hòa. Tuy gặp nhiều tổn thất, song đế quốc Mỹ chưa chịu từ bỏ chiến tranh xâm lược ở miền Nam. Chúng tiếp tục thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc…

Trong những năm tháng đó, thực tiễn cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng ở miền Nam, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự chi viện về mọi mặt của hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam đã chứng minh rằng, càng mở rộng chiến tranh, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai ngày càng lún sâu vào “đường hầm không lối thoát”. Bởi rằng, dù đế quốc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam và phá hoại, hủy diệt miền Bắc xã hội chủ nghĩa, song chúng cũng “không thể lay chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng” với với sự đồng tâm, đồng chí, đồng lòng của một dân tộc quyết tâm thực hiện khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Không áp lực nào ngăn cản được sự thật, ngăn cản được tinh thần và ý chí của nhân dân hai miền Nam- Bắc đấu tranh cho hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất nước nhà. Tinh thần, quyết tâm của quân dân cả nước về nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước được thể hiện rõ trong từng quyết sách của Trung ương Đảng, trong nghị quyết của Quốc hội, đặc biệt trong bản Di chúc lịch sử Người để lại trước khi đi xa.

Trong Di chúc của Hồ Chí Minh, khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và niềm tin tất thắng về cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân ta được Người nhắc đến nhiều lần, cháy bỏng hơn bao giờ hết: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể sẽ kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”; “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải rút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”; “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”; “Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ và góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc”[5]…
Bản Di chúc vốn không dài; nội dung Người viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng không nhiều, song chữ “nhất định” được lặp lại trong từng câu, thể hiện khát vọng cháy bỏng và niềm tin tưởng tuyệt đối của Người vào thắng lợi của nhân dân ta vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập và thống nhất.Khát vọng và niềm tin của Người đã trở thành lời thề thiêng liêng của cả dân tộc khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa. Trước anh linh của Người, quyết tâm thực hiện hoài bão của Người, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta thề: “Gương cao mãi mãi ngọn cờ độc lập dân tộc, quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước để thỏa lòng mong ước của Người”[6].
Trong những năm sau đó, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta từng bước giành được thắng lợi quan trọng trên các chiến trường. Giữa tháng 6/1972, chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Ních xơn thất bại nghiêm trọng và đứng trước nguy cơ bị phá sản. Trong bối cảnh đó, Mỹ đưa B.52 đánh phá Hà Nội, Hải Phòng nhằm "phá hủy khả năng của Bắc Việt Nam ủng hộ các lực lượng ở Nam Việt Nam". Tuy nhiên, chiến thắng của trận “Điện Biên Phủ trên không” 12 ngày đêm cuối năm 1972 của quân dân Hà Nội đã buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Paris ngày 27/1/1973 về “chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”. “Mỹ đã cút”, nhưng để thực hiện trọn vẹn lời hứa “đánh cho ngụy nhào”, đồng bào và chiến sĩ cả nước đã không ngừng tiến lên, kiên trì thực hiện hoài bão của Người. Vẫn có Người bên cạnh soi đường, dẫn lối; có nguồn sức mạnh nội lực của khát vọng hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước oai hùng của dân tộc cổ vũ, động viên, chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng và cuối cùng là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài 21 năm của nhân dân ta. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975 đã giành thắng lợi hoàn toàn, cả nước đã thống nhất, non sông liền một dải, làm thỏa lòng mong ước của Người. Tâm nguyện của Người trong Di chúc và khát vọng của toàn dân tộc về một nước Việt Nam thống nhất đã trở thành hiện thực.
50 năm sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa và 50 năm thực hiện Di chúc của Người (1969-2019), toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; đoàn kết một lòng, phát huy những bài học kinh nghiệm trong chiến tranh để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục thực hiện hoài bão của Người trong Di chúc: “Còn non, còn nước, còn người, Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!” và cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta không chỉ đề ra, đảm bảo sự đồng bộ, nhất quán giữa đường lối chiến lược và chủ trương, chính sách cụ thể; giữa chỉ đạo chiến lược và hình thức, bước đi cụ thể trong mỗi kỳ Đại hội về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ mà còn tiếp tục bồi dưỡng, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự do, thống nhất đất nước của mỗi người dân Việt Nam yêu nước trong Mặt trận Tổ quốc để nhân nguồn sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy, những thành tựu về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh,v.v.. của Việt Nam, nhất là trong hơn 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế là không thể phủ nhận và ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế.Trong xu thế toàn cầu hóa, tình hình quốc tế và trong nước ngày càng có những diễn biến phức tạp, với nhiều vận hội, thời cơ đi liền khó khăn, thách thức. Các thế lực phản động, thù địch không ngừng thực hiện âm mưu, chiến lược “diễn biến hòa bình”, với nhiều thủ đoạn mới ngày càng tinh vi và xảo quyệt, quyết liệt và thâm độc. Trong khi đó, sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã làm giảm sút niềm tin của nhân dân với Đảng, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ,v.v.. Tinh hình và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới càng phải đòi hỏi mỗi người phải thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Người, thực hiện lời căn dặn của Người về độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và phát huy sức mạnh của khối toàn dân đoàn kết để dựng xây và bảo vệ non sông, gấm vóc Việt Nam liền một dải.
Càng gian nan, thử thách, nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt được tạo ra bởi khối đại đoàn kết toàn dân tộc; được nuôi dưỡng bởi ngọn nguồn văn hóa Việt Nam, bởi lịch sử anh hùng, bất khuất qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước; được tiếp nối, phát huy cao độ và thăng hoa trong thời đại Hồ Chí Minh - thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử dân tộc sẽ lại càng được nhân lên, kết dính bởi nhân dân - bởi thế trận lòng dân vững chắc. Nguồn sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đó được trao truyền bởi bao thế hệ người Việt Nam yêu nước luôn tràn đầy khát vọng và niềm tin chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; được bổ sung, phát triển không ngừng dưới sự lãnh đạo của Đảng; được chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường, dẫn lối sẽ tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và ngày một phát triển phồn vinh “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, lời thề năm xưa trước anh linh Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đem hết sức mình, tiếp tục phấn đấu thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa cao đẹp mà Người đã vạch ra cho giai cấp công nhân và nhân dân ta, đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho đồng bào”[7] và nguyện "suốt đời học tập đạo đức, tác phong của Người, bồi dưỡng phẩm chất cách mạng, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh, rèn luyện mình thành những chiến sĩ trung thành với Đảng, với dân, xứng đáng là đồng chí, là học trò của HỒ CHỦ TỊCH. Noi gương Người, toàn thể nhân dân ta, thanh niên ta nguyện ra sức trau dồi mình thành những con người mới, làm chủ đất nước, làm chủ xã hội mới, mang lá cờ bách chiến bách thắng của HỒ CHỦ TỊCH tới đích cuối cùng"[8] sẽ trở thành mệnh lệnh trái tim, khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.

Trên tinh thần đó, mỗi cấp ủy Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với phòng, chống và ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII để luôn xứng đáng với vai trò “là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân” như Người mong muốn. Mỗi cấp ủy, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu và đội ngũ cán bộ, đảng viên cần phải tự giác thực hiện Quy định 47-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Những điều đảng viên không được làm”, Quy định 101-QĐ/TW của Ban Bí thư khóa XI về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp”, Quy định số 55-QĐ/TW ngày của Bộ Chính trị khóa XII về “Một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”, Quy định 08 về "Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương",v.v.. nhất là Nghị quyết 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, góp phần vào thành công Đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội lần thứ XIII của Đảng. 

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị xã hội và các tổ chức chính trị - xã hội cần quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng về “lấy dân làm gốc” và “dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”; triển khai thực hiện Quyết định số 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị quy định “Về việc Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”, Quy định 124-QĐ/TW của Ban Bí thư khóa XII về “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”,v.v.. Trong đó, Mặt trận phải thực sự thể hiện rõ vai trò tập hợp, mở rộng, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức, tổ chức hoạt động; nâng cao hiệu quả việc tập hợp, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở tiếp tục phát huy dân chủ, sức sáng tạo, ý thức tự lực, tự cường, tự hào, tự tôn dân tộc và đồng thuận xã hội. Tăng cường khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đồng thời, phát huy dân chủ, tạo điều kiện thuận lợi và nêu cao vai trò của các cá nhân tiêu biểu, người có uy tín trong các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài,v.v.. để mỗi người dân có thể phát huy khả năng sáng tạo của mình, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước ngày một phồn vinh, nhân dân được ấm no, hạnh phúc như Hồ Chí Minh mong muốn./.

GIÁ TRỊ CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM LÀ KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN


Thực chất của luận điệu cho rằng Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam nổ ra và thành công là “một sự ăn may” không gì khác vẫn là nhằm phủ nhận những thành quả, ý nghĩa lịch sử, giá trị thời đại, sức sống mãnh liệt của cuộc cách mạng và xa hơn là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc...
Một trong những chiến công chói lọi nhất của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, đó là cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.Ý nghĩa lịch sử, giá trị thời đại, sức sống mãnh liệt của Cách mạng Tháng Tám là không thể phủ nhận. Thế nhưng bằng cái nhìn chủ quan, phiến diện, với thái độ thiếu thiện chí, trên một vài trang mạng vẫn xuất hiện những luận điệu bóp méo, xuyên tạc sự thật về cuộc Cách mạng Tháng Tám của nhân dân ta. Cứ mỗi dịp chúng ta kỷ niệm sự kiện trọng đại này là những kẻ hồ đồ lại "lải nhải" giọng điệu cũ mèm, rằng nhờ “một sự ăn may” mà Cách mạng Tháng Tám mới thành công chứ Đảng Cộng sản Việt Nam “chẳng tài cán gì”...
Lật tẩy âm mưu, làm rõ bản chất của luận điệu ấy là việc làm quan trọng, cấp thiết để chúng ta đấu tranh phản bác, đồng thời tiếp tục khẳng định tinh thần bất diệt, sự trường tồn của Cách mạng Tháng Tám trong dòng chảy lịch sử dân tộc.
Một trong những chiêu trò mà các thế lực thù địch thường sử dụng để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá các nước không cùng quỹ đạo là phủ nhận ý nghĩa, giá trị của những thắng lợi, thành quả mà các quốc gia ấy đã giành được. Đối với cách mạng Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Những kẻ cố tình không nhìn ra giá trị của Cách mạng Tháng Tám lập luận rằng, vào đầu năm 1945, Việt Nam không còn là thuộc địa của Pháp. Kể từ sau cuộc đảo chính ngày 9/3/1945, Nhật đã hất cẳng Pháp. Và khi phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng quân Đồng minh vô điều kiện thì ở Việt Nam xuất hiện “khoảng trống quyền lực”. Họ cho rằng, khi xuất hiện “khoảng trống quyền lực” thì không chỉ với Việt Nam mà ở mọi quốc gia trên thế giới, cách mạng cứ nổ ra là giành thắng lợi. Từ cách nhìn phiến diện và đơn giản ấy, họ cho rằng Cách mạng Tháng Tám của Việt Nam thành công “là một sự ăn may”. Vậy sự thật ở đây là gì? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần nhìn lại sự kiện Cách mạng Tháng Tám năm 1945 một cách thấu đáo.
Trước năm 1930, các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ ra, nhưng kết quả cuối cùng đều không thành công và bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Các phong trào ấy thất bại bởi nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là bế tắc về đường lối đấu tranh. Xuất phát từ lòng yêu nước, thương nòi, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành đã quyết ra đi tìm đường cứu nước. Sau bao năm bôn ba, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin và truyền bá về Việt Nam. Có thể nói khởi nguồn, nền móng thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chính là Đảng ta, đứng đầu là lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đánh giá: "Công lao to lớn đầu tiên của Bác đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là đã tìm ra con đường cứu nước, khai phá con đường giải phóng dân tộc và các dân tộc bị áp bức trên thế giới"(1).
Vận dụng linh hoạt, sáng tạo quan điểm, tư tưởng của Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể Việt Nam, Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã khắc phục tình trạng khủng hoảng đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc. Trong nhiều bài nói, bài viết của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp và con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Điểm nổi lên trong tư tưởng của Người về giải phóng dân tộc là phải kết hợp chặt chẽ, giải quyết tốt mối quan hệ dân tộc và giai cấp. Đây là một trong những nhân tố rất quan trọng đảm bảo cho sự thành công của cách mạng Việt Nam. Nếu như với các nước tư bản phương Tây, Chủ nghĩa Mác-Lênin đặt đấu tranh giai cấp lên hàng đầu, thì ở Việt Nam, trước yêu cầu khách quan, bức thiết nhất của một xã hội thuộc địa, ngay từ Hội nghị thành lập Đảng (ngày 3/2/1930), Đảng ta đã xác định phải đặt cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc lên cao hơn. Điều này là hoàn toàn phù hợp, bởi lẽ đối tượng trực tiếp của cách mạng thuộc địa là chủ nghĩa thực dân, chứ chưa phải là chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản... Từ phân tích như vậy mà ngay trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(2).
Để làm nên Cách mạng Tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã trải qua chặng đường đấu tranh đầy gian khổ, hy sinh. Sẽ là lỗi lầm không thể tha thứ nếu nhìn lại giai đoạn lịch sử này mà chúng ta không đề cập đến 3 cuộc vận động cách mạng lớn. Trước hết phải kể đến là cuộc vận động giai đoạn 1930-1935 mà đỉnh điểm là Xô Viết Nghệ Tĩnh năm 1930, sau đó Đảng ta bị thực dân Pháp khủng bố trắng và cách mạng lâm vào thoái trào (1932-1935). Kế đến là cuộc vận động 1936-1939 mà nổi bật là cao trào Mặt trận Dân chủ (năm 1938). Sự khủng bố gắt gao, ráo riết của thực dân Pháp trong khoảng thời gian này đã gây ra cho Đảng ta những tổn thất to lớn. Vượt lên những tổn thất ấy, Đảng ta đã đưa cuộc cách mạng bước tiếp sang chặng đường mới bằng cuộc vận động 1939-1945. Điểm nổi bật trong khoảng thời gian này là Đảng ta đã xây dựng và phát triển cả lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang quần chúng, từ đó phát triển thành lực lượng vũ trang cách mạng. Chính sự dấy lên của các cao trào tiền khởi nghĩa ấy là cơ sở để Đảng ta chủ động chuẩn bị lực lượng, nắm bắt thời cơ và phát động toàn dân tiến hành tổng khởi nghĩa sau này. Mặt khác, thông qua 3 cuộc vận động ấy đã giúp Đảng ta từng bước xác định và hoàn thiện đường lối chiến lược, sách lược tiến hành cách mạng, đặc biệt là phương châm chiến lược: Kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, phát triển từ khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa.
Thực tế lịch sử đã chứng minh diễn biến tình hình cả trước và trong Cách mạng Tháng Tám đều đã được Đảng ta dự báo và chủ động có các chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp. Vậy thử hỏi nếu không có tầm nhìn và tư duy chiến lược sắc bén, nếu không có sự chỉ đạo chiến lược tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thì Cách mạng Tháng Tám có nổ ra đúng thời cơ và giành thắng lợi? Thử hỏi nếu không có sự chủ động tập dượt, chuẩn bị về tổ chức và lực lượng thì khi thời cơ đến, Việt Nam có chớp thời cơ để tiến hành tổng khởi nghĩa được không? Chắc chắn là không! Vậy thì tại sao lại nói cuộc cách mạng này nổ ra và thành công “là một sự ăn may”! Thêm nữa, nếu không dự đoán thời cơ chính xác, không chớp thời cơ kịp thời thì Đảng ta có thể phát huy được sức mạnh tổng hợp để phát động tổng khởi nghĩa thành công hay không? Chắc chắn là không thể! Vậy căn cứ vào đâu để nói rằng thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 “là một sự ăn may”!
Có người còn nói rằng, khi Nhật đã hất cẳng Pháp, việc Liên Xô và quân Đồng minh đánh bại phát xít Nhật đã tạo ra "khoảng trống quyền lực" ở Việt Nam. Thật là một sự xuyên tạc trắng trợn. Thực tế chứng minh rất rõ, khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra, quân Nhật vẫn rất mạnh. Bằng chứng là khi quân và dân ta tiến hành tổng khởi nghĩa, quân Nhật vẫn chống cự quyết liệt, tiếng súng vẫn nổ và giao tranh vẫn diễn ra, máu vẫn đổ ở nhiều nơi. Mặt khác, quân Nhật còn toan tính xâm chiếm Việt Nam để làm bàn đạp tiến xuống Đông Nam Á... thì chẳng dễ gì họ buông súng bàn giao chính quyền cho nhân dân Việt Nam. Cần khẳng định rằng, chẳng hề có một "khoảng trống quyền lực" nào cả. Có chăng sự tấn công của Liên Xô và quân Đồng minh chỉ làm cho quân Nhật suy yếu, tạo điều kiện khách quan thuận lợi cho cách mạng Việt Nam mà thôi.
Có thể nói Cách mạng Tháng Tám thành công là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố. Ngoài bối cảnh thế giới có những chuyển biến mau lẹ, thuận lợi thì yếu tố chủ quan vẫn là cơ bản, quyết định. Đặc biệt là vai trò lãnh đạo của Đảng ta, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh. Cách mạng Tháng Tám nổ ra và thành công là minh chứng hùng hồn khẳng định, Đảng ta đã nghiên cứu và vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin một cách linh hoạt, sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể đất nước, tình thế cách mạng để đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, lựa chọn phương pháp cách mạng phù hợp.
Từ những nguyên nhân làm nên sự thành công của Cách mạng Tháng Tám, chúng ta có thể khẳng định rõ rằng: Cách mạng Tháng Tám thành công hoàn toàn không phải là "một sự ăn may", mà là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh lâu dài và đầy gian khổ, hy sinh của nhân dân Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam và toàn thể dân tộc Việt Nam xứng đáng được hưởng thành quả trọng đại đó.
Thực chất của luận điệu cho rằng Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam nổ ra và thành công là “một sự ăn may” không gì khác vẫn là nhằm phủ nhận những thành quả, ý nghĩa lịch sử, giá trị thời đại, sức sống mãnh liệt của cuộc cách mạng và xa hơn là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, từ đó phủ nhận toàn bộ sự nghiệp cách mạng vĩ đại của nhân dân ta.
Thời gian càng lùi xa thì ý nghĩa lịch sử, giá trị thời đại, sức sống mãnh liệt của Cách mạng Tháng Tám càng lan tỏa. Trách nhiệm của những người Việt Nam yêu nước chân chính trước hết là hiểu đúng, nhận thức rõ về ý nghĩa lịch sử, giá trị thời đại của Cách mạng Tháng Tám. Mặt khác, mỗi người, mỗi tập thể phải biết phát huy truyền thống, tinh thần, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời phải luôn tỉnh táo, đề cao cảnh giác, nhận rõ những âm mưu và hành động thâm hiểm của các thế lực thù địch, phản động để kiên quyết vạch trần, đấu tranh phản bác./.
1) Tham luận tại Hội thảo khoa học của Trường Nguyễn Ái Quốc II (tháng 5/1990).
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2002, tr.216.

ĐẢNG VÀ BÁC HỒ TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM



Sau 30 năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc, cùng với Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và lãnh tụ là thống nhất và thể hiện ở việc đề ra, phát triển đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, nêu cao ngọn cờ dân tộc. Đường lối đó được nêu ra tại Hội nghị Trung ương tháng 11-1939 do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì và sau đó Hội nghị Trung ương tháng 5-1941 do Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã phát triển hoàn chỉnh.
Đường lối cơ bản đó của Trung ương Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc thông qua tổ chức thực tiễn. Và thực tiễn lại tiếp tục kiểm chứng, bổ sung, cụ thể hóa, khái quát hóa thành những chủ trương sát hợp với tình hình cách mạng, nhất là trước âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù và diễn biến của Chiến tranh thế giới thứ hai.
Với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, cần thiết phải thúc đẩy xây dựng lực lượng chính trị và LLVT để đi tới tổng khởi nghĩa. Ngày 22-12-1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, phát triển mạnh mẽ các đội vũ trang ở địa phương, phối hợp tác chiến, thúc đẩy đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang của quần chúng. Khi quân Nhật chiếm Đông Dương (tháng 9-1940), kẻ thù của cách mạng Việt Nam và Đông Dương là Pháp-Nhật, thế lực quân Nhật ngày càng phát triển, Đảng xác định kẻ thù là Nhật-Pháp. Ngày 9-3-1945, Nhật làm đảo chính, gạt Pháp khỏi Đông Dương, kẻ thù lúc này là Nhật. Trung ương Đảng ra bản Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (ngày 12-3-1945) phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước.
Cao trào cách mạng ngày càng phát triển, tháng 5-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh rời Cao Bằng về Sơn Dương (Tuyên Quang), cùng Trung ương Đảng xây dựng trung tâm lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng. Theo quyết định của Đảng, ngày 15-5-1945, Việt Nam Giải phóng quân được thành lập trên cơ sở thống nhất Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân; ngày 4-6-1945, thành lập Khu giải phóng Việt Bắc-hình ảnh của nước Việt Nam độc lập. Nhiều địa phương trong cả nước cũng lập căn cứ địa, chiến khu, phát triển lực lượng chính trị, LLVT và đấu tranh vũ trang. Đã có những cuộc khởi nghĩa nổ ra với những kinh nghiệm đấu tranh rất phong phú, sáng tạo, như: Khởi nghĩa Thanh La ở Tuyên Quang (10-3-1945), Khởi nghĩa Ba Tơ, Quảng Ngãi (11-3-1945) và Tự vệ cứu quốc Hưng Yên đánh đồn Bần thắng lợi (12-3-1945)... Kinh nghiệm của các cuộc đấu tranh đó có ý nghĩa lớn đối với sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng. Từ tháng 3 đến tháng 5-1945, Đảng phát động Phong trào “Phá kho thóc của Nhật, giải quyết nạn đói”. Từ mục tiêu đấu tranh về kinh tế, đời sống đã phát triển, giác ngộ chính trị quần chúng đứng lên tự cứu mình.
Tháng 8-1945, phong trào cứu nước phát triển đến đỉnh cao trên cả nước, quần chúng sẵn sàng hành động theo sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh. Đội quân xâm lược của Nhật liên tiếp thất bại trước sự tiến công của Liên Xô và Đồng minh, khiến chúng buộc phải tuyên bố đầu hàng Đồng minh (ngày 15-8-1945). Quân Nhật ở Việt Nam hoang mang, mất sức chiến đấu. Trong hoàn cảnh đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi tổng khởi nghĩa: “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Ban Thường vụ Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh quyết định triệu tập Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến 15-8-1945. Hội nghị nhận định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới”. Mục tiêu của ta là “giành quyền độc lập hoàn toàn”. Đảng đề ra 3 nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa là: Tập trung, thống nhất, kịp thời. Tập trung mọi lực lượng vào nhiệm vụ giành độc lập, giành chính quyền; thống nhất về quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy; kịp thời hành động không bỏ lỡ cơ hội.
Lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng theo dõi chặt chẽ diễn biến trong nước và quốc tế. Người nói với các đồng chí của mình: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập". Đó là kết tinh ý chí của toàn Đảng và khát vọng độc lập của cả dân tộc. Thực hiện quyết định của Đảng và lãnh tụ, Quốc dân đại hội được triệu tập họp ở Tân Trào ngày 16-8-1945, thành lập Ủy ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam gồm 15 thành viên, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ủy ban có nhiệm vụ chỉ đạo cuộc tổng khởi nghĩa của cả nước và khi khởi nghĩa thành công trở thành Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Với đường lối, chủ trương đúng đắn, sự chỉ đạo thống nhất, kịp thời, cuộc tổng khởi nghĩa trên cả nước đã nhanh chóng giành thắng lợi trong nửa cuối tháng 8-1945. Cách mạng Tháng Tám là sự phát triển sáng tạo của khoa học nghệ thuật khởi nghĩa của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, đặc biệt là sự chủ động xử lý đúng đắn tình thế và thời cơ cách mạng. Cách mạng Tháng Tám là thành quả của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, của ý chí tự lực tự cường của dân tộc Việt Nam. Đó cũng là kết quả của sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh; đồng thời khẳng định vai trò quan trọng, sự chủ động, sáng tạo của các cấp bộ đảng địa phương, các xứ ủy, thành ủy, tỉnh ủy đến tổ chức đảng ở cơ sở trong lãnh đạo, chỉ đạo khởi nghĩa.
Bài học thành công về sự lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng Tháng Tám đã được Đảng ta phát triển trong các thời kỳ cách mạng tiếp theo, dẫn tới thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành trọn vẹn độc lập, thống nhất Tổ quốc, giành thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng CNXH hiện nay vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, nâng cao và khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

SÁCH, BÁO, TẠP CHÍ CỦA ĐẢNG ĐÓNG VAI TRÒ QUAN TRỌNG TRONG GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG QUÂN ĐỘI


SÁCH, BÁO, TẠP CHÍ CỦA ĐẢNG ĐÓNG VAI TRÒ QUAN TRỌNG TRONG GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG QUÂN ĐỘI
Chiều ngày 20/8, tại Hà Nội, Đoàn khảo sát của Ban Tuyên giáo Trung ương do đồng chí Võ Văn Phuông, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực làm Trưởng đoàn đã làm việc với Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam về tổng kết thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW và sơ kết việc thực hiện Kết luận số 29-KL/TW của Ban Bí thư khoá XI.
Làm việc với đoàn có đồng chí Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam.
CỤ THỂ HOÁ CHỈ THỊ SỐ 20-CT/TW BẰNG NHỮNG HÀNH ĐỘNG THIẾT THỰC
Báo cáo đánh giá 15 năm thực hiện Chỉ thị số 20-KL/TW của Ban Bí thư khoá IX “về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xuất bản, phát hành sách lý luận, chính trị trong tình hình mới” (gọi tắt là Chỉ thị số 20) trong Quân đội có nêu, hoạt động xuất bản, phát hành luôn giữ vững định hướng chính trị, đúng tôn chỉ, mục đích; chấp hành nghiêm pháp luật của Nhà nước, quy chế, quy định của Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị; góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, ý chí quyết tâm cho bộ đội; chủ động phòng, chống làm thất bại chiến lược “diễn biến hoá bình”, âm mưu, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, “phi chính trị hoá” quân đội của các thế lực thù địch; xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân; giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội.
Bộ Quốc phòng đã quan tâm đầu tư xây dựng trụ sở làm việc, đầu tư trang thiết bị, hệ thống Xuất bản điện tử, Thư viện điện tử, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xuất bản, phát hành trong quân đội. Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng công tác xuất bản, phát hành sách lý luận, chính trị, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. 
  Đối việc việc triển khai, thực hiện Kết luận số 29-KL/TW của Ban Bí thư khoá XI về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 11-CT/TW của Bộ Quốc phòng khoá VIII về việc mua và đọc báo, tạp chí của Đảng cho biết, trong những năm qua, Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng đã lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị trong toàn quân quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc. Việc mua và đọc báo, tạp chí của Đảng được duy trì nền nếp ở các cơ quan, đơn vị trong toàn quân đã góp phần nâng cao chất lượng thực hiện các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, đối ngoại quốc phòng, xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; góp phần bồi dưỡng, nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị, đạo đức, năng lực công tác cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân. 
Các cơ quan, đơn vị tổ chức tốt việc đọc báo, tạp chí của Đảng, duy trì nền nếp hằng ngày việc đọc báo Đảng đầu giờ làm việc, đọc báo tập trung buổi tối; thường xuyên điểm báo, điểm tin trên các báo, tạp chí của Đảng phục vụ các buổi thông báo chính trị đầu tuần, sinh hoạt chi uỷ, chi bộ, sinh hoạt Ngày Đảng, Ngày chính trị văn hoá tinh thần theo quy định.
Song bên cạnh vẫn còn một số những hạn chế, như: tổ chức đọc báo, tạp chí của Đảng ở một số cơ quan, đơn vị chưa thực sự nền nếp; số cán bộ, chiến sĩ tự đọc các báo, tạp chí của Đảng trong giờ nghỉ, ngày nghỉ chưa cao; một số đơn vị đóng quân ở vùng sâu, vùng xa, địa bàn hoạt động rộng, lực lượng thường xuyên phân tán nên khó khăn trong việc cấp phát báo, tạp chí, duy trì chế độ đọc báo...
Qua trao đổi tại hội nghị, các đại biểu đã cùng nhau thảo luận về công tác xuất bản, phát hành sách lý luận, chính trị; việc mua và đọc báo, tạp chí của Đảng trong quân đội thời gian qua và đề xuất, giải pháp trong việc tăng cường công tác xuất bản, phát hành sách lý luận, chính trị, việc mua và đọc báo, tạp chí của Đảng trong quân đội thời gian tới; đồng thời chỉ rõ những hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới.
Phát biểu tại buổi làm việc, Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa đánh giá việc tiếp tục quán triệt Chỉ thị số 20-CT/TW và sơ kết việc thực hiện Kết luận số 29-KL/TW của Ban Bí thư khoá XI trong toàn quân là cần thiết, được các lãnh đạo trong Bộ Quốc phòng thường xuyên kiểm tra, đôn đốc nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xuất bản, phát hành sách lý luận chính trị trong toàn quân. Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam đề nghị các cơ quan chức năng của Ban Tuyên giáo, Bộ Thông tin và Truyền thông nghiên cứu, tham mưu cho Chính phủ có chính sách hỗ trợ kinh phí đầu tư cho xuất bản, phát hành sách lý luận, chính trị nhằm khuyến khích và nâng cao chất lượng công tác xuất bản, phát hành sách lý luận chính trị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Kết luận buổi làm việc, đồng chí Võ Văn Phuông đánh giá cao báo cáo của Quân uỷ Trung ương trong việc thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW và sơ kết việc thực hiện Kết luận số 29-KL/TW của Ban Bí thư khoá XI. Qua khảo sát ở Bộ Quốc Phòng, Đoàn công tác đánh giá công tác chỉ đạo của Bộ Quốc phòng thời gian qua chặt chẽ, sâu sát thực tế, các công tác triển khai bám sát với Chỉ thị của Ban Bí thư.  Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương nhận định trên cơ sở kết quả khảo sát của Đoàn công tác sẽ tổng hợp, kết luận trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong thời gian tới để cụ thể hóa nội dung nhiệm vụ trọng tâm và triển khai các giải pháp đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn đề ra trong tình hình mới, không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xuất bản, phát hành sách lý luận, chính trị và việc mua, đọc báo, tạp chí của Đảng./.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...