Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, một trong những yêu cầu bức thiết
được đặt ra đối với văn hóa Việt Nam là cần hoàn thiện thể chế văn hóa cho phù
hợp với những điều kiện mới, để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần
vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển
bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
1- Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của
văn hóa, mỗi quốc gia đều có những cách phù hợp để phát triển văn hóa của mình.
Ở Việt Nam, kể từ sau Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, Nghị quyết số
03-NQ/TW, ngày 16-7-1998, của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
khóa VIII về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
ra đời đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong sự nghiệp phát triển văn hóa nước
nhà. Nghị quyết xác định đường lối phát triển văn hóa ở Việt Nam, đó là xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tiếp theo tinh thần đó, Nghị
quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung
ương khóa XI “Xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước” là một bước đi nữa nhấn mạnh đến sức mạnh của văn hóa. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016) khẳng định sự cần thiết
phải đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, một mặt, lấy phát triển kinh tế làm
nhiệm vụ trọng tâm; mặt khác, phải coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt,
đồng thời phải xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, gắn tăng
trưởng kinh tế với phát triển bền vững về môi trường và xã hội. Những yếu tố
cực kỳ quan trọng này của tiến trình đổi mới đất nước đang và sẽ có tác động
lớn đến quan niệm về nội dung và hình thức của quản lý văn hóa.
Thực hiện tinh thần các nghị quyết của Đảng,
đến nay hàng loạt các văn bản chỉ đạo của Đảng, văn bản pháp quy của Nhà nước,
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ra đời để hoàn thiện công tác quản lý văn
hóa. Lĩnh vực văn hóa, gia đình đã có 5 luật, 1 pháp lệnh, 42 nghị định, 14
quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 98 thông tư, thông tư liên tịch điều
chỉnh trực tiếp. Các thiết chế văn hóa (nhà hát, rạp chiếu phim, triển lãm...)
và nhất là các nhà văn hóa cơ sở được xây dựng mới ở khắp nơi trên đất nước, từ
thành thị đến nông thôn. Hiện có 38 địa phương có quy hoạch tổng thể, phát
triển hệ thống thiết chế văn hóa; có 21/29 địa phương có quy hoạch thiết chế
tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Cơ chế, chính sách văn hóa ngày càng
linh hoạt, nhạy bén, phù hợp với nhu cầu của thị trường. Văn hóa, nghệ thuật
ngày càng đến gần với nhân dân. Hoạt động văn hóa, nghệ thuật phát triển theo
hướng phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân. Và trên thực tế, văn hóa, nghệ
thuật có tác động lớn đến đời sống tinh thần, tư tưởng, đạo đức, lối sống của
người dân.
Tuy nhiên, dưới tác động của quá trình toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế cùng những biến đổi nhanh chóng, đa dạng, phức tạp
của đời sống trong nền kinh tế thị trường, hoạt động quản lý văn hóa cũng đứng
trước rất nhiều khó khăn, thách thức và bộc lộ không ít bất cập, hạn chế;
phương thức lãnh đạo, quản lý trong lĩnh vực văn hóa còn chậm được đổi mới. Do
đó, sự chậm trễ của chính sách văn hóa có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của
toàn xã hội.
2- Để phát triển văn hóa điều quan trọng nhất
là phải cải cách thể chế văn hóa mà trước hết là đổi mới về tư tưởng, quan niệm
về phát triển văn hóa mới; sau đó là kết hợp giữa phát triển sự nghiệp văn hóa
công ích với phát triển các ngành kinh doanh văn hóa, đổi mới các thể chế văn
hóa với đổi mới chính bản thân văn hóa.
Trên cơ sở nắm chắc xu thế phát triển văn hóa
thế giới ngày nay, nhận thức về quy luật xây dựng văn hóa dưới điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách thể chế văn hóa là sự tiếp
tục cải cách thể chế kinh tế, chính trị, giáo dục, khoa học - kỹ thuật, y tế,
thể thao... Phát triển văn hóa - xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, bảo đảm
tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển thể
hiện rõ nhất tính ưu việt của chế độ ta. Điều đó đã đặt ra một loạt yêu cầu mới
cho việc xây dựng văn hóa và cải cách thể chế văn hóa.
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đòi hỏi
chúng ta phải cùng lúc đưa xây dựng văn hóa và xây dựng kinh tế, chính trị, xã
hội vào toàn cục phát triển. Nguyên lý phát triển kinh tế - xã hội hài hòa đòi
hỏi chúng ta phải phát huy sức mạnh tổng lực, hình thành tinh thần dân tộc mới,
lấy chủ nghĩa yêu nước làm cốt lõi của tinh thần thời đại mới, lấy quan điểm
đổi mới toàn diện, triệt để làm hạt nhân tư tưởng nhằm tạo ra sự đoàn kết rộng
rãi và phát huy tối đa trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân. Điều đó đòi hỏi chúng
ta phải cải cách thể chế văn hóa một cách mạnh mẽ và khoa học, tiến hành giải
phóng sức sản xuất văn hóa nhằm tạo động lực to lớn cho sự phát triển của nền
văn hóa tiên tiến xã hội chủ nghĩa, thực hiện sự phát triển hài hòa giữa xây
dựng văn hóa với xây dựng kinh tế, chính trị, xã hội.
Cùng với việc nâng cao mức sống vật chất và
phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nước ta, nhu cầu văn hóa tinh thần của
quần chúng không ngừng tăng lên, đã tạo ra động lực mới cho phát triển văn hóa,
đồng thời đặt ra những yêu cầu mới, cao hơn đối với sự nghiệp xây dựng văn hóa.
Một mặt, quần chúng nhân dân yêu cầu phát triển mạnh mẽ hơn nữa sự nghiệp văn
hóa công ích, như đẩy mạnh việc xây dựng kết cấu hạ tầng văn hóa công cộng,
dịch vụ văn hóa công cộng, bảo đảm được quyền hưởng thụ văn hóa cơ bản, phát
triển mạnh mẽ ngành, nghề văn hóa làm phồn vinh thị trường văn hóa, cung cấp
nhiều sản phẩm văn hóa mới, đa dạng, phù hợp với thị hiếu của mình. Mặt khác,
sự phát triển tự thân văn hóa trong bối cảnh mới cũng đòi hỏi phải phá bỏ sự
trói buộc của thể chế quản lý truyền thống để cho tài nguyên văn hóa được sử
dụng hiệu quả, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của đội ngũ làm công tác văn
hóa được phát huy đầy đủ. Hiện nay ở một số địa phương, nhất là những nơi kết
cấu hạ tầng văn hóa công cộng thiếu thốn nghiêm trọng, thiết bị cũ kỹ, cơ sở
sản xuất văn hóa thiếu sức sống, các sản phẩm văn hóa nước ngoài ồ ạt tràn vào
chiếm lĩnh thị trường, làm cho đời sống văn hóa hỗn loạn, mức hưởng thụ văn hóa
của nhân dân bị hạn chế, nhiều sản phẩm văn hóa độc hại xuất hiện làm ảnh hưởng
không nhỏ đến đời sống tinh thần xã hội. Rõ ràng, cần giải phóng mạnh hơn, hiệu
quả hơn nữa sức sản xuất văn hóa. Mà muốn giải phóng sức sản xuất văn hóa thì
nhất thiết phải đổi mới thể chế văn hóa, xây dựng thể chế mới vận hành theo
nguyên tắc hướng tới quần chúng, hướng ra thị trường. Theo đó, những người làm
công tác văn hóa sẽ mang hết tài năng của mình để cống hiến và được trả công
xứng đáng, người dân sẽ được hưởng thụ những sản phẩm văn hóa ưu tú, đa dạng,
phù hợp với nhu cầu của cá nhân và cộng đồng.
3- Trên lĩnh vực văn hóa, quá trình triển
khai thực hiện đường lối, chính sách văn hóa của Đảng và Nhà nước đã được thực
hiện nghiêm túc ở các cấp, các ngành.
Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin, thể
dục - thể thao ngày càng được mở rộng, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn
hóa của nhân dân. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây đựng đời sống văn hóa” từng
bước đi vào chiều sâu. Chỉ số phát triển con người không ngừng được tăng lên:
Việt Nam đã hoàn thành phần lớn các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Việc
thực hiện 5 quan điểm chỉ đạo, 10 nhiệm vụ và 4 giải pháp lớn mà Nghị quyết số
03-NQ/TW, ngày 16-7-1998, của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
khóa VIII về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
cũng như 5 quan điểm chỉ đạo, 6 nhiệm vụ và 4 giải pháp lớn trong Nghị quyết số
33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương
khóa XI về “Xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước” đã tạo nên một phong trào sâu rộng trong Đảng, trong các cơ quan
nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội, góp phần to lớn vào củng cố khối
đại đoàn kết toàn dân, phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam để xây dựng và phát
triển đất nước. Tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong nhân dân được phát huy,
dân chủ xã hội được mở rộng. Hệ thống các di sản văn hóa của dân tộc được đầu
tư, tôn tạo và phát huy vai trò của nó đối với phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Nhiều di tích văn hóa được cộng đồng
quốc tế công nhận là di sản văn hóa thế giới. Tính đến thời điểm tháng 11-2018,
cả nước hiện có 26 di sản văn hóa được UNESCO ghi danh (gồm 8 di sản văn hóa
vật thể, 12 di sản văn hóa phi vật thể và 6 di sản tư liệu); 95 di tích quốc
gia đặc biệt; 3.447 di tích quốc gia; 249 di sản văn hóa phi vật thể được ghi
vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; 617 nghệ nhân đã được phong
tặng danh hiệu nghệ nhân ưu tú trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể; 160
bảo tàng, lưu giữ và trưng bày khoảng 3 triệu tài liệu hiện vật, trong đó có
142 hiện vật và nhóm hiện vật được công nhận là bảo vật quốc gia. Những giá trị
văn hóa đặc sắc của các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam được giữ gìn, kế
thừa và phát huy làm phong phú cho nền văn hóa dân tộc.
Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm chỉ đạo
xây dựng và phát triển hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở. Với sự nỗ lực, cố gắng
của các địa phương, đến nay hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở đạt được kết quả
to lớn: 100% các tỉnh đã có trung tâm văn hóa; khoảng 91% số quận, huyện có
trung tâm văn hóa - thể thao hoặc nhà văn hóa; 73,2% số xã có trung tâm văn hóa
- thể thao; 74,7% số thôn có nhà văn hóa thể thao. Thực tế đã xuất hiện nhiều
điển hình, nhiều bài học kinh nghiệm về tổ chức xây dựng hệ thống thiết chế văn
hóa cơ sở thông qua việc huy động các nguồn vốn xã hội hóa, huy động công sức,
trí tuệ của nhân dân trong đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở. Để
triển khai tốt việc xây dựng và phát triển hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở đòi
hỏi sự quan tâm sâu sắc của lãnh đạo các cấp ở địa phương. Đây có thể được coi
đó là yếu tố quyết định. Sự quan tâm ấy phải được thể hiện bằng chương trình
hành động cụ thể, như quy hoạch đất đai, đầu tư kinh phí... để xây dựng thiết
chế văn hóa.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hoàn
thiện thể chế, chúng ta thấy một số yếu kém sau:
Thứ nhất, việc xây dựng và phát triển văn hóa
mới được tiến hành chủ yếu trong lĩnh vực hoạt động văn hóa mà chưa tác động
sâu rộng và gắn bó chặt chẽ với kinh tế và chính trị. Các hoạt động kinh tế,
nhất là của khu vực ngoài nhà nước và các lĩnh vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài thường ít hoặc chưa quan tâm đúng mức tới vai trò của văn hóa trong phát
triển. Nhiều chương trình, dự án phát triển kinh tế còn nặng về tìm lợi ích
kinh tế mà coi nhẹ yếu tố văn hóa và môi trường.
Thứ hai, những thành tựu và tiến bộ đạt được
trong lĩnh vực phát triển văn hóa, xã hội và xây dựng con người chưa tương xứng
với tốc độ phát triển kinh tế và chưa vững chắc, chưa tác động có hiệu quả đối
với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng, đạo đức,
lối sống. Sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ,
đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền tiếp tục diễn biến phức tạp,
có một số mặt nghiêm trọng hơn, gây tổn hại không nhỏ đến uy tín của Đảng và
Nhà nước, làm suy giảm niềm tin của nhân dân. Công tác xây dựng môi trường văn
hóa trong Đảng, trong các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội còn
hạn chế. Nhiệm vụ xây dựng con người trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa chưa có sự chuyển biến rõ rệt. Môi trường văn hóa còn bị ô nhiễm
bởi các tệ nạn xã hội và sự lan tràn các dịch vụ và sản phẩm văn hóa mê tín, dị
đoan, thấp kém, lai căng, độc hại, trong khi thiếu những tác phẩm văn hóa, văn
học nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có tác động tích cực
và sâu sắc đối với việc giáo dục con người. Trong lĩnh vực lý luận - phê bình
và sáng tác, còn có những biểu hiện lúng túng, hữu khuynh trong đấu tranh giữa
các khuynh hướng tư tưởng trước những tác động phức tạp của quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế và mở rộng giao lưu văn hóa. Xu hướng “thương mại hóa” chạy
theo thị hiếu thấp kém trong một bộ phận báo chí, xuất bản, trong hoạt động văn
hóa, nghệ thuật chưa được ngăn chặn có hiệu quả.
Thứ ba, tình trạng phân hóa trong hưởng thụ
văn hóa giữa các vùng, các miền, các tầng lớp xã hội gia tăng. Tình trạng nghèo
nàn, lạc hậu về đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều vùng nông thôn, miền núi,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng căn cứ cách mạng trước đây vẫn chưa được
khắc phục.
Thứ tư, việc xây dựng và hoàn thiện thể chế
văn hóa, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và các chính sách trên lĩnh vực
văn hóa, đặc biệt là mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa, giữa văn hóa và công
tác xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị còn chậm và thiếu đồng bộ, làm
hạn chế tác động của văn hóa đối với sự phát triển đất nước.
4- Trước thực tế trên, để hoàn thiện thể chế
văn hóa nước ta hiện nay, cần tập trung thực hiện đồng bộ một số nội dung cơ
bản sau:
Một là, đổi mới tư duy quản lý văn hóa dựa
trên tư tưởng về quyền văn hóa và tinh thần xây dựng hệ thống hành chính công
hiện đại; từng bước xây dựng cơ chế phân cấp, phân quyền mới theo nguyên tắc
các cơ quan nhà nước tập trung phát triển hệ thống thể chế, đầu tư phát triển kết
cấu hạ tầng chủ chốt, phát triển nguồn nhân lực bậc cao, tổ chức một số hoạt
động và sự kiện văn hóa, nghệ thuật quốc gia.
Hai là, cải cách thể chế văn hóa là một hoạt
động có tính tổng hợp, có tính hệ thống cao, thể hiện mối liên hệ, gắn bó nhiều
mặt, như lao động, nhân sự, tài chính, thuế, phân phối, bảo đảm xã hội, quản lý
hành chính... Do đó, phải tăng cường sự lãnh đạo nghiêm túc, thực thi đồng bộ
nhiều biện pháp nhằm tạo ra chính sách đủ mạnh cho cải cách thể chế văn hóa.
Trước hết, cải cách thể chế văn hóa phải được tiến hành đồng thời với đổi mới
phương thức lãnh đạo văn hóa; nhanh chóng đổi mới tư duy quản lý văn hóa, tạo
dựng quan điểm phát triển văn hóa khoa học: không bám lấy tính đặc thù của văn
hóa với tư cách là một hình thái ý thức để phủ nhận tính sản nghiệp của nó,
đồng thời không vì tính sản nghiệp của văn hóa mà phủ nhận tính hình thái ý
thức của nó. Nói gọn hơn, chúng ta phải xử lý chính xác mối quan hệ này. Nhà
nước cần có chính sách tạo điều kiện cho văn hóa về các mặt xét duyệt hành chính,
sử dụng đất đai, mở rộng và quản lý thị trường, đầu tư lưu thông vốn, chính
sách ưu đãi, nâng đỡ công nghiệp văn hóa phát triển, kiện toàn pháp chế văn
hóa, tạo ra môi trường pháp luật tốt đẹp cho cải cách thể chế văn hóa.
Ba là, Nhà nước bảo đảm vai trò điều hành và
quản lý vĩ mô của mình đối với văn hóa. Khi xã hội thay đổi, vai trò và chức
năng nhà nước cũng có những biến đổi tương ứng (về tính chất, nội dung, phương
hướng và biện pháp thực thi). Để thích ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải xây dựng thể chế Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, ngành, nghề tự chủ, đơn vị doanh nghiệp sự nghiệp vận hành theo
pháp luật. Đây chính là phương hướng cải cách thể chế văn hóa thời kỳ mới.
Bốn là, Nhà nước giao quyền cho các cấp quản
lý văn hóa, giao quyền tự chủ cho các ngành cụ thể, phân công trách nhiệm cụ
thể, có chế độ giám sát việc sử dụng tài sản văn hóa nhà nước và yêu cầu các
đơn vị văn hóa phải chấp hành pháp luật, tuân theo quy luật kinh tế thị trường.
Nhà nước không trực tiếp truyền đạt kế hoạch sản xuất sản phẩm văn hóa mà yêu
cầu các đơn vị văn hóa phải căn cứ vào yêu cầu thị trường để hạch toán và cân
đối thu - chi. Nhà nước chỉ đặt hàng trực tiếp khi cần thiết đối với những công
trình văn hóa công cộng, những sản phẩm văn hóa phục vụ công ích. Từng bước xây
dựng cơ chế tự chịu trách nhiệm của các tổ chức văn hóa, nghệ thuật khi sáng
tạo và sản xuất các sản phẩm văn hóa.
Như vậy, sự quản lý của Nhà nước phải được
quy phạm hóa, phải đúng pháp luật. Những vấn đề nào mà cơ chế thị trường có khả
năng giải quyết tốt thì Nhà nước không cần phải can dự vào. Chỉ những vấn đề cơ
chế thị trường không giải quyết được thì Nhà nước mới tham gia và sự tham gia
này phải công khai, dân chủ, phải phù hợp với yêu cầu kinh tế thị trường và văn
minh tinh thần hiện đại. Điều đó có nghĩa là, chức năng quản lý của Nhà nước
phải thay đổi về chế độ xét duyệt hành chính, coi chức năng chủ yếu là phục vụ
sự nghiệp văn hóa và tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể sáng tạo văn hóa,
không trực tiếp can dự vào hoạt động văn hóa vi mô và doanh nghiệp. Phải đặt
trọng tâm vào quản lý xã hội và giám sát thị trường, thực hiện tốt việc quản
định hướng, quản nguyên tắc, quy hoạch, trật tự, cơ chế, chất lượng...
Năm là, đào tạo và phát triển hiệp hội ngành
nghề văn hóa và tổ chức môi giới văn hóa có tính chuyên nghiệp cao. Đây là điều
chúng ta đang rất thiếu và rất yếu, nhất là khi Việt Nam đã gia nhập các hiệp
định thương mại quốc tế. Một mặt, tăng cường xây dựng hiệp hội ngành nghề, giao
chức năng và quyền hạn cụ thể để hiệp hội ngành nghề có tư cách pháp nhân, trở
thành tổ chức quản lý ngành nghề hợp pháp, có vai trò “cầu nối” giữa Chính phủ
với doanh nghiệp; mặt khác, khuyến khích phát triển các loại tổ chức môi giới
văn hóa, lập những tổ chức môi giới văn hóa và tổ chức đại lý, như công ty môi
giới văn hóa tổng hợp, công ty môi giới trình diễn, công ty đấu giá nghệ thuật,
công ty giới thiệu tài năng trẻ, hình thành cơ chế Chính phủ giám sát chỉ đạo,
hiệp hội ngành nghề giám sát quản lý, tổ chức môi giới tự xây dựng quy chế hoạt
động tự chủ... Đây là những vấn đề cần được chú ý đúng mức để tạo nên sự chuyển
biến trong chức năng quản lý và định hướng văn hóa của Nhà nước trong thời đại
ngày nay./.
Theo Tạp chí Cộng sản