Thứ Năm, 29 tháng 6, 2023

Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi các nhà đầu tư Trung Quốc tiếp tục đầu tư mở rộng ở Việt Nam

 Sáng 28-6, tại thủ đô Bắc Kinh (Trung Quốc), Thủ tướng Phạm Minh Chính đã dự Diễn đàn hợp tác đầu tư và thương mại Việt Nam - Trung Quốc do Hội đồng xúc tiến thương mại quốc tế Trung Quốc cùng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam tổ chức. Tham dự sự kiện này còn có Phó thủ tướng Trung Quốc Lưu Quốc Trung; lãnh đạo các bộ, cơ quan và hơn 350 doanh nghiệp hai nước Việt Nam - Trung Quốc.

Tại diễn đàn, đại diện các bộ, ngành, doanh nghiệp hai nước đã phát biểu, giới thiệu tình hình phát triển kinh tế; môi trường đầu tư, kinh doanh; chính sách thu hút đầu tư của mỗi nước; tình hình kinh doanh, đầu tư giữa Việt Nam - Trung Quốc; chia sẻ bài học, kinh nghiệm trong đầu tư, kinh doanh tại mỗi nước.

Phát biểu tại diễn đàn, Phó thủ tướng Trung Quốc Lưu Quốc Trung cho biết, Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ tư của Trung Quốc trên thế giới; kim ngạch thương mại hai chiều năm 2022 đạt 175 tỷ USD, chiếm 1/4 tổng kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), trong đó Việt Nam là thành viên tích cực.

 Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Diễn đàn hợp tác đầu tư và thương mại Việt Nam - Trung Quốc.

 Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Diễn đàn hợp tác đầu tư và thương mại Việt Nam - Trung Quốc.

Phó thủ tướng Lưu Quốc Trung nhấn mạnh, giới công thương là lực lượng trụ cột trong thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam-Trung Quốc và cũng là người được hưởng lợi từ sự phát triển quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt-Trung. Do đó, đề nghị các doanh nghiệp tiếp tục trao đổi, làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác cùng có lợi và góp phần vun đắp quan hệ giữa hai nước.

Phát biểu tại Diễn đàn, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh cần tìm giải pháp tốt nhất để các nhà đầu tư, nhà nghiên cứu có điều kiện cống hiến cho phát triển quan hệ hai nước, đặc biệt là đầu tư hiệu quả tại Việt Nam; đề nghị cơ quan chức năng hai bên tiếp tục rà soát, hoàn thiện khuôn khổ luật pháp, cơ chế, chính sách, cải thiện môi trường kinh doanh để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, thúc đẩy đầu tư, thương mại giữa hai nước. Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng, cần có tổ công tác chuyên biệt về thương mại và đầu tư để thúc đẩy các hoạt động này thực chất, hiệu quả hơn.

Về quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư song phương, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng còn rất nhiều dư địa để lập các kỷ lục mới vì độ tin cậy chính trị, mối quan hệ lịch sử….; do đó phải nỗ lực để làm được điều này.

Về định hướng, giải pháp chủ yếu thu hút đầu tư, thúc đẩy thương mại Việt Nam - Trung Quốc thời gian tới, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ Việt Nam thu hút FDI có chọn lọc, hiệu quả, bền vững, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu. 

Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu tham dự diễn đàn. 
Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu tham dự diễn đàn. 

Về lĩnh vực ưu tiên, Việt Nam đẩy mạnh thu hút và có các chính sách khuyến khích, thúc đẩy các dự án thuộc lĩnh vực công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, nghiên cứu phát triển; tạo thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị; thúc đẩy kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, phát triển bền vững. 

Đặc biệt, Việt Nam kêu gọi các doanh nghiệp, nhà đầu tư Trung Quốc tham gia đầu tư phát triển các công trình kết cấu hạ tầng chiến lược, như đường sắt, đường bộ cao tốc...; khuyến khích hình thức hợp tác công tư. Đây là cơ hội rất tốt cho các nhà đầu tư Trung Quốc mở rộng phạm vi hoạt động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tham gia phát triển hạ tầng cứng và mềm cho Việt Nam. Bài học kinh nghiệm của Trung Quốc cũng cho thấy cần đầu tư phát triển mạnh cho hạ tầng.

Về một số giải pháp chủ yếu để giảm chi phí, nâng chất lượng, nâng cao hiệu quả cho đầu tư tại Việt Nam, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Việt Nam sẽ tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh theo hướng minh bạch, thuận lợi, có khả năng cạnh tranh quốc tế. Rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật; cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và hệ thống kết cấu hạ tầng để giảm khuyến khích hình thức đối tác công tư (PPP). Ứng phó phù hợp với các xu hướng mới, phản ứng chính sách kịp thời với các vấn đề phát sinh.

Về thúc đẩy thương mại, cần rà soát, có cơ chế, chính sách cụ thể khuyến khích, thúc đẩy mạnh mẽ thương mại hai nước theo hướng cân bằng hơn, đặc biệt là nhập khẩu nông sản từ Việt Nam; tiếp tục thúc đẩy thương mại biên giới, nghiên cứu hình thành các khu thương mại biên giới phù hợp; phát triển hệ thống logistics, kết nối chuỗi cung ứng, thúc đẩy thương mại điện tử, tạo thuận lợi thương mại; tăng cường hợp tác chống buôn lậu, gian lận thương mại; đơn giản hóa thủ tục hành chính về xuất nhập khẩu, hải quan, nâng cao hiệu suất thông quan, tăng cường xuất khẩu chính ngạch; nâng cấp các cửa khẩu, sớm triển khai và nhân rộng mô hình cửa khẩu thông minh. Thủ tướng Phạm Minh Chính hoan nghênh việc xây dựng mô hình cửa khẩu thông minh giữa Lạng Sơn (Việt Nam) và Quảng Tây (Trung Quốc).

 Thủ tướng Phạm Minh Chính với các đại biểu tham dự diễn đàn.

 Thủ tướng Phạm Minh Chính với các đại biểu tham dự diễn đàn.

Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi các nhà đầu tư Trung Quốc tiếp tục đầu tư mở rộng ở Việt Nam. Chính phủ Việt Nam bảo đảm môi trường đầu tư thông thoáng, lành mạnh cho các nhà đầu tư; tinh thần đã nói là làm, đã cam kết là thực hiện; đã làm, đã thực hiện phải có hiệu quả, "cân, đong, đo, đếm" với tinh thần lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ, tất cả cùng thắng. Điều này chính là cụ thể hóa cam kết của Lãnh đạo cấp cao hai nước.

Tin, ảnh: TTXVN

Chuyến công tác tại Trung Quốc của Thủ tướng Phạm Minh Chính đạt nhiều kết quả quan trọng

 Tối 28-6, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã về tới Hà Nội, kết thúc thành công chuyến thăm chính thức Trung Quốc và tham dự Hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) tại Thiên Tân.

Nhân dịp này, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đã trả lời phỏng vấn báo chí về kết quả chuyến công tác tại Trung Quốc của Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam. Dưới đây là nội dung chính cuộc trả lời phỏng vấn.

Phóng viên (PV): Đề nghị Bộ trưởng đánh giá về kết quả quan trọng đạt được trong chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Thủ tướng Phạm Minh Chính?

Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn: Đây là chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của đồng chí Phạm Minh Chính trên cương vị Thủ tướng Chính phủ, diễn ra vào thời điểm Việt Nam và Trung Quốc kỷ niệm 15 năm thiết lập khuôn khổ quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện (6-2008 / 6-2023), trong bối cảnh quan hệ hai Đảng, hai nước duy trì cục diện phát triển và đạt nhiều thành quả tích cực mới, kể từ sau chuyến thăm chính thức Trung Quốc mang ý nghĩa lịch sử của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cuối năm 2022.

Lễ đón chính thức Thủ tướng Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam thăm chính thức Trung Quốc được tổ chức trọng thể tại Đại lễ đường Nhân dân ở Thủ đô Bắc Kinh, do Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường chủ trì. Ảnh: VGP
Lễ đón chính thức Thủ tướng Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam thăm chính thức Trung Quốc được tổ chức trọng thể tại Đại lễ đường Nhân dân ở Thủ đô Bắc Kinh, do Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường chủ trì. Ảnh: VGP

Chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Thủ tướng Phạm Minh Chính lần này có ý nghĩa quan trọng trong việc cụ thể hóa các nhận thức chung của hai đồng chí Tổng Bí thư, nhất là Tuyên bố chung tháng 11-2022 về việc tiếp tục đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước. Chuyến thăm đã thành công tốt đẹp và đạt nhiều kết quả quan trọng, thể hiện trên 4 khía cạnh:

Một là, tin cậy chính trị giữa hai nước được tăng cường mạnh mẽ, tạo cơ sở quan trọng để đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc trong tình hình mới, mang lại lợi ích cho nhân dân hai nước. Trong các cuộc gặp, các đồng chí lãnh đạo cấp cao Trung Quốc đều khẳng định hết sức coi trọng quan hệ hữu nghị hai Đảng, hai nước, thể hiện thành ý, thiện chí trong việc làm sâu sắc hơn nữa các mặt hợp tác giữa hai bên, nhất là trên kênh Đảng, trong các lĩnh vực trọng yếu như quốc phòng, an ninh. Đặc biệt, Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khẳng định, việc phát triển quan hệ với Việt Nam là lựa chọn chiến lược của Trung Quốc, Trung Quốc coi trọng phát triển quan hệ lâu dài với Việt Nam.

Hai là, hai bên đạt nhiều nhận thức chung quan trọng, nhất trí trong nhiều biện pháp cụ thể về thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực giữa hai nước, góp phần tạo cơ sở vật chất quan trọng cho thúc đẩy quan hệ hai nước Việt Nam-Trung Quốc thời gian tới. Hai bên nhất trí nâng cao chất lượng hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, đẩy mạnh kết nối giao thông, duy trì giao thương thông suốt, bảo đảm chuỗi sản xuất và chuỗi cung ứng. Phía Trung Quốc khẳng định sẽ tăng cường nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam, tăng thêm hạn ngạch cho hàng hóa Việt Nam quá cảnh bằng đường sắt Trung Quốc đi nước thứ ba, mở rộng đầu tư chất lượng cao của Trung Quốc vào những lĩnh vực phù hợp với nhu cầu của Việt Nam.

Ba là, tăng thêm sự hiểu biết hữu nghị, củng cố nền tảng xã hội cho việc phát triển quan hệ hai nước. Hai bên đạt nhiều nhất trí quan trọng về duy trì giao lưu, tiếp xúc thường xuyên qua kênh Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, giữa các bộ, ngành, địa phương và nhất là giữa nhân dân hai nước. Nhất trí khôi phục các hoạt động giao lưu nhân dân, qua đó giúp tuyên truyền cho các tầng lớp nhân dân hai nước, đặc biệt là thế hệ trẻ về truyền thống hữu nghị của hai Đảng, hai nước.

Bốn là, chuyến thăm có nhiều hoạt động phong phú, kết quả đạt được rất thực chất. Bên cạnh các hoạt động chính thức, Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự và phát biểu tại Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam-Trung Quốc, với sự tham gia rất đông đảo của các doanh nghiệp Trung Quốc, gặp gỡ nhân sĩ hữu nghị, tiếp xúc với nhiều doanh nghiệp lớn của Trung Quốc, đi khảo sát Khu mới Hùng An-đô thị kiểu mẫu mới nhất về cải cách mở cửa và đổi mới sáng tạo của Trung Quốc tại tỉnh Hà Bắc... Các doanh nghiệp đều đánh giá cao môi trường và triển vọng đầu tư của Việt Nam, đồng thời bày tỏ mong muốn mở rộng đầu tư vào Việt Nam thời gian tới.

PV: Đề nghị Bộ trưởng chia sẻ về ý nghĩa và những kết quả tham dự Hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới Thiên Tân (Hội nghị WEF Thiên Tân) năm nay của Việt Nam?

Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn: Với chủ đề “Doanh nghiệp: Động lực của nền kinh tế toàn cầu”, Hội nghị WEF Thiên Tân (Davos mùa hè) năm 2023 do WEF phối hợp với Chính phủ Trung Quốc tổ chức có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đây là một trong những sự kiện kinh tế có quy mô hàng đầu thế giới, quy tụ nhiều nhà lãnh đạo chính phủ các nước và khoảng 1.400 tập đoàn, doanh nghiệp lớn trên toàn cầu, lãnh đạo nhiều tổ chức quốc tế và các chuyên gia kinh tế uy tín. Diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, hội nghị đã tập trung đánh giá, trao đổi, tìm ra các định hướng, giải pháp, đặc biệt phối hợp giữa nhà nước với doanh nghiệp, nhằm duy trì đà tăng trưởng, ứng phó với các “cơn gió ngược” tác động nghiêm trọng đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu cả trong ngắn hạn và dài hạn.

Thủ tướng Phạm Minh Chính đã có lịch trình làm việc dày đặc trong gần 24 tiếng tại Thiên Tân, gồm tham dự và phát biểu nhiều phiên họp quan trọng, có các cuộc trao đổi thực chất, hiệu quả, cởi mở với lãnh đạo các nước, các tổ chức quốc tế và tập đoàn hàng đầu thế giới. Nổi bật là các cuộc gặp với Chủ tịch WEF Klaus Schwab, Thủ tướng các nước: New Zealand, Barbados, Mông Cổ, Tổng giám đốc Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và đông đảo lãnh đạo doanh nghiệp, nhất là tại đối thoại chiến lược quốc gia Việt Nam-WEF về chủ đề “Thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới để kiến tạo tương lai đất nước”.  Sự tham gia của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Hội nghị WEF Thiên Tân mang nhiều ý nghĩa và đạt nhiều kết quả quan trọng, thể hiện rõ nét như sau:

Một là, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chia sẻ nhiều quan điểm, cách tiếp cận, những định hướng, giải pháp hữu hiệu, thiết thực, kịp thời, xuất phát từ thực tiễn và kinh nghiệm của Việt Nam, nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Thông điệp của Thủ tướng về ba yếu tố nền tảng cho phát triển kinh tế là bảo đảm hòa bình, ổn định, đoàn kết, hợp tác quốc tế, cách tiếp cận toàn cầu, toàn dân, toàn diện, đặc biệt là khơi thông nguồn lực, thúc đẩy các động lực tăng trưởng và phát huy tiềm năng của doanh nghiệp nhỏ và vừa được đánh giá cao và trở thành định hướng thống nhất cao tại Hội nghị WEF năm nay.

Hai là, sự tham gia của Thủ tướng Phạm Minh Chính đã tiếp tục góp phần thúc đẩy thực chất quan hệ giữa Việt Nam và WEF. Việc hai bên ký kết Biên bản ghi nhớ hợp tác giai đoạn 2023-2026, tập trung vào những lĩnh vực khả thi như đổi mới sáng tạo, chuyển đổi xanh, tài chính xanh, chuyển đổi số... đã tạo nền tảng để tăng cường quan hệ hai bên trong giai đoạn mới. Với kết quả quan trọng này, WEF sẽ đẩy mạnh hơn nữa hợp tác, hỗ trợ Việt Nam về tư vấn chính sách và nâng cao năng lực thích ứng trước các xu thế phát triển mới, hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương trong những vấn đề có lợi ích thiết thực...

Ba là, sự tham gia của Việt Nam tại hội nghị với nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi cởi mở, thân tình của Thủ tướng Phạm Minh Chính với lãnh đạo các tập đoàn hàng đầu đã góp phần tiếp tục truyền tải đến cộng đồng doanh nghiệp toàn cầu về những thành tựu, tiềm năng, thế mạnh, những mục tiêu và định hướng phát triển của Việt Nam. Đây là cơ hội giá trị để các doanh nghiệp nước ngoài hiểu sâu sắc hơn về chủ trương, chính sách, môi trường đầu tư, qua đó tăng cường niềm tin và đẩy mạnh đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.

Có thể khẳng định, sự tham gia lần đầu tiên của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Hội nghị WEF Thiên Tân đã tạo dấu ấn tốt với cộng đồng doanh nghiệp quốc tế về vai trò, vị thế của Việt Nam, tiềm năng và triển vọng tươi sáng của nền kinh tế Việt Nam. Những đóng góp thiết thực của Việt Nam tại Hội nghị WEF Thiên Tân đã góp phần quan trọng vào thành công của hội nghị, đóng góp thúc đẩy quan hệ Việt Nam-WEF,  tăng cường hơn nữa việc thu hút các nguồn lực bên ngoài phục vụ thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội đất nước.

PV: Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!

 TRUNG ĐỖ (lược ghi)

Thông cáo báo chí chung Việt Nam - Trung Quốc

1. Nhận lời mời của Thủ tướng Quốc vụ viện nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Lý Cường, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Phạm Minh Chính đã thăm chính thức nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và dự Hội nghị thường niên các nhà tiên phong lần thứ 14 của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) tại Thiên Tân, từ ngày 25 đến 28-6-2023.

Trong thời gian chuyến thăm, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã hội kiến với Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình; hội đàm với Thủ tướng Quốc vụ viện Lý Cường; lần lượt có các cuộc gặp với Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Triệu Lạc Tế; Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Hội nghị Hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc Vương Hỗ Ninh.

Trong không khí hữu nghị, chân thành, tin cậy, hai bên đã thông báo cho nhau về tình hình mỗi Đảng, mỗi nước; đi sâu trao đổi ý kiến và đạt nhiều nhận thức chung quan trọng về việc tăng cường và làm sâu sắc hơn nữa hợp tác chiến lược toàn diện Việt- Trung trong tình hình mới và các vấn đề quốc tế, khu vực cùng quan tâm. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính còn đi khảo sát khu mới Hùng An, tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc).

Thủ tướng Phạm Minh Chính với Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường. Ảnh: Dương Giang/TTXVN 
Thủ tướng Phạm Minh Chính với Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường. Ảnh: Dương Giang/TTXVN 

2. Hai bên nhất trí cho rằng, hiện nay, quan hệ hai Đảng, hai nước Việt-Trung phát triển tốt đẹp, hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước thu được thành quả thiết thực. Hai bên nhất trí tiếp tục thực hiện tốt “Tuyên bố chung về việc tiếp tục đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc” trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng năm 2022, duy trì chặt chẽ giao lưu cấp cao, tăng cường giao lưu kênh Đảng, Chính phủ, Quốc hội Việt Nam và Nhân đại toàn quốc Trung Quốc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Chính hiệp toàn quốc Trung Quốc; tăng cường giao lưu học hỏi lẫn nhau trong tiến trình sự nghiệp thúc đẩy xây dựng chủ nghĩa xã hội của mỗi nước và tìm tòi hiện đại hóa mang đặc sắc của mỗi nước. Phát huy tốt vai trò điều phối tổng thể của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt-Trung, làm sâu sắc giao lưu hợp tác trong các lĩnh vực trọng điểm như ngoại giao, quốc phòng, thực thi pháp luật, kinh tế thương mại, nhân văn.

3. Hai bên nhấn mạnh, Việt Nam và Trung Quốc núi sông liền một dải, cùng chung chí hướng, chia sẻ vận mệnh chung, đều nỗ lực vì hạnh phúc của nhân dân, sự giàu mạnh của đất nước, nỗ lực cho sự nghiệp cao cả vì hòa bình và phát triển của nhân loại. Việt Nam coi phát triển quan hệ với Trung Quốc là lựa chọn chiến lược và ưu tiên hàng đầu; Trung Quốc coi Việt Nam là phương hướng ưu tiên của ngoại giao láng giềng của Trung Quốc. Việt Nam đánh giá cao Cộng đồng chung vận mệnh nhân loại, Sáng kiến Phát triển toàn cầu, Sáng kiến An ninh toàn cầu và Sáng kiến Văn minh toàn cầu do Trung Quốc đưa ra, hai bên sẽ đi sâu trao đổi về các biện pháp cụ thể.

4. Hai bên nhất trí tích cực thúc đẩy kết nối chiến lược phát triển giữa hai nước, đẩy nhanh hợp tác cùng xây dựng “Vành đai và con đường” chất lượng cao; tăng cường kết nối đường bộ, đường sắt khu vực biên giới, xây dựng hệ thống logistics đa phương thức, hiệu quả cao, bền bỉ; bảo đảm thông suốt cửa khẩu biên giới, đẩy nhanh việc nâng cấp mở cửa và kết nối cơ sở hạ tầng cửa khẩu, thúc đẩy hợp tác cửa khẩu thông minh, đẩy nhanh thực hiện phát triển hài hòa chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng. Tăng cường giao lưu học hỏi lẫn nhau giữa các doanh nghiệp nhà nước, tích cực tìm kiếm khả năng tăng cường hợp tác song phương và đa phương trong lĩnh vực khoáng sản then chốt. Phía Việt Nam sẽ tiếp tục tạo môi trường kinh doanh tốt đẹp cho doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư tại Việt Nam.

5. Hai bên nhất trí tăng cường giao lưu hữu nghị và hợp tác cùng có lợi giữa các địa phương hai nước, đặc biệt là các tỉnh khu vực biên giới; tăng cường giáo dục về tình hữu nghị Việt-Trung cho nhân dân hai nước, đặc biệt là thế hệ trẻ; tổ chức tốt các hoạt động giao lưu hữu nghị như: Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt-Trung, Liên hoan nhân dân biên giới Việt-Trung, Diễn đàn nhân dân Việt-Trung.

6. Hai bên sẽ thực hiện nghiêm túc nhận thức chung quan trọng liên quan đạt được giữa lãnh đạo hai Đảng, hai nước và “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc”, kiểm soát thỏa đáng bất đồng trên biển, tăng cường hợp tác trên biển, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông.

Hai bên nhất trí tiếp tục thúc đẩy thực hiện toàn diện, hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), trên cơ sở hiệp thương nhất trí, sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) thực chất, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.

7. Phía Việt Nam nhất quán kiên định chính sách “một Trung Quốc”, tái khẳng định Đài Loan là bộ phận không thể tách rời của Trung Quốc, kiên quyết phản đối các hoạt động chia rẽ đòi “Đài Loan độc lập” dưới mọi hình thức; không phát triển bất cứ quan hệ cấp nhà nước nào với Đài Loan.

8. Hai bên chủ trương các nước trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau triển khai giao lưu, hợp tác về vấn đề nhân quyền, thúc đẩy tăng cường đối thoại và hợp tác quốc tế trong vấn đề nhân quyền, kiên quyết phản đối chính trị hóa vấn đề nhân quyền.

9. Hai bên đồng ý kiên trì chủ nghĩa đa phương chân chính, cùng bảo vệ công bằng chính nghĩa quốc tế, tăng cường phối hợp trong các vấn đề lớn và quan trọng của quốc tế, khu vực; tiếp tục tăng cường phối hợp và ủng hộ lẫn nhau trong các khuôn khổ quốc tế và khu vực như: Liên hợp quốc, Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), ASEAN-Trung Quốc, Mê Công-Lan Thương. Thực hiện tốt Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Việt Nam ủng hộ Trung Quốc gia nhập Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) trên cơ sở phù hợp với các tiêu chuẩn và trình tự của hiệp định.

10. Trong thời gian chuyến thăm, hai Thủ tướng đã chứng kiến việc ký kết các văn kiện hợp tác trong lĩnh vực giám sát thị trường, cửa khẩu thông minh, lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển...

Hai bên nhất trí cho rằng, chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thành công tốt đẹp, làm sâu sắc quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt-Trung, có lợi cho hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực cũng như thế giới.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cảm ơn sự đón tiếp hữu nghị, nhiệt tình của phía Trung Quốc, trân trọng mời Thủ tướng Lý Cường thăm Việt Nam. Thủ tướng Lý Cường vui vẻ nhận lời.

Bắc Kinh, ngày 29-6-2023

Không gì có thể phủ nhận tấm lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Tất Thành

QĐND Online – Gần đây, có một số người chỉ dựa vào thư của Nguyễn Tất Thành viết ngày 15-9-1911 gửi Tổng thống Pháp xin vào học Trường Thuộc địa (École Coloniale) ở Paris và sự từ chối của giám đốc trường này để rồi quy chụp rằng “Nguyễn Tất Thành, bỏ nước ra đi chỉ với mục đích tìm đường làm quan, để giải quyết chuyện cơm ăn áo mặc của riêng mình, chứ không hề có ý định cứu nước giúp dân…”.

Đó là lập luận với ý đồ xấu nhằm hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh. Là một nhà nghiên cứu lịch sử, PGS, TS Vũ Quang Hiển (Đại học Quốc gia Hà Nội) đã có bài viết gửi Báo Quân đội nhân dân Điện tử phản bác quan điểm sai trái trên. 

Do thiếu phương pháp luận khoa học, nhất là quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm toàn diện, họ đã lấy cái cá biệt thay cho cái toàn thể, lấy một hiện tượng thay cho bản chất. Đó là thuật ngụy biện, dẫn đến những kết luận sai lầm và mang nặng tính chủ quan. Nhưng điều tệ hại hơn, những kết luận đó được không ít những người khác lợi dụng để tuyên truyền xuyên tạc, gây hoài nghi về tấm lòng giúp dân, cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, nhằm “hạ bệ thần  tượng Hồ Chí Minh”, làm lung lạc niềm tin của nhân dân Việt Nam đối với lãnh tụ của mình.

Đã có nhiều bài viết phản bác luận điểm trên, thiết nghĩ không cần phải bàn thêm. Nhưng khảo cứu lại điều kiện lịch sử lúc đó, tôi muốn làm sáng tỏ thêm một vấn đề căn cơ hơn: Vì sao Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước? Xin tóm tắt như sau:

Từ khi Pháp xâm lược Việt Nam, phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân Việt Nam đã diễn ra liên tục và anh dũng, với tinh thần “người trước ngã, người sau đứng dậy”. Nhiều phong trào yêu nước và con đường cứu nước theo các khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra liên tiếp cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, nhưng đều không thành công. Sự nghiệp cứu nước lâm vào một “tình hình đen tối tưởng như không có đường ra”, đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải tìm một con đường cứu nước mới.

Đất nước mất độc lập, nhân dân mất tự do. Độc lập tự do là khát vọng cháy bỏng của mọi người Việt Nam yêu nước, thôi thúc nhiều người ra đi tìm đường cứu nước, trong đó có Nguyễn Tất Thành.

Thứ hai, do sự hấp dẫn của văn minh nhân loại, nhất là khẩu hiệu “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” của cách mạng Pháp.

Sinh ra và lớn lên trong một nhà Nho giàu lòng yêu nước, Nguyễn Tất Thành sớm chịu ảnh hưởng của gia đình và truyền thống văn hoá của quê hương xứ Nghệ, có sự am hiểu về Nho giáo. Chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá phương Đông, nhưng ở Nguyễn Tất Thành không có sự chối bỏ, hay mâu thuẫn với văn hoá phương Tây. Với tư duy văn hoá mở, Nguyễn Tất Thành cảm nhận được sự phong phú của các nền văn hóa, hướng tới một thế giới năng động và sáng tạo, nhất là nơi có khoa học, kỹ thuật phát triển và những tư tưởng mới.

Tháng 9-1905, vào tuổi 13, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt được thân phụ Nguyễn Sinh Huy xin cho theo học lớp dự bị (préparatoire) Trường tiểu học Pháp - bản xứ ở Vinh. Tại đây, Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc với khẩu hiệu TỰ DO – BÌNH ĐẲNG – BÁC ÁI và “muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”[1]. Trong thời gian làm thầy giáo ở Trường Dục Thanh, Phan Thiết (1910), Nguyễn Tất Thành được đọc Tân thư trong gia đình cụ Nguyễn Thông, tiếp cận với các thuyết nhân quyền, dân quyền, tự do, bình đẳng, bác ái do những triết gia và văn hào Pháp khởi xướng như J.J. Rousseau, Ch. De Montesquieu, Fr. Voltaire… Nguyễn Tất Thành được đọc một số tờ báo phát hành sang Việt Nam, nên “nảy ra ý muốn sang xem “mẫu quốc” ra sao”[2].

Ý tưởng đi sang phương Tây để tìm hiểu tình hình các nước và học hỏi thành tựu văn minh nhân loại từng bước lớn lên trong tâm trí Nguyễn Tất Thành, thể hiện sự mong muốn tiếp thu giá trị văn hoá nhân loại, là bước khởi động để đưa Việt Nam hội nhập vào các trào lưu tiến bộ của thời đại.

Thứ ba, nhờ trí tuệ và sự nhạy cảm về chính trị chính trị, Nguyễn Tất Thành nhận thấy sự cần thiết phải tìm một con đường mới.

Nguyễn Tất Thành nhận thấy hạn chế trong phong trào cứu nước của các vị tiền bối. Phong trào Đông Du tan rã, chứng tỏ không thể dựa vào Nhật để đánh Pháp, điều đó chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Thất bại của phong trào Duy tân cũng cho thấy việc trông chờ vào thiện chí cuả người Pháp để được trao trả nền độc lập cũng chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”. Khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn, “nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong kiến". Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của các vị tiền bối, nhưng Nguyễn Tất Thành không theo con đường của họ.

Được theo phụ thân đi nhiều nơi gặp những người cùng chí hướng để bàn luận về thời cuộc, Nguyễn Tất Thành có điều kiện mở rộng tầm nhìn, tầm suy nghĩ, thấy rõ sự thống khổ của nhân dân, nên “sớm có  chí đuổi thực dân Pháp giải phóng đồng bào” và không khỏi băn khoăn khi thấy nhiều cuộc nổi dậy của nhân dân không thành công. Làm thế nào để cứu nước là câu hỏi sớm được đặt ra trong tâm trí người thiếu niên yêu nước Nguyễn Tất Thành.

Năm học 1908-1909, Nguyễn Tất Thành vào học Trường Quốc học Huế, tận mắt chứng kiến cảnh thực dân Pháp khinh rẻ, bóc lột, hành hạ người Việt Nam, được nghe kể về những hành động của những ông vua yêu nước như Thành Thái, Duy Tân và những bàn luận của những sĩ phu yêu nước về con đường cứu nước.

Ngày 4-12-1908, Nguyễn Tất Thành tham gia cuộc biểu tình chống thuế của nông dân Thừa Thiên. Họ đi tay không, chỉ đòi giảm thuế. Để tỏ tình đoàn kết nhất trí, họ đều cắt tóc ngắn và gọi nhau là “đồng bào”.  Vì những hoạt động yêu nước, Nguyễn Tất Thành bị người Pháp để ý theo dõi. Ông Nguyễn Sinh Sắc cũng bị chính quyền thuộc địa khiển trách vì để con trai có những hoạt động bài Pháp. Nguyễn Tất Thành được chứng kiến thực dân Pháp khinh rẻ, bóc lột, hành hạ người Việt Nam, nhà trường ca ngợi chế độ thực dân phong kiến; được nghe kể về hành động của những ông vua yêu nước như Thành Thái, Duy Tân và những bàn luận về con đường cứu nước trong các sĩ phu yêu nước…  

Một lần trả lời nhà văn Mỹ Anna Luyxơtơrông, Nguyễn Ái Quốc nói: “Nhân dân Việt Nam, trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”[3].

Thứ tư, một quyết định lịch sử của cá nhân Nguyễn Tất Thành

Được chứng kiến thất bại của các phong trào yêu nước chống Pháp, từ lòng yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc, năm 1911 Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước.

Trước khi đi, Tất Thành bàn với một người bạn thân: “Tôi muốn đi ra ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm… Anh muốn đi với tôi không?”. Khi người bạn hỏi “lấy đâu ra tiền mà đi?”, Nguyễn Tất Thành vừa nói, vừa giơ hai bàn tay một cách tự tin và kiên quyết: “Đây, tiền đây… chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi”[4].

Ngày 3-6-1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi Văn Ba được một thuỷ thủ dẫn lên tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin (Amiral Latouche Tréville), một con tàu lớn của hãng Sácgiơ Rêuyni (Charge Réuni), vừa chở khách, vừa chở hàng, gặp thuyền trưởng Maixen (Maisen) và được nhận làm phụ bếp trên tàu. Chuyến đi được xác định.

Ngày 5-6-1911, con tàu Amiral Latouche Tréville nhổ neo, rời bến cảng Sài Gòn đi Marseille. Với hành trang là chủ nghĩa yêu nước, cuộc hành trình đi tìm chân lý của Nguyễn Ái Quốc bắt đầu. Đó là chuyến đi một mình, không theo một tổ chức nào, cũng không có nguồn tài trợ của bất cứ ai. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc vượt qua các đại dương đầy sóng gió, tự lao động để kiếm sống, đến với nhân loại cần lao đang tranh đấu ở nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới, ở cả phương Đông và phương Tây, cả các nước tư bản và thuộc địa.

Một thời kỳ mới trong cuộc đời hoạt động của Nguyễn Ái Quốc - thời kỳ khảo nghiệm và tìm kiếm chân lý cứu nước bắt đầu.

Sự kiện Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước (5-6-1911) không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, mà là một quyết định lịch sử, khởi đầu từ ý tưởng “làm quen với nền văn minh Pháp” xuất hiện từ thuở thiếu thời, khi được nghe các vị tiền bối luận bàn về phương thức cứu nước, cứu dân; được thôi thúc bởi thực tiễn phong trào yêu nước của nhân dân và sự đàn áp khốc liệt của thực dân Pháp. Sự kiện đó thể hiện thiên tài trí tuệ và nhãn quan chính trị sắc bén của Nguyễn Ái Quốc trước những thử thách khắc nghiệt của vận nước và sự biến chuyển của thời đại. Đó là quyết định mang tính nhân văn sâu sắc, nhằm vươn tới một chân trời mới, đưa đất nước hội nhập vào trào lưu tiến hoá của nhân loại, hướng tới giải phóng triệt để con người khỏi sự áp bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về mặt giai cấp và sự nô dịch về mặt tinh thần.

Bản lĩnh Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, ngay từ quá trình tìm đường cứu nước, đã khởi đầu một hướng đi mới cho dân tộc Việt Nam, mà Ô. Manđenxtam cảm nhận “như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới”[5].

PGS, TS VŨ QUANG HIỂN, Đại học Quốc gia Hà Nội

Ý chí và nghị lực của Nguyễn Tất Thành khi ra đi tìm đường cứu nước

 Cho đến hôm nay, sau 110 năm của sự kiện lịch sử ngày 5-6-1911 Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, nhiều người dân trong nước và bè bạn trên thế giới vẫn đang tìm câu trả lời một cách đầy đủ nhất cho những câu hỏi: Vì sao người thanh niên Nguyễn Tất Thành một thân một mình, bầu bạn không có, chỉ với chút kiến thức học ở trường cùng hai bàn tay trắng, dám vượt đại dương đi thẳng về phía kẻ thù của chính dân tộc mình để tìm con đường cứu nước?

Vì sao những khó khăn gian khổ trên hành trình dài đằng đẵng 30 năm tìm đường cứu nước vẫn không làm Người chùn bước, hay trước sự xa hoa tráng lệ của những đô thị và cuộc sống ở phương Tây hay nước Mỹ mà Người có dịp đặt chân đến vẫn không thể cám dỗ và làm lay chuyển được sự quyết tâm và lập trường kiên định của Người… Chỉ duy nhất có Người, với chuyến đi lịch sử 40 ngày của mình (từ Sài Gòn đến Marseille - nước Pháp), đã mở ra một chương lịch sử hào hùng cho dân tộc Việt Nam, cho thế giới thuộc địa và cho tất cả những con người bị áp bức trên Trái đất này. Có thể khẳng định ý chí và nghị lực là hai yếu tố rất quan trọng giúp Nguyễn Tất Thành quyết tâm đi ra tìm đường cứu nước và cũng chính ý chí, nghị lực đã giúp Người vượt qua tất cả những khó khăn, gian khổ trong hành trình bôn ba qua 3 đại dương, 4 châu lục, hơn 30 quốc gia và các vùng lãnh thổ, qua hàng trăm thành phố lớn nhỏ để tìm con đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam.

Bến Nhà Rồng - nơi Bác Hồ rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Ảnh tư liệu: Báo Điện tử Đảng cộng sản.
Bến Nhà Rồng - nơi Bác Hồ rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Ảnh tư liệu: Báo Điện tử Đảng cộng sản.

Ở Nguyễn Tất Thành, ý chí và nghị lực được hình thành, phát triển trong môi trường sống và điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của đất nước, từ những tố chất cá nhân của Người và thừa hưởng từ cha mẹ, gia đình, quê hương. Người sinh ra và lớn lên khi đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, nhân dân bị lầm than đói khổ. Quê hương Người là Nghệ An, vùng đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống yêu nước với những tên tuổi lớn như: Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu… Người xuất thân trong một gia đình nhà Nho nền nếp, mang những nét đặc trưng của xã hội Việt Nam thời phong kiến. Cha của Người là ông Nguyễn Sinh Sắc đã đỗ Phó bảng trong kỳ thi Hội năm 1901 nhưng nhiều năm liền trì hoãn việc làm quan bởi với ông: “Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ” (nghĩa là: Làm quan là nô lệ trong đám nô lệ, lại càng nô lệ hơn). Mẹ của Người là bà Hoàng Thị Loan, một người phụ nữ Việt Nam điển hình, làm nghề nông và dệt vải, tần tảo nuôi chồng con ăn học. Được nuôi dưỡng bởi những truyền thống tốt đẹp của quê hương xứ Nghệ; của ý chí học tập và sự kiên nhẫn của người cha, của tâm hồn và tình cảm của người mẹ hiền, Nguyễn Tất Thành và anh chị em của mình ngay từ khi còn nhỏ tuổi đã biết nói những điều hay, làm những việc tốt, giàu lòng vị tha, nhân ái, chan hòa trong nghĩa cử đồng bào.

Bản thân Người, ngay từ thuở nhỏ đã có tố chất thông minh, ham học hỏi và thích khám phá những điều mới lạ. Được cha gửi đến học chữ Hán với các thầy giáo có tư tưởng yêu nước tiến bộ, Nguyễn Tất Thành dần hiểu được thời cuộc và sự day dứt, bế tắc của các bậc cha chú trước cảnh nước mất nhà tan. Lớn lên, càng tiếp cận với nền văn minh Pháp qua sách vở học ở nhà trường, Nguyễn Tất Thành càng muốn tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của Tây Âu. Những điều thầy dạy ở trường khác xa với cuộc sống, với thân phận của người dân mà Người phải chứng kiến hằng ngày. Rồi thực tiễn thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX đã đặt ra nhiều câu hỏi và tác động đến chí hướng của Nguyễn Tất Thành, để rồi Người tự xác định mục đích cho hành động và định hướng hoạt động của mình: Rời Tổ quốc, sang phương Tây tìm đường cứu nước, cứu dân. Như chính Người đã xác nhận trong cuộc trả lời phỏng vấn nhà báo Nga Osip Mandelstam năm 1923: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy… Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài(1).

Ý chí và nghị lực của Nguyễn Tất Thành còn thể hiện sâu sắc ở sự khắc phục những khó khăn, gian khổ, không chỉ vượt qua khó khăn, gian khổ mà còn vượt qua cả những cám dỗ để vững vàng, kiên định với lý tưởng, mục đích của mình. Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, những năm còn nhỏ Nguyễn Tất Thành đã trải qua cuộc sống khó khăn, thiếu thốn. Và nỗi đau mất mát lớn nhất đầu tiên tác động đến tình cảm, ý chí và nghị lực trong cuộc đời Nguyễn Tất Thành là vào năm 1900. Mới 11 tuổi Người đã mất mẹ và em trai nhỏ, phải thay cha, thay anh chị, nhờ sự giúp đỡ của bà con hàng xóm ở Huế để lo tang cho mẹ. Hoàn cảnh khó khăn cùng với nỗi đau và sự mất mát đã tiếp thêm cho Nguyễn Tất Thành ý chí và nghị lực để vượt qua những thử thách, gian khổ trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước của Người sau này.

Thời điểm đầu thế kỷ XX, với Nguyễn Tất Thành và phần đông người Việt Nam lúc bấy giờ, thế giới Đông - Tây vẫn còn khép kín, tách biệt. Con đường đi sang phương Tây của tầng lớp lao động chỉ rộng mở hơn nếu họ có quan hệ với ngành hàng hải, thương mại. Nghĩ đến cuộc hành trình lênh đênh trên biển hàng vạn dặm, không phải Nguyễn Tất Thành không có băn khoăn. Người nói về quyết định của mình, bày tỏ những băn khoăn của mình với một người bạn, “đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm…”, đồng thời bày tỏ nguyện vọng khuyên người bạn cùng đi. Và khi người bạn không dám mạo hiểm ra đi, Người đã quyết tâm ra đi bằng đôi bàn tay trắng, với ý chí “sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi(2).

Cả cuộc hành trình 30 năm tiếp theo đó, Nguyễn Tất Thành phải đối mặt và vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách. Những ngày khó khăn, cực nhọc đầu tiên đó là những ngày Người làm phụ bếp trên tàu Latouche Tréville: Mỗi ngày phải làm từ bốn giờ sáng, quét dọn sạch sẽ nhà bếp lớn trên tàu, tối đốt lửa trong các lò, đi khuân than, xuống hầm lấy rau, thịt cá, nước đá... Công việc khá nặng nhọc vì dưới bếp rất nóng và trong hầm rất rét, nhất là khi vừa phải vác một bao nặng vừa leo lên những bậc thang trong khi tàu tròng trành, thậm chí có lần suýt chết đuối vì biển nổi sóng to... Nhiều lúc tưởng chừng như Người không vượt qua nổi thử thách đầu tiên. Nhưng ý chí và nghị lực kiên cường, càng gian khổ, khó khăn sức chịu đựng của Người ngày càng rắn rỏi. Công việc quen dần, nỗi vất vả như lùi lại phía sau mỗi hải lý con tàu vượt qua. Những năm tháng đặt chân đến Anh, Pháp, Mỹ, Nguyễn Tất Thành tiếp tục trải qua những tháng ngày lao động gian khổ với nhiều nghề vất vả khó khăn để kiếm sống và nuôi chí lớn tìm con đường cứu nước.

Những ngày trên đất nước Mỹ (năm 1912), Nguyễn Tất Thành làm thuê ở quận Brooklyn (ngoại vi thành phố New York) rồi làm thợ bánh và phụ giúp đầu bếp nấu những món ăn Pháp ở khách sạn Omni Parker House (Boston). Tại nước Anh (năm 1913), Người từng làm các công việc nặng nhọc như cào tuyết ở trường học, đốt lò ở hầm, làm phụ bếp ở khách sạn Drayton Court, làm dọn dẹp và rửa bát đĩa ở khách sạn Carlton trước khi được đầu bếp huyền thoại người Pháp Escosffier chuyển Người lên khu vực làm bánh và “truyền nghề” cho để Người có số lương cao hơn và có thì giờ hơn để học tiếng Anh. Những ngày trở lại Pháp (năm 1917) cuộc sống hết sức khó khăn, Nguyễn Tất Thành làm thuê cho một cửa hàng ảnh, công việc bấp bênh, thu nhập thấp. Người còn làm nhiều nghề khác như: Làm đồ giả cổ, vẽ quạt, lọ hoa, chao đèn… Mùa đông giá rét, mỗi buổi sáng trước khi đi làm, Người đều để một viên gạch vào bếp lò của bà chủ nhà. Đến chiều, Người lại lấy viên gạch ra, bọc trong những tờ báo cũ rồi để trên giường cho đỡ rét. Ăn uống thiếu thốn cùng với lao động và hoạt động vất vả, sức khoẻ của Nguyễn Tất Thành giảm sút, nhưng nhờ vào ý chí nghị lực rèn luyện Người đã vượt qua những khó khăn về sức khoẻ để tiếp tục tham gia vào những hoạt động chính trị.

Không chỉ gặp khó khăn, thiếu thốn về vật chất trong cuộc sống, mà trong cuộc hành trình suốt 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành luôn bị kẻ thù rình rập, theo dõi, giám sát, hăm dọa và tìm mọi thủ đoạn hãm hại. Bản án tử hình vắng mặt (năm 1929) và những ngày bị thực dân Anh bắt giam tại Nhà ngục Victoria, Hồng Kông (năm 1931) mà Người đã trải qua và tất cả những khó khăn gian khổ đó không làm Nguyễn Tất Thành chùn bước. Ngược lại, những thử thách đó càng tiếp thêm cho Người nghị lực, ý chí và sức mạnh để cổ vũ Người vượt qua, kiên định lập trường của mình là tìm con đường cứu nước cho nhân dân Việt Nam. Dù chịu cảnh tù đày nghiệt ngã trong dãy xà lim “bề rộng chỉ vừa một người nằm xiên xiên” nhưng sau này khi viết lại những năm tháng ấy, Người chỉ nói đến tâm tư của mình “khi bị bắt giam, trong tâm trạng chỉ có một điều là lo, không phải là lo cho số phận của mình sau này sẽ ra sao… lo là lo những công việc mình làm xong, ai sẽ tiếp tục làm thay?”.

Có thể nói, ý chí và nghị lực là tố chất rất quan trọng đối với mỗi một con người, giúp con người xác định mục đích và đưa ra những quyết định cho hướng hoạt động của mình và giúp con người vượt qua những khó khăn, thử thách nhằm đạt được mục đích. Ở Nguyễn Tất Thành ý chí và nghị lực mang tính nhân văn sâu sắc và được thể hiện ở một tầm cao mới, định hướng cho lý tưởng, cho mục đích cao cả trọn cuộc đời của Người: “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”, giúp Người vượt qua tất cả những khó khăn gian khổ trong hành trình suốt 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước.

VŨ KIM YẾN, Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch

Trung Quốc đã dành cho Thủ tướng sự đón tiếp "thắm tình đồng chí anh em"

 Trung Quốc đã dành cho Thủ tướng Phạm Minh Chính sự đón tiếp rất trọng thị, chu đáo, thân tình, thắm tình “đồng chí anh em”. Thủ tướng hội đàm, hội kiến với tất cả 4 lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc.

Tối ngày 28/6, Thủ tướng Phạm Minh Chính và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã về tới Hà Nội, kết thúc tốt đẹp chuyến thăm chính thức Trung Quốc và tham dự Hội nghị thường niên các nhà tiên phong lần thứ 14 của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) tại Thiên Tân từ ngày 25-28/6.

Trả lời báo chí về những kết quả nổi bật của chuyến công tác, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn nhấn mạnh, chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Thủ tướng Phạm Minh Chính lần này có ý nghĩa quan trọng trong việc cụ thể hóa các nhận thức chung của hai Tổng Bí thư, nhất là Tuyên bố chung tháng 11/2022 về việc tiếp tục đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước. 

Theo Bộ trưởng Ngoại giao, chuyến thăm đã thành công tốt đẹp và đạt nhiều kết quả quan trọng, thể hiện trên 4 khía cạnh.

Đầu tiên là tin cậy chính trị giữa hai nước được tăng cường mạnh mẽ, tạo cơ sở quan trọng để đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt - Trung trong tình hình mới, mang lại lợi ích cho Nhân dân hai nước.

Trung Quốc dành cho Thủ tướng sự đón tiếp rất trọng thị, chu đáo, thân tình, thắm tình “đồng chí anh em”. Thủ tướng hội đàm, hội kiến với tất cả 4 lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình; Thủ tướng Quốc vụ viện Lý Cường; Ủy viên trưởng Nhân đại Triệu Lạc Tế; Chủ tịch Chính hiệp Vương Hộ Ninh.

“Trong không khí hữu nghị, chân thành, cởi mở, lãnh đạo cấp cao hai bên đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường tin cậy chính trị, xử lý thỏa đáng và kiểm soát tốt bất đồng, đưa quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc phát triển ổn định, lành mạnh, hiệu quả lâu dài”,  Bộ trưởng Ngoại giao thông tin.

Đáng chú ý, trong các cuộc gặp, các lãnh đạo cấp cao Trung Quốc đều khẳng định hết sức coi trọng quan hệ hữu nghị hai Đảng, hai nước, thể hiện thành ý, thiện chí trong việc làm sâu sắc hơn nữa những mặt hợp tác giữa hai bên, nhất là trên kênh Đảng, trong các lĩnh vực trọng yếu như an ninh, quốc phòng. 

“Đặc biệt, Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khẳng định, việc phát triển quan hệ với Việt Nam là lựa chọn chiến lược của Trung Quốc, Trung Quốc coi trọng phát triển quan hệ lâu dài với Việt Nam”, Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn nói.

Kết quả nữa là hai bên đạt nhiều nhận thức chung quan trọng, nhất trí trong nhiều biện pháp cụ thể về thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực giữa hai nước, góp phần tạo cơ sở vật chất quan trọng cho thúc đẩy quan hệ hai nước Việt Nam - Trung Quốc trong thời gian tới. 

Hai bên nhất trí nâng cao chất lượng hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, đẩy mạnh kết nối giao thông, nhất là trong lĩnh vực đường sắt, đường bộ, hạ tầng cửa khẩu, nâng cao hiệu suất thông quan, duy trì giao thương thông suốt, bảo đảm chuỗi sản xuất và chuỗi cung ứng. 

Phía Trung Quốc khẳng định sẽ tăng cường nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam, nhất là hàng nông sản, tăng thêm hạn ngạch cho hàng hóa Việt Nam quá cảnh bằng đường sắt Trung Quốc đi nước thứ ba, mở rộng đầu tư chất lượng cao của Trung Quốc vào những lĩnh vực phù hợp với nhu cầu của Việt Nam. 

Ngoài ra, chuyến thăm lần này tăng thêm sự hiểu biết hữu nghị, củng cố nền tảng xã hội cho việc phát triển quan hệ hai nước. 

Bên cạnh đó, chuyến thăm có nhiều hoạt động phong phú, kết quả đạt được rất thực chất. 

Ngoài các hoạt động chính thức, Thủ tướng tham dự và phát biểu tại Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam - Trung Quốc, với sự tham gia rất đông đảo của các doanh nghiệp Trung Quốc, gặp gỡ nhân sỹ hữu nghị, tiếp xúc với nhiều doanh nghiệp lớn của Trung Quốc, đi khảo sát Khu mới Hùng An - đô thị kiểu mẫu mới nhất về cải cách mở cửa và đổi mới sáng tạo của Trung Quốc tại tỉnh Hà Bắc…

Các doanh nghiệp đều đánh giá cao môi trường và triển vọng đầu tư của Việt Nam, đồng thời bày tỏ mong muốn mở rộng đầu tư vào Việt Nam thời gian tới… 

Tạo dấu ấn tốt với cộng đồng doanh nghiệp quốc tế 

Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn cũng cho biết, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng với Thủ tướng các nước New Zealand, Mông Cổ, Barbaros là những khách mời chính tại Hội nghị WEF Thiên Tân năm 2023. 


WEF đánh giá, đây là đại diện những nền kinh tế mới nổi, có đóng góp ngày càng quan trọng cho kinh tế khu vực và toàn cầu, đang tiên phong trong một số lĩnh vực then chốt tạo ra các động lực mới cho phát triển.

Thủ tướng đã có lịch trình làm việc dày đặc trong gần 24 giờ tại Thiên Tân. Nổi bật là các cuộc gặp với Chủ tịch WEF Klaus Schwab, Thủ tướng các nước New Zealand, Barbaros, Mông Cổ, Tổng Giám đốc Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và đông đảo lãnh đạo doanh nghiệp.

Thủ tướng đã dự và phát biểu nhiều nội dung quan trọng tại Đối thoại chiến lược quốc gia Việt Nam – WEF về chủ đề “Thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới để kiến tạo tương lai đất nước”.  

Tại các cuộc gặp gỡ này, Thủ tướng chia sẻ nhiều quan điểm, cách tiếp cận, những định hướng, giải pháp hữu hiệu, thiết thực, kịp thời, xuất phát từ thực tiễn và kinh nghiệm của Việt Nam, nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu.

6 “cơn gió ngược”, cũng là 6 nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm kinh tế toàn cầu và 6 định hướng giải pháp mà Thủ tướng Chính phủ đưa ra đã được lãnh đạo các nước và cộng đồng doanh nghiệp hết sức chia sẻ. 

Thông điệp của Thủ tướng về 3 yếu tố nền tảng cho phát triển kinh tế là bảo đảm hòa bình, ổn định, đoàn kết, hợp tác quốc tế, cách tiếp cận toàn cầu, toàn dân, toàn diện, đặc biệt là khơi thông nguồn lực, thúc đẩy các động lực tăng trưởng và phát huy tiềm năng của doanh nghiệp nhỏ và vừa được đánh giá cao và trở thành định hướng thống nhất cao tại Hội nghị WEF năm nay. 

Bộ trưởng Ngoại giao khẳng định, sự tham gia của Thủ tướng đã tiếp tục góp phần thúc đẩy thực chất quan hệ giữa Việt Nam và WEF. 

Việc hai bên ký kết Biên bản ghi nhớ hợp tác (MOU) giai đoạn 2023-2026, tập trung vào những lĩnh vực khả thi như đổi mới sáng tạo, chuyển đổi xanh, tài chính xanh, chuyển đổi số… đã tạo nền tảng để tăng cường quan hệ hai bên trong giai đoạn mới. 

WEF sẽ đẩy mạnh hơn nữa hợp tác, hỗ trợ Việt Nam về tư vấn chính sách và nâng cao năng lực thích ứng trước các xu thế phát triển mới, hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương trong những vấn đề có lợi ích thiết thực...

Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn cho rằng, sự tham gia của Việt Nam tại hội nghị đã góp phần tiếp tục truyền tải đến cộng đồng doanh nghiệp toàn cầu về những thành tựu, tiềm năng, thế mạnh, những mục tiêu và định hướng phát triển của Việt Nam. 

Đây là cơ hội giá trị để các doanh nghiệp nước ngoài hiểu sâu sắc hơn về chủ trương, chính sách, môi trường đầu tư. Qua đó tăng cường niềm tin và đẩy mạnh đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam. 

“Điều đáng mừng là tại tất cả các cuộc trao đổi, Việt Nam luôn được giới thiệu là một trong những nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao, một nền kinh tế năng động, đổi mới với quy mô và tiềm năng ngày càng lớn mạnh”, Bộ trưởng Ngoại giao nói.

Ông Bùi Thanh Sơn cũng khẳng định, sự tham gia lần đầu tiên của Thủ tướng tại hội nghị WEF Thiên Tân đã tạo dấu ấn tốt với cộng đồng doanh nghiệp quốc tế về vai trò, vị thế của Việt Nam, tiềm năng và triển vọng tươi sáng của nền kinh tế Việt Nam.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...