Thứ Tư, 14 tháng 9, 2016

KHÁI LƯỢC MỘT SỐ CÔNG TRÌNH, TÁC PHẨM CỦA CÁC HỌC GIẢ NƯỚC NGOÀI VÀ BẠN BÈ QUỐC TẾ VIẾT VỀ HỒ CHÍ MINH



                                                                                                                  
1 . Tình hình nghiên cứu về Hồ Chí Minh của các học giả nước ngoài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong số ít lãnh tụ của quốc gia được đông đảo học giả trên thế giới để tâm nghiên cứu. Việc nghiên cứu về Hồ Chí Minh được các học giả nước ngoài tiến hành chủ yếu từ tháng 9 năm 1945, tức là khi Hồ Chí Minh giữ cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ở đây đề cập các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài không bao hàm các hồ sơ, tài liệu của mật thám Anh, Pháp…). Đặc biệt, từ khi có Nghị quyết của Liên hiệp quốc (tổ chức UNESCO) tôn vinh Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng ân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất” (1987), đã làm cho số lượng học giả nước ngoài quan tâm nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày càng nhiều.
Chủ đề các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài về Hồ Chí Minh rất phong phú về nội dung, đa dạng về thể loại. Theo con số thống kê, cho đến nay, đã có trên 300 tác phẩm, công trình nghiên cứu, hàng trăm bài tạp chí, hàng ngàn bài báo của các nhà nghiên cứu Lịch sử, Văn học, Triết học, Tâm lý học, Nhân chủng học, Văn hóa học, các nhà thơ, các phóng viên của các tờ báo lớn trên thế giới…viết về Hồ Chí Minh. Những công trình, tác phẩm nghiên cứu của các học giả nước ngoài góp phần khẳng định những cống hiến to lớn của Người đối với dân tộc và nhân loại. Với việc UNESCO ra quyết định tôn vinh Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất là lời phản bác chính thức đối với những ý kiến xuyên tạc, bôi nhọ cuộc đời, sự nghiệp cách mạng cao cả, vĩ đại của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
2. Khái quát về nội dung, chủ đề các công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh của các học giả nước ngoài
2.1. Nghiên cứu về tiểu sử, cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Là một danh nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh được đông đảo học giả trên thế giới đặc biệt quan tâm nghiên cứu về tiểu sử, về cuộc đời, về thân thế. Tuy nhiên, việc nghiên cứu Tiểu sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh không mấy dễ dàng (ngay cả đối với những nhà nghiên cứu trong nước). Bởi không gian hoạt động của Hồ Chí Minh quá lớn, thời gian hoạt động bí mật kéo dài, đã làm cho nhiều khoảng trống về tư liệu không dễ tìm thấy. Ngoài ra, còn phải kể đến những trường hợp cố tình đưa thông tin sai lệch về Hồ Chí Minh, nhằm động cơ hạ thấp uy tín chính trị, xuyên tạc, thậm chí bôi nhọ tiểu sử Hồ Chí Minh. Giáo sự Bécna Fôn - học giả người Pháp, tác giả cuốn: “Hồ Chí Minh” xuất bản ở Pari thừa nhận: “Về những chi tiết đời tư của Cụ, đúng là chúng ta chưa nắm bắt được nhiều lắm. Trước hết là vì Cụ Hồ Chí Minh đã hoạt động lâu trong bí mật. Hai là, ngay sau khi nắm được chính quyền năm 1945, Quốc dân đảng tìm cách xuyên tạc chính phủ mà cụ Hồ làm Chủ tịch, các cuộc đàm phán với Pháp cũng đang tiến hành, cho nên phải thận trọng không thể tiết lộ nguồn gốc của mình” (C.P.Ragiô: Hồ Chí Minh, NXB Đại học, Pari, 1970. Bản dịch của Thế Phong, tr.191-192).
Cho dù nghiên cứu, viết tiểu sử sự nghiệp của Hồ Chí Minh là một việc làm rất khó, nhưng cũng đã có rất nhiều tác phẩm của các học giả nước ngoài viết về tiểu sử Hồ Chí Minh. Không ít tác phẩm được xây dựng một cách công phu theo lối lồng ghép với quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam, lịch sử Đông Dương, hoặc thể hiện thuần túy theo lối viết sử danh nhân, nhân vật lịch sử. Tiêu biểu các tác phẩm theo dạng này có thể kể đến như: C.P. Ragiô: Hồ Chí Minh, NXB. Đại học, Pari, 1970; David Halberstam: Hồ, Răngđôm Haosơ, New Yoók, 1971; Deniel Hemery: Du patriotisme au Mexisme (Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác), P.Les éd, uovriercs, 1975; Jean Lacouture: Ho Chi Minh (Hồ Chí Minh), Paris, Seuil, 1970; Paul Mus: Ho Chi Minh, Le Vietnam, L’Asie (Hồ Chí Minh, Việt Nam và châu Á), Paris, Seuil, 1971; Patti A.L: Why Vietnam (Tại sao Việt Nam?), The University of California, Pres, 2002; Wiliam J.Duiker: Ho Chi Minh (Hồ Chí Minh), Hyperion, New York, 2002, v.v..
Có thể kể đến rất nhiều cuốn sách và những công trình nghiên cứu khác viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh dưới dạng tiểu sử danh nhân, hay tiểu sử nhân vật lịch sử tương tự những cuốn sách kể trên, với nhiều góc tiếp cận khác nhau, với nhiều nội dung phong phú viết về cuộc đời và sự nghiệp Hồ Chí Minh.
Tất nhiên, trong những tác phẩm đó, khi viết về tiểu sử hay cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhiều sự kiện sai lệch, không đúng sự thật (nhất là về đời tư). Nguyên nhân: có lẽ ngoài việc thiếu tư liệu, hoặc sử dụng tài liệu sai sự thật như nói ở trên, còn một lý do khác là hầu hết các tác giả không có điều kiện nghiên cứu, tiếp cận trực tiếp, tiếp cận thực tế để xây dựng tiểu sử một danh nhân. Một số học giả còn mang nặng tính chủ quan tư sản, không tin vào những điều mà đôi khi họ cho là sùng bái cá nhân, “thần thánh hóa” về con người và sự nghiệp vĩ đại, sự hy sinh, cống hiến trọn đời cho Tổ quốc, cho nhân loại như Hồ Chí Minh.
Trong số không ít học giả nước ngoài nghiên cứu về Hồ Chí Minh, có nhiều người vừa là “người quen”, vừa là đối thủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các cuộc chiến tranh trước đây. Như: Tổng đại diện của Chính phủ Pháp J. Xanhtơni; Tướng Pôn Êly; Tướng Raun Salăng; Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Pháp GS.Pôn Muýt; Trung tá tình báo Mỹ A. Pátti, v.v..). Hầu hết những người này đều có một thái độ kính trọng khi viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, đúng như nhà báo Ôlivơ Thôndơ đã nói: “Đối với một số người, Cụ Hồ Chí Minh là một kẻ thù quen biết lâu năm nhưng đáng kính phục, là địch thủ được kính trọng nhất trong cuộc chiến tranh thuộc địa Pháp” (Tuần báo Người quan sát mới, số ra ngày 8-9-1969, Hồ sơ NC/15, lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng).
Ông J.Xanhtơni, Tổng đại diện chính phủ Pháp ở Đông Dương, người đã có nhiều cuộc gặp gỡ tiếp xúc, đàm phán trực tiếp với Hồ Chí Minh (thay mặt Chính phủ Pháp ký Hiệp định sơ bộ 6-3-1946). Ông cũng là người tháp tùng Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt thời gian 4 tháng Người làm thượng khách trên đất Pháp (từ tháng 6 đến tháng 10 năm 1946), sau này J.Xanhtơni còn đóng vai trò người thăm dò thương lượng trung gian của Mỹ (1966-1967), trong tác phẩm: Face à Ho Chi Minh (Đối diện Hồ Chí Minh) đã khẳng định: “Chắc chắn, ông Hồ Chí Minh là con người rất mực tế nhị, đến mức không cảm thấy tính giản dị của mình, lòng tha thiết với những phong tục, tập quán của địa phương đã làm ông trở lên rất quần chúng. Ngay kẻ thù của ông cũng không bao giờ hồ nghi cái điều giản dị ấy”. (Jean Sainteny: Face à Ho Chi Minh (Đối diện Hồ Chí Minh), Paris, Seuil, 1970, tr.152).
Đọc các tác phẩm của các học giả nước ngoài, một điều dễ nghi nhận là đã có nhiều công trình nghiên cứu thể hiện tính nghiêm túc, công phu, có nhiều tư liệu mới về quá trình hoạt động của Hồ Chí Minh thời kỳ ở nước ngoài. Các tác giả đã khai thác từ kho tư liệu Quốc gia Pháp, Cục Lưu trữ Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và rất nhiều tư liệu từ sách, báo và các văn kiện từ các kho lưu trữ Quốc gia Việt Nam…Căn cứ vào các tư liệu, các tác giả tái hiện lại phần nào sự thật lịch sử cận hiện đại Việt Nam, lịch sử Đông Dương, châu Á…Qua đó đánh giá, nhận định về vị trí, vai trò của lãnh tụ Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, cũng như những đóng góp của Người cho sự phát triển của cách mạng thế giới, nhất là đối với phong trào giải phóng dân tộc.
Lần theo những sự kiện lịch sử, nhiều học giả khi nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận: Hồ Chí Minh một người yêu nước, một người đi tiên phong trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Hồ Chí Minh là người Việt Nam tiêu biểu cho ý chí quyết thắng trong cuộc đấu tranh đòi tự do và độc lập dân tộc. Sự thể hiện khát vọng tự do đấu tranh đòi độc lập của Hồ Chí Minh, của dân tộc Việt Nam, đã khích lệ các dân tộc thuộc địa đứng lên đấu tranh giành độc lập.
Có thể thấy các nội dung đó qua nhiều công trình nghiên cứu. Ví dụ trong tác phẩm Hồ, tác giả David Halberstam viết: “Lúc sinh thời, ông Hồ Chí Minh không những đã giải phóng đất nước của ông mà thay đổi chiều hướng của chế độ thuộc địa ở cả châu Phi lẫn châu Á, mà ông còn làm điều đáng chú ý hơn: ông đã dùng tới nền văn hóa và tâm hồn của kẻ địch của ông. Đối với Hồ Chí Minh…đó là một cuộc đời đầy đủ” (David Halberstam: Hồ, NXB. Răngđôm Haoơ, Niu York 1971, tr.76).
Trung tá A. Pátti - một sĩ quan tình báo Mỹ, trong thời gian làm việc cho lực lượng Đồng Minh ở Đông Dương (1944-1945), từng nhận được sự giúp đỡ rất hiệu quả của Việt Minh, ông rất cảm phục nhà ái quốc cộng sản Hồ Chí Minh. Trong cuốn: Why Vietnam? (tại sao Việt Nam) đã viết: “Ông Hồ không hiện lên đối với tôi như là một nhà cách mạng không thực tế hay một người cấp tiến cuồng nhiệt, theo đuổi những lời nói dập khuôn, hét to đường lối của Đảng, hay thiên về phá hoại mà không có những kế hoạch xây dựng lại. Đây là một con người thông minh, thấu hiểu những vấn đề của đất nước mình, một con người biết điều và tinh tế”. (Patti A.L: Why Vietnam?(Tại sao Việt Nam?), NXB Đà Nẵng, 1995, tr.92.
Nghiên cứu từng chặng đường hoạt động của Hồ Chí Minh, hầu hết các tác giả đều đánh giá cao, cảm phục ý chí ngoan cường, mãnh liệt của một con người đấu tranh không mệt mỏi cho độc lập, tự do. Tác giả J. Lacouture viết: “Một nhân vật mỏng manh đến mức hình như chỉ sống nhờ vào sức mạnh của trí tưởng tượng, trong ngọn lửa đấu tranh của dân tộc cũng mảnh dẻ, cũng thanh đạm và kiên cường như ông…”.
Tất nhiên, không phải tác giả nào viết về nhân vật lịch sử - danh nhân Hồ Chí Minh cũng có thái độ thiện cảm, khách quan. Ông Wiliam J. Duiker - người đã viết cuốn sách có nhan đề: Hồ Chí Minh, nhưng sự thể hiện còn có khá nhiều sai sót, cả về tính xác thực của tư liệu được sử dụng lẫn nhận định, đánh giá của tác giả.
Sau khi đã có những “nghiên cứu” tưởng như rất “công phu, chi tiết” về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh, tác giả lại có những lời nhận định không đúng sự thật, ông ta viết: “Ngày nay, ba thập kỷ sau khi ông qua đời, tệ sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh vẫn tồn tại ở Hà Nội”. Đối với tác giả Daniel Hémery, nhận định sai lầm ở chỗ ông ta cho rằng động cơ ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành chỉ là huyền thoại: “Hình ảnh chàng trai yêu nước của Nghệ An bỏ quê ra đi tìm đường giải phóng Tổ quốc chỉ thuộc về điều tưởng tượng huyền thoại sau năm 1945 hoặc sau 1920…” (Daniel Hémery: Tuổi trẻ của một công dân thuộc địa. Hình thành một sự lưu vong - Hồ Chí Minh cho đến năm 1911, Tạp chí: Approcher số 11-1992). Phải chăng Daniel Hémery dùng lối suy đoán toán học để khẳng định một nhân chứng lịch sử? Nếu đúng như vậy thì nhận định của ông trong trường hợp này đã phạm phải sai lầm về phương pháp tiếp cận, do đó dẫn đến kết quả sai.
2.2. Các học giả nước ngoài nghiên cứu về những cống hiến to lớn của Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới, đồng thời khẳng định giá trị tư tưởng của Người trong thời đại ngày nay
Trong cuốn Hồ Chí Minh - một chân dung (Minh họa và trình bày: C. David Thomas, nghiên cứu và biên soạn: Lady Boton, NXb Thanh niên, Hà Nội, 2003), Cherles Fenn đã viết trong Lời giới thiệu: “…Nếu chúng ta so sánh Hồ Chí Minh với các lãnh tụ nổi tiếng khác của thế kỷ XX, chúng ta không thể không có ấn tượng khi biết rằng trong một thời gian, Hồ Chí Minh đã đi đến nhiều nơi trên thế giới và đã bắt đầu in dấu ấn của mình lên các biến cố quốc tế trước cả Mao Trạch Đông, Găngđi, Nêru, Rudơven, Sơcsin hay Đơ Gôn được biết đến trên thế giới. Cuộc sống cá nhân mẫu mực, tính kiên định vì nền độc lậpvà tự do của Việt Nam, những thành quả phi thường của ông bất chấp sự khó khăn chồng chất, đã có thể đưa Hồ Chí Minh, trong sự phán xét cuối cùng của nhân loại, lên hàng đầu danh sách những lãnh tụ của thế kỷ XX”. Dấu ấn của Hồ Chí Minh đã góp phần tạo nên một khuôn mặt mới của thế giới, đối thoại hòa bình thay cho chiến tranh, phản ánh khát vọng của các dân tộc trong đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Nhiều tác giả nước ngoài nghiên cứu về lịch sử chiến tranh Đông Dương và Việt Nam, đã cố gắng tìm lời lý giải cho sự thất bại của cả hai cường quốc thực dân hùng mạnh trước một dân tộc nhỏ bé và lạc hậu Việt Nam. Các sử gia (chủ yếu là phương Tây), dường như đã tìm thấy câu trả lời: Hồ Chí Minh chính là người khơi dậy sức mạnh dân tộc Việt Nam, khôn khéo kết hợp với sức mạnh của chính nghĩa và thời đại, tạo nên niềm tin và chiến thắng. Nội dung đó thể hiện ở tất cả các tác phẩm.
Ngoài ra các tác giả còn đi sâu phân tích một số sự kiện lịch sử quan trọng mang tính bước ngoặt của đàm phán hòa bình, hoặc đỉnh điểm của sự đổ vỡ dẫn đến chiến tranh (cuộc đàm phán ở Hội nghị Phôngtennơblô, sự kiện Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ…), qua đó để tìm nguyên nhân thất bại của cuộc chiến, đồng thời thừa nhận phần nào tư tưởng hòa bình, chính nghĩa của Việt Nam - Hồ Chí Minh. Trong tất cả những công trình, bài viết mà nội dung trọng tâm nghiên cứu về các khía cạnh của lịch sử, nhưng hầu như tất cả đều dành một phần, một chương, hoặc chí ít là một mục viết về Hồ Chí Minh như là một đối tác ảnh hưởng. Mặc dù trong một số tác phẩm, phần nhận định của không ít tác giả có thiên kiến, chủ quan, thậm chí quy kết Chủ tịch Hồ Chí Minh là người theo “chủ nghĩa dân tộc”, “con người cứng nhắc”…nhưng đã phần các tác giả đều kính phục một con người mà chính họ gọi là huyền thoại. Các tác phẩm chứa đựng những nội dung đã nói ở trên có thể kể đến là: Henri Azeau: Ho Chi Minh derniere chane (Hồ Chí Minh - Vận may cuối cùng), Paris, Senli, 1968; Harry S. Ashmore and W.C.Baggs: Mission to Hanoi (Chuyến công cán ở Hà Nội), N.Y. International Putnamson. 1968; C. King Chen: Vietnam and China 1938-1954 (Việt Nam và Trung quốc 1938-1954), Princeton, University Press, 1969; Danielgérin: Cigit le colonialisme (Nơi an nghỉ của chủ nghĩa thực dân). Moutonet Co, 1973; Jean Sainteny: Lịch sử một nền hòa bình bị bở lỡ. Paris, Seuil 1970; v.v..
Trong cuốn sách: Ho Chi Minh derniere chance (Hồ Chí Minh dịp may cuối cùng), tác giả Hăngzi Azô tỏ ý rất tiếc cho một cơ hội hòa bình mà cả hai bên Pháp -Việt đã bỏ lỡ. Bỏ lỡ một “dịp may” để dẫn đến hòa bình, ắt dẫn đến một cuộc chiến tranh tương tàn. Mặc dù còn có nhiều biện minh cho trách nhiệm thuộc về phía Pháp, nhưng tác giá đánh giá cao vai trò và thiện chí của Hồ Chí Minh trong các cuộc thương thuyết, Hăngzi Azô gọi đó là “sự khôn ngoan của Bác Hồ ”.
Tướng P.Valuy trong hồi ký cũng ghi lại những ký ức trân trọng về đối thủ: “Đó là một nhân vật trung tâm điều hành công việc…hoàn toàn xả thân vì công việc, không một chút riêng tư. Trong ánh mắt những người xung quang và người đối thoại, Hồ Chí Minh là người vô cùng đức độ ”. (P. Valuy: Về Hồ Chí Minh, in trong tạp chí hành động, số 3/1970, tr.136).
Ngoài ra, có một số cuốn hồi ký của những người tham chiến, cũng viết về Hồ Chí Minh ở từng góc độ, những đa phần ho đưa ra những lý lẽ bào chữa cho những thất bại của họ, một số sự kiện không đúng với thực tế lịch sử.
2.3. Các công trình nghiên cứu khẳng định Hồ Chí Minh - Nhà văn hóa kiệt xuất, chiến sĩ cộng sản quốc tế, sứ giả của hòa bình hữu nghị
Thế giới đã nói tới Hồ Chí Minh - chiến sĩ quốc tế - sứ giả của hòa bình hữu nghị. Nhà ngoại giao Giăng Xanhtơny (Jean Sainteny) là một trong những người đối thoại chính với Hồ Chí Minh trong những cuộc đàm phán với Pháp đã có một ý niệm khá chính xác về những nét trong tính cách Hồ Chí Minh và nhân phẩm của Người. Trong tác phẩm mang tựa đề: “Một nền hòa bình bị bỏ lỡ ”, nhà ngoại giao giàu kinh nghiệm đó đã viết một cách khách quan : “Sự hiểu biết văn hóa rộng lớn, trí thông minh, những hoạt động phi thường và lòng vô tư tuyệt đối đã làm cho uy tín của Người và lòng tin của nhân dân đối với Người không gì so sánh nổi. Những lời nói, những hành động, thái độ của Người, đều thuyết phục là Người không muốn dùng giải pháp bạo lực ” (Chủ tịch Hồ Chí Minh -Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, NXB Khoa học xã hội, H. 1995, tr.94).
Còn giáo sư sử học Hunggari laigơlôxangô (László Salgó) cũng chủ yếu thông qua các sự kiện từ giai đoạn Cách mạng Tháng Tám thành công đến khi nổ ra cuộc chiến tranh Việt - Pháp lại có nhận xét : “Không một chút nghi ngờ, hơn ai hết, Hồ Chí Minh là người đã sử dụng đến mức tối đa sự mềm dẻo xung quang, tấm thảm xanh để thăm dò những khả năng cho một giải pháp hòa bình có thể thực hiện được bằng thỏa hiệp”.
Thực ra, cách nhìn bao quát về Hồ Chí Minh - Danh nhân văn hóa kiệt xuất đã được thế giới nói đến từ những năm hai mươi. Và hôm nay, khi nhân loại đang sống trong thập kỷ đầu thế kỷ XXI, nghĩa là gần một trăm năm trôi qua kể từ những đánh giá ghi nhận đầu tiên về danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh, thì những nhận xét của nhân loại vẫn còn nguyên giá trị. Trong bào báo Thăm một chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc đăng trên tờ Ogoniok (Ngọn lửa nhỏ) số 39, ngày 23-12-1923, nhà báo Liên Xô Ôxíp Manđensơtam viết: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”. Ông còn nhận xét : “Dân An Nam là một dân tộc lịch thiệp. Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của NguyễnÁi Quốc, chúng ta như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái thế giới ”  (Hồ Chí Minh: Toàn tập, t1, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 463).
Như vậy, khi đề cập tới nhà văn hóa lớn Hồ Chí Minh, M. Átmét đã chỉ ra sự thống nhất giữa “anh hùng giải phóng dân tộc” và “danh nhân văn hóa”.
Trong Hội thảo Quốc tế tổ chức tại Việt Nam nhân kỷ niệm 100 năm nhân ngày sainh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiến sĩ M.Amét (Modagát Ahmed), Giám đốc UNESCO kho vực châu Á - Thái Bình Dương, đại diện đặc biệt của Tổng giám đốc UNESCO, khi trình bày đến một phương diện khác về con người Hồ Chủ tịch, đó là một nhà văn hóa lớn, ông cho rằng trước hết “Hồ Chí Minh đã thành công trong việc liên kết nhiều sắc thái văn hóa (ở Việt Nam) vào một nền văn hóa việt Nam duy nhất”. Trên cơ sở đó Người có những đóng góp vào nền văn hóa Việt Nam đương đại. Và điều quan trọng nhất, Chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận huyền thoại ngay khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó. Người sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ, mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại đã mang lại viễn cảnh và hi vọng mới cho những người đang đấu tranh và không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng trên trái đất này ”.
Như vậy, khi đề cập đến nhà văn hóa lớn Hồ Chí Minh, M.Átmét đã chỉ ra sự thống nhất giữa “anh hùng giải phóng dân tộc”  và danh nhân văn hóa. Việc Hồ Chí Minh đấu tranh để loại  bỏ áp bức, bóc lột, bất công, bình đẳng, mở ra một chân trời mới sáng lạng cho các dân tộc và mọi người bị áp bức là một giá trị văn hóa đích thực.
Nói về những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xây đắp tình hữu nghị giữa các dân tộc, với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nội dung này được phản ánh không chỉ qua các tác phẩm của các nhà nghiên cứu thuộc các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, mà rất nhiều học giả, bạn bè trên thé giới, những người yêu chuộng hòa bình, công lý đều đánh giá cao về Hồ Chí Minh với những đóng góp của Người xây đắp lên tình hữu nghị giữa các dân tộc, tăng cường đoàn kết trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Một số tác phẩm tiêu biểu như : E. Cabêlép: Đồng chí Hồ Chí Minh, NXB Thanh niên, H. 1985 ; Hoàng Tranh: Hồ Chí Minh với Trung Quốc, NXB Sao Mới, Bắc Kinh, 1990; Singô Sibata: Hồ Chí Minh một nhà tư tưởng, Heiwa Torodokaikan, Tokyo, 1969,…
Nguyên Bí thư thứ nhất ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô - N.Khơrútsốp đã dành hẳn một chương trong cuốn Hồi ký của mình để viết về Hồ Chí Minh: “Trong cuộc đời hoạt động chính trị của mình, tôi đã biết rất nhiều người nhưng không có người nào gây được cho tôi ấn tượng đặc biệt như Hồ Chí Minh. Người có đầu óc tín ngưỡng thường hay nói đến các vị thánh. Đúng vậy, với cách sống và uy tín của ông đối với đồng bào trong nước, Hồ Chí Minh đúng là có thể so sánh với “các vị thánh đỏ, một vị thánh cách mạng”.... Mỗi lời nói của ông hình như dựa vào niềm tin là về nguyên tắc tất cả mọi người cộng sản đều là anh em cùng giai cấp, học chỉ có thể tỏ ra trung thực và chân thành với nhau mà thôi. Hồ Chí Minh quả thật là một trong “các vị Thánh ” của chủ nghĩa cộng sản ” ( N. Khơrútsốp: Hồi ký, Nxb Robert Lafont Pari, 1971, Bản dịch tiếng Việt tr.52-54).
Đọc những lời N. Khơrút sốp nói về Hồ Chí Minh, thấy rõ ông đánh giá rất cao về Hồ Chí Minh. Một người như N. Khơrútsốp - nhân vật được giới sử gia phương Tây nhận xét là: “con người hùng biện và cao ngạo ”, lại có những nhận xét cảm động về Hồ Chí Minh như vậy, chắc hẳn đó không phải là chuyện bình thường.
Một tác giả Xô viết khác: E.Cabêlép, trong cuốn “Đồng chí Hồ Chí Minh” đã viết: “Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như các chiến sĩ xuất sắc khác đấu tranh cho sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản, đã chứng minh chân lý bất di, bất dịch sau đây: người nào yêu Tổ quốc mình tha thiết thì cũng không khi nào phản bội lại các lý tưởng của tình đoàn kết quốc tế và ngược lại, chỉ có những người theo chủ nghĩa quốc tế một cách kiên định thì mới là người yêu nước chân chính, mới đem lại lợi ích to lớn cho Tổ quốc mình, nhân dân mình.
Tóm lại, khi nghiên cứu về Hồ Chí Minh, những công trình nghiên cứu, viết tiểu sử, sự nghiệp, vai trò lãnh đạo, sự hy sinh cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với dân tộc, nhân loại do các học giả nước ngoài biên soạn, cơ bản có khía cạnh tích cực.
Mặc dầu còn nhiều vấn đề không thống nhất, một số sự kiện lịch sử sai lệch, một số nhận định đánh giá của các tác giả khác nhau về quan điểm, thậm chí một số tác phẩm còn viết không đúng về đời tư của lãnh tụ, song tất cả đều phải thừa nhận tinh thần dân tộc, sự hy sinh lớn lao của Hồ Chí Minh với Tổ quốc và có những phong trào giải phóng dân tộc, phong trào hòa bình trên thế giới. Chính những thừa nhận khách quan đó khẳng định tính đúng đắn, tính thời sự, ý nghĩa và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay.
* Nguồn thông tin:
1. C. King Chen: Vietnam and China 1938-1954 (Việt Nam và Trung quốc 1938-1954), Princeton, University Press, 1969.
2. C.P. Ragiô: Hồ Chí Minh, NXB Đại học, Pari, 1970.
3. David Halberstam: Hồ, Răngđôm Haosơ, New Yook, 1971.
4. Deniel Hemery: Du patriotisme au Mexisme (Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác), P.Les éd, uovriercs, 1975.
          4. E. Cabêlép: Đồng chí Hồ Chí Minh, NXB Thanh niên, H. 1985. 
5. Hoàng Tranh: Hồ Chí Minh với Trung Quốc, NXB Sao Mới, Bắc Kinh, 1990.
6. Henri Azeau: Ho Chi Minh derniere chane (Hồ Chí Minh - Vận may cuối cùng), Paris, Senli, 1968.
7. Harry S. Ashmore and W.C.Baggs: Mission to Hanoi (Chuyến công cán ở Hà Nội), N.Y. International Putnamson, 1968.
8. Paul Mus: Ho Chi Minh, Le Vietnam, L’Asie (Hồ Chí Minh, Việt Nam và châu Á), Paris, Seuil, 1971.
9. Patti A.L: Why Vietnam (Tại sao Việt Nam?), The University of Caliphócnia, Pres, 2002.
10. Jean Sainteny: Lịch sử một nền hòa bình bị bở lỡ, Paris, Seuil, 1970.
11. Jean Lacouture: Ho Chi Minh (Hồ Chí Minh), Paris, Seuil, 1970.
Linh Quang 

“MẢNH DƯ ĐỒ RÁCH NÁT” HAY “CÁI NHÌN RÁCH NÁT” CỦA “TƯ DUY RÁCH NÁT”



Vừa qua, khi xem trên Internet, tôi được đọc bài của Bùi Tín với tựa đề: “71 năm Đảng Cộng sản cướp quyền: mảnh dư đồ rách nát”, tôi thấy rằng cần phải trao đổi với ông về một số vấn đề sau:
Trước hết, về cái mà ông gọi là “71 năm Đảng Cộng sản cướp quyền”, ngay từ cách đặt vấn đề ông đã cố ý tạo ra một sự xuyên tạc trong nhận thức. Xin hỏi thế nào là “cướp quyền” và “cướp” của ai? Nếu ai thông hiểu lịch sử Việt Nam một cách sơ đẳng nhất cũng hiểu rằng ở đất nước Việt Nam, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn dân tộc tiến hành khởi nghĩa Tháng Tám thành công và lập ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á vào năm 1945, thì đất nước Việt Nam đó nằm dưới sự cai trị của Phát xít Nhật, mà xa hơn là thực dân Pháp. Trong chế độ đó, quyền lực hoàn toàn nằm trong tay bọn thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam bị áp bức bóc lột một cách dã man, mà nạn đói năm 1945 cướp đi sinh mạng của hai triệu đồng bào từ Quảng Trị trở ra là một minh chứng điển hình. Vậy theo ông Tín có nên “cướp” không nhỉ, hay là không “cướp” mà cam chịu làm trâu ngựa.
Việt Nam vốn là một đất nước độc lập, có chủ quyền, đã bị thực dân, phát xít xâm lược. Trong bối cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân nô lệ, biết bao cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau nhưng đều thất bại. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt sự khủng hoảng đường lối, phương pháp cách mạng, đáp ứng được nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân và toàn dân tộc, bởi vậy đã nhanh chóng trở thành người lãnh đạo, được sự tín nhiệm của toàn dân. Nếu không tạo được uy tín, không tạo được niềm tin, thử hỏi làm sao huy động được sức mạnh của toàn dân tộc giành chính quyền trong vòng hai tuần lễ hầu như không đổ máu; làm sao mà lãnh đạo được dân tộc suốt mấy mươi năm qua. Cái gọi là “cướp quyền” mà ông Tín nói cũng giống như quan điểm của bọn thực dân, phát xít và tôi tớ khi gọi những người đe dọa đến địa vị, bộ máy áp bức của chúng ở các thuộc địa là “cướp”. Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với dân tộc Việt Nam, chẳng đi “cướp” của ai cả, mà chỉ giành lại độc lập dân tộc - quyền thiêng liêng của dân tộc đã bị thực dân đế quốc tước đoạt.
Theo ông Tín:  phương châm "Không có gì quý hơn độc lập tự do" được coi là chân lý tuyệt vời. Nhưng rõ ràng đó chỉ là khẩu hiệu chết trên giấy, trên tường, trên môi, không thấy được trong cuộc sống”. Thưa ông, sau khi giành được độc lập, nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã tiến hành một cuộc chiến tranh giải phóng suốt 30 năm, mà trong thời gian này ông Tín cũng là một người trong đội quân chiến đấu đó. Vậy xin hỏi ông, đó không phải là cuộc đấu tranh cho độc lập, tự do để lật đổ chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước Việt Nam vậy thì là cái gì? Hay là không chiến đấu để cho Việt Nam tiếp tục là thuộc địa của Pháp hay của Mỹ mới là độc lập, tự do. Và cũng chính dân tộc đó do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã kiên quyết đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và xây dựng cuộc sống mới ngày càng ấm no, tự do, hạnh phúc mà những thành quả của nó hiện hữu trên thực tế, được cả thế giới ghi nhận. Điều làm cả thế giới thấy và ghi nhận thế mà không biết vì lý do gì ông Tín lại “không thấy được trong cuộc sống”? Hay là ông cố tình không thấy?
Vẫn là những lời lẽ cũ rích về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xin thưa ông Tín, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với cách mạng Việt Nam là một tất yếu lịch sử, khi mà các đảng phái khác đều thất bại và bất lực. Trong cuộc đấu tranh cho độc lập, tự do, Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy nhất không bị đế quốc tiêu diệt giữa hai cuộc chiến tranh thế giới. Đó là đảng duy nhất có mặt mọi lúc, mọi nơi với đồng bào cả nước, trong lúc khó khăn cũng như khi thuận lợi, trong lúc thành công, cũng như khi thất bại, bao giờ cũng đứng ở đầu sóng, ngọn gió. Điều này thực tiễn cách mạng Việt Nam, sự lựa chọn của nhân dân Việt Nam đã chứng minh, mà thực tiễn là tiêu chuẩn tối cao của chân lý rồi.
Thứ hai, về cái mà ông gọi là “mảnh dư đồ rách nát”. Vậy xin hỏi ông Tín cái mà ông gọi là “mảnh dư đồ rách nát” đó, sao thực tế lại đang đạt những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực: kinh tế liên tục tăng trưởng ấn tượng trong suốt 30 năm đổi mới, và luôn ở mức cao của khu vực và thế giới. Đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Trên các lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội đều có những tiến bộ vượt bậc, mà mỗi người dân Việt Nam đều có thể cảm nhận và hưởng thụ, đồng thời thế giới cũng ghi nhận, xem Việt Nam là một tấm gương để cho nhiều nước học tập. Việt Nam cũng là một nước tiêu biểu trong hoàn thành xuất sắc các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Trong đối ngoại, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với rất nhiều nước trên thế giới, và đặc biệt đã thiết lập quan hệ đối tác, đối tác chiến lược và chiến lược toàn diện với tất cả các nước thường trực Hội đồng bảo an của Liên Hợp quốc; các nước lớn đều muốn lôi kéo Việt Nam vào vòng ảnh hưởng của họ; các nhà tư bản vẫn đổ vốn đầu tư vào Việt Nam; nhân dân Việt Nam vẫn ủng hộ Đảng; uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục tăng.
Đương nhiên, trong quá trình phát triển thì bất cứ quốc gia nào cũng có những mặt trái, cũng gặp những khó khăn. Điều quan trọng là thái độ và hành động của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong việc khắc phục những vấn đề đó. Những ví dụ mà ông Tín đưa ra để minh chứng cho cái ông gọi là “mảnh dư đồ rách nát” thực chất là những khó khăn, thiếu sót trong quá trình quản lý sự phát triển kinh tế - xã hội mà Việt Nam gặp phải, cũng giống như các quốc gia khác trong quá trình phát triển của mình. Ngay cả nước tiên tiến như Hoa kỳ, hay châu Âu đâu phải chưa từng gặp những rắc rối đó. Nhưng ở đây nó đã đã bị ông Tín đưa ra một cách võ đoán, chụp mũ, thổi phồng, sai sự thật, thiếu cơ sở khoa học.
Chắc ông cũng biết, sau hơn 30 năm đàm phán Việt Nam và Trung Quốc đã hoàn thành được việc phân định đường biên giới trên bộ dài hơn 1400km trên cơ sở căn cứ khoa học mà hai bên chấp nhận được và năm 2008 đã hoàn thành việc phân giới cắm mốc. Không biết ông dựa vào đâu để nói rằng: “một đường biên giới mà ta đã mất chủ quyền, một biên giới bị bỏ ngỏ toang hoang cho mọi kiểu tai ương và tội ác hàng ngày từ phương Bắc tràn xuống thâm nhập khắp nước ta”. Về dự án bô xít ở Tây Nguyên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã giám sát và đánh giá: việc triển khai thí điểm 2 dự án là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh của các địa phương có tài nguyên khoáng sản, thúc đẩy phát triển toàn diện kinh tế - xã hội ở khu vực địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Hiệu quả tổng hợp bước đầu của 2 dự án đã tác động lan tỏa và tích cực đến phát triển kết cấu hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động tại các địa phương. Dự án đã tạo được sự đồng thuận và nhận được sự ủng hộ, hỗ trợ tích cực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân 2 tỉnh Lâm Đồng và Đắk Nông. Và thực tế không thấy cái ông gọi là: “bùn đỏ ngang nhiên tàn phá môi trường sống của các dân tộc Tây Nguyên vốn chất phác hiền lành đang đứng trước nguy cơ bị diệt chủng”. Về vấn đề khô hạn ở Đồng bằng sông Cửu Long thì có rất nhiều lý do, trong đó có tình trạng biến đổi khí hậu, mà Việt Nam là một trong những nước chịu tác động nặng nề nhất. Bên cạnh đó, cũng cần thấy rằng, Mê Kông là một dòng sông quốc tế, bởi vậy việc sử dụng nước trên đó cũng cần phải có sự phối hợp quốc tế, đâu phải phụ thuộc vào mình Việt Nam. Việc Trung Quốc xây đập ở đất nước họ, xin hỏi ông có cách nào để ngăn chặn được không, nếu không phải là xây dựng một cơ chế phối hợp về sử dụng chung nguồn nước mà Việt Nam đang tích cực làm?
 Đành rằng những hạn chế trong quá trình phát triển của Việt Nam là không ít, nhưng đó không phải là tất cả, không phải là cái cơ bản chủ yếu, và quan trọng là nó đang được cả hệ thống chính trị và toàn dân đang khắc phục. Khi ông nói “một chế độ mất gốc "hèn với giặc, ác với dân"”, chắc ông đã quên đi một điều rằng, chế độ đó đã cùng với dân tộc mình đánh đuổi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, bảo vệ toàn vẹn biên giới lãnh thổ trước các thế lực xâm lược, đang kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền biển, đảo bằng mọi biện pháp theo cấp độ của vấn đề… vậy phải chăng đó là “hèn với giặc”. Bất cứ một quốc gia nào cũng đều phải quản lý đất nước bằng pháp luật, một nhà nước pháp quyền lại càng thế, ai vi phạm pháp luật đều bị xử phạt, chẳng trừ ai, vậy xử lý những hành vi vi phạm pháp luật, để giữ gìn trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội chẳng lẽ lại là “ác với dân”.
Có thể nói, với việc đưa cái không cơ bản lên thành cái cơ bản, lấy cái bộ phận thay cho toàn bộ, ở đây, ông mang đến cho độc giả cái nhìn thiên lệch một chiều, với ý đồ định đổi trắng thay đen và thái độ hằn học, sản sinh ra từ tư duy đậm chất ngụy biện.
Đọc bài của ông Bùi Tín, tôi chỉ thấy nó như là sản phẩm minh chứng của một “cái nhìn rách nát” với một “tư duy rách nát”, chắp ghép, ngụy biện, lập lờ, quy chụp, thiếu khách quan. Nhưng xin thưa, ông không thể đánh lừa được những người có suy nghĩ một cách khoa học, chín chắn, cũng không thể phủ nhận được một thực tế Việt Nam đang ngày càng phát triển và có vai trò quan trọng trong khu vực và trên trường quốc tế. Mà tất cả những thành tựu đó gắn liền với những nỗ lực không mệt mỏi của nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. 
Việt Giang

BÙI TÍN - KẺ BỘI TÍN, PHẢN NƯỚC HẠI DÂN



Bùi Tín không còn là cái tên xa lạ với cộng đồng mạng và nhân dân Việt Nam vì sự nổi tiếng của Ông ta. Tuy nhiên sự nổi tiếng  đó không phải vì Bùi Tín đức cao, vọng trọng mà lại đến từ tâm địa thâm độc, thấp hèn của một kẻ lưu vong ngoại quốc. Đọc bài 71 năm Đảng cộng sản cướp chính quyền: mảnh dư đồ rách nát” của Bùi Tín trên BlogVOA ngày 23/8/2016 ta thấy nội dung bài viết của Bùi Tín không có gì mới, vẫn lại là chiêu bài nói xấu, bôi nhọ Đảng…phủ nhận những thành quả cách mạng với chiêu bài dân chủ…nhân quyền. Ngay đầu đề bài viết đã thể hiện sự “lố bịch” và sự thiếu hiểu biết về lịch sử. Và đáng buồn thay, một kẻ hèn nhát, cơ hội ...vì mục đích thấp hèn mà đi phủ nhận chính bản thân mình. Xin được có một vài lời để mọi người cùng ngẫm và hiểu rõ hơn sự “lộng ngôn” của kẻ bội tín, hại nước, hại dân.
1. Bàn về cái mà ông  gọi là “71 năm  Đảng Cộng sản cướp quyền”
Tôi cảm thấy buồn cười cho bộ mặt “ngây ngô, đạo đức giả” của ông, csao ông lại cố tình ngu dốt đến mức không hiểu nổi lịch sử dân tộc trong đó có Ông, phải chăng  vì tuổi cao nên đã lú lẫn.
Lịch sử dân tộc Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã chứng minh, dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến nhân dân ta lầm than vì mất nước. Đã có nhiều nông dân, sĩ phu yêu nước đứng lên tập hợp nhân dân khởi nghĩa để giành lại độc lập cho dân tộc nhưng đều bị thất bại, các cuộc đấu tranh bị dìm trong các bể máu của kẻ thù cướp nước vì chưa có đường lối cách mạng đúng đắn. Và chỉ đến khi Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tìm đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, một học thuyết cách mạng, khoa học, mang đầy tính nhân văn cao cả được Người truyền bá vào Việt Nam, thổi bùng lên ngọn lửa cách mạng đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Từ đó nhân dân ta một lòng theo Đảng và Bác Hồ, đoàn kết toàn dân tộc thành một khối thống nhất, vùng lên đấu tranh giành chính quyền, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa nhân dân lao động thoát khỏi kiếp ngựa trâu, trở thành người làm chủ thật sự của đất nước. Tiếp đó, Đảng lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến trường kỳ, đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc, đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ và mới, đưa dân tộc Việt Nam trở thành dân tộc tiên phong trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở thế kỷ XX. Điều này được nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới thừa nhận, trong đó có cả nhân dân Pháp và Mỹ.
          Chẳng lẽ, một Đảng không sợ hy sinh, gian khổ luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng ĐLDT và CNXH, luôn vì tự do hạnh phúc của nhân dân, luôn đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết lại có thể được coi là một “đảng cướp quyền”.
Đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền lãnh đạo là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử dân tộc, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân với khát vọng chân lý “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Tài năng và trí tuệ của Đảng càng làm cho nhân dân Việt Nam yêu mến, đặt trọn niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và mong muốn Đảng luôn vững mạnh để chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam ngày càng tiến lên. Đảng thực sự là đạo đức, là văn minh
2. Cái mà Ông gọi là “Mảnh dư đồ rách nát”
Ông sống lưu vong đã khá lâu và đã ở cái tuổi “gần đất xa trời” sao ông không về thăm quê hương để chứng kiến những thành tựu to lớn về mọi mặt của đời sống xã hội của đất nước trong đó có nơi “chôn nhau, cắt rốn” của ông để có cái nhìn sáng hơn về Đảng. Để thấy rằng, cuộc sống ở quê hương giá trị hơn rất nhiều so với thân phận lưu vong trong vai diễn “thầy bói xem voi” hèn hạ của ông.
Qua 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trường cao hơn hẳn thời kỳ trước đó, có những năm GDP đạt mức trên 8%/năm. Đặc biệt trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhiều quốc gia tăng trưởng con số âm thì GDP giai đoạn 2011 - 2015 của Việt Nam vẫn đạt 5,9%/năm, trong đó năm 2015, GDP đạt 6,68%, được coi là mức cao của khu vực và thế giới. Đời sống của nhân dân ngày càng được nâng lên, thu nhập bình quân đầu người gần đạt 2.300 USD và được hưởng nhiều dịch vụ xã hội. Nhiều thành tựu trên các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa được thế giới công nhận, đánh giá cao. Vị thế, vai trò và uy tín của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế.
Không riêng Việt Nam mà với các quốc gia khác (nhất là với các nước chậm phát triển) thì những tồn tại, yếu kém xảy ra trong quá trình hội nhập và phát triển là điều khó tránh khỏi. Là một đất nước có điểm xuất phát thấp lại bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh thì những thành tựu đạt được hôm nay là một sự nỗ lực to lớn của cả dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những vấn đề Ông nêu ra trong bài viết là những sự việc cụ thể ở một không gian và thời gian nhất định, không thể lấy những sự kiện đó để phủ nhận giá trị của “độc lập, tự do” được Đảng và nhân dân xây dựng suốt 71 năm qua. Mặt khác, những hạn chế tồn tại trên đã và đang được Đảng, Nhà nước chỉ đạo xử lý triệt để, trong sự đồng tình của nhân dân cả nước và ghi nhận của cộng đồng quốc tế.
Nhân đây, cũng nói để ông hiểu biết thêm, trên thế giới này hiếm có một đảng nào lại dũng cảm dám công khai nhận sai lầm, khuyết điểm như Đảng Cộng sản Việt Nam. Những sai lầm, khuyết điểm đều được Đảng công khai chỉ ra bằng những nhận định, đánh giá rất sát thực trong các văn kiện của Đảng và công khai cho nhân dân biết để nhân dân giám sát, đóng góp ý kiến giúp cán bộ, đảng viên sửa chữa sai lầm. Lòng dũng cảm đó chính là trách nhiệm thực hành dân chủ của Đảng đối với xã hội, chứ đâu như ông dựa gió bẻ măng không dám công khai âm mưu thâm độc của mình. Ông nhìn vào một con sâu để hắt bỏ cả nồi canh, thật là đầu óc quá nhỏ bé.
Ông cũng phải biêt rằng cái mà ông gọi là “mảnh dư đồ rách nát” ấy là nơi đã sinh và nuôi dưỡng ông trưởng thành. Thật vô phúc cho đấng sinh thành có người con như ông. Những người Việt sống lưu vong ở nước ngoài như ông đã không giúp gì cho nước, cho dân lại tỏ ra tức tối, hậm hực, rồi viết lên blog những điều xuyên tạc sự thật, kích động chống phá bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn đen tối, qua đó hy vọng làm thay đổi sự thật về Đảng Cộng sản Việt Nam thì thật là trò đùa rẻ tiền, lấy trứng chọi đá mà thôi.
3. Thật lố bịch khi ông cho rằng Đảng, Nhà nước đã “hèn với giặc, ác với dân”? ông có biết rằng chính ông đang tự lấy tay tát vào mặt mình.
 Là một người đã từng “ăn cơm Đảng, mặc áo dân” được Đảng rèn luyện tu dưỡng, phát triển và trưởng thành. Trong bối cảnh khó khăn chung của đất nước, lẽ ra với tư cách là đảng viên và ở cơ quan ngôn luận của Đảng, ông phải toàn tâm, toàn ý đóng góp công sức, trí tuệ để giúp nước, cứu dân. Vậy mà việc làm “dũng cảm” của ông trước khó khăn đó là trốn chạy khỏi quê hương để theo đuổi những lợi ích vật chất tầm thường trước mắt và tỏ lòng “thương dân” bằng những bài tuyên truyền sáo rỗng, phản động.
Ông phải biết rằng Chưa bao giờ trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam lại có mối quan hệ quốc tế rộng khắp, bình đẳng và hữu nghị, có môi trường quốc tế hòa bình, ổn định và có vị thế quốc tế vững vàng, thuận lợi như ngày nay. Từ tình thế bị bao vây, cô lập, Việt Nam đã "mở rộng quan hệ đối ngoại chưa từng có cả về bề rộng lẫn chiều sâu". Năm 1954 Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 11 nước nhưng hiện con số này tăng lên 185 nước, thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với 224 thị trường tại tất cả các châu lục, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và toàn diện với nhiều quốc gia chủ chốt trên thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có quan hệ hợp tác tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Việt Nam và Trung Quốc có mối quan hệ lâu đời, trải qua nhiều thăng trầm lịch sử. Từ sau khi bình thường hóa quan hệ (tháng 11-1991), hai nước đã không ngừng củng cố, phát triển quan hệ chính trị - ngoại giao. Việt Nam và Trung Quốc đã định ra khuôn khổ hợp tác, từ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” (năm 1999) đến “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” (năm 2005) và cuối cùng là “đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” (năm 2008). Hai nước đã giải quyết được hai trong ba vấn đề bất đồng quan trọng liên quan đến biên giới - lãnh thổ: Ký kết Hiệp định biên giới trên đất liền vào năm 1999 và đã hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên đất liền (năm 2008); ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ (năm 2000); ký Hiệp định Hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ (năm 2004)…Hiện nay Việt Nam và Trung Quốc đang giải quyết mọi vấn đề dựa trên 5 nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình; thúc đẩy hợp tác bình đẳng cùng có lợi; giải quyết những vấn đề tranh chấp thông qua thương lượng hòa bình; tiến hành quan hệ hai nước không nhằm vào nước thứ ba và cũng không làm ảnh hưởng đến quan hệ mỗi nước với các nước khác.
          Vậy với những số liệu đó trong quan hệ đối ngoại nói chung trong quan hệ với Trung Quốc nói riêng đã đủ cho ông thấy vị thế và sự dũng cảm của Đảng, dân tộc Việt Nam chưa. Nếu còn chút lương tâm và danh dự tôi mong ông an phận và sám hối, đừng nói năng lảm nhảm như một kẻ mất trí với cái tuổi “gần đất xa trời”. Ông đang “nằm ngửa, nhổ ngược”! Những điều ông phỉ nhổ lại đang rơi chính vào mặt mình./.
                                                                                                   Trần Nam

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...