Thứ Tư, 6 tháng 4, 2022

Thủ đoạn đánh lận bản chất vụ Việt Á để chống phá Đảng, Nhà nước

Trong khi vụ án xảy ra tại Công ty Việt Á đang được các cơ quan chức năng tích cực mở rộng điều tra để xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật thì các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại triệt để khai thác, lợi dụng vụ án để xuyên tạc, công kích chống phá Đảng, Nhà nước.

Một số trang mạng xã hội của các tổ chức, hội nhóm ngoài nước, hãng thông tấn như Việt Tân, RFA, VOA… lợi dụng vụ việc này tung ra những luận điệu bôi xấu chế độ, xuyên tạc bản chất vụ việc. Nhiều bài viết vu cáo Việt Nam chống tham nhũng bằng cách hô hào khẩu hiệu, hướng lái dư luận, đổ lỗi việc để xảy ra những vụ án như vậy là do chế độ, lỗi do Đảng, Nhà nước.

RFA viết rằng: “Vụ Việt Á, mọi việc trở nên tồi tệ”, rồi rêu rao, hạ thấp vai trò của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, các cơ quan tiến hành tố tụng.

Bên cạnh đó, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị còn phỏng vấn, phát tán các video, hình ảnh, bài viết với nội dung sai trái, cực đoan của những đối tượng gắn mác “chuyên gia”, “học giả”, những cá nhân tự cho mình là những “nhà phản biện” để ra sức bóp méo, đả phá xung quanh vụ việc trên. Tung ra nhiều bài viết cho rằng “Ban Chỉ đạo vào cuộc chỉ để giải quyết hậu quả”; đưa ra luận điệu quy kết vấn nạn tham nhũng “thủng từ gốc”. Từ vụ việc tại Việt Á, các đối tượng xâu chuỗi những vụ án tham nhũng lớn gần đây rồi quy kết, công cuộc chống tham nhũng “chỉ trên khẩu hiệu”, không đạt kết quả đáng kể nào do “chế độ độc đảng”!

Với những thông tin mà các hội, nhóm, cá nhân trên đưa ra cho thấy sự suy diễn, thổi phồng, nhiều bài viết bịa đặt, xuyên tạc tình hình tham nhũng và công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Về vụ án xảy ra tại Công ty Việt Á, qua các chiêu trò của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại được nhào nặn, chế biến thành công cụ, phương tiện rất nguy hại nhằm đánh lận hiện tượng để quy kết bản chất. Các đối tượng nhào nặn vụ án rồi suy diễn thành “lỗi hệ thống”, bóp méo chủ trương “kiên quyết, không có vùng cấm, không có ngoại lệ” trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta.

Từ vụ việc, mục đích các đối tượng tung ra thông tin sai lệch nhằm vẽ lên một bức tranh xám xịt về thực trạng xã hội Việt Nam dưới chế độ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Từ đó gây hoài nghi trong nhân dân vào các cấp lãnh đạo, hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ, tạo hoài nghi về quyết tâm chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Đồng thời, phá hoại sự đoàn kết trong Đảng, chia rẽ cán bộ, đảng viên với quần chúng nhân dân và sự đồng thuận trong xã hội.

Chúng ta thấy rằng, tham nhũng là một hiện tượng xã hội, hiện hữu ở tất cả các quốc gia, không phân biệt quốc gia đó theo chế độ chính trị nào, dù cho đó là nước nghèo hay giàu, quốc gia phát triển, đang phát triển hay kém phát triển; không phân biệt do một đảng hay do đa đảng lãnh đạo. Do vậy, không thể lấy vụ án tham nhũng tại Công ty Việt Á cũng như các vụ án tham nhũng, tiêu cực khác để gán ghép, suy diễn là do “độc đảng” như cái cách mà các thế lực thù địch đang tìm cách đổ lỗi, quy trách nhiệm, cố tình quy kết tình trạng tham nhũng, tiêu cực là do chế độ.

Thực tế, quan điểm trong phòng, chống tham nhũng của Đảng ta được thể hiện rất rõ trong các văn kiện của Đảng, trong đó Văn kiện Đại hội XIII khẳng định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn”. Để phòng, chống, đẩy lùi tham nhũng, suy thoái, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, đi cùng với đó là sửa đổi, bổ sung, từng bước hoàn thiện hệ thống luật pháp gắn với việc điều tra, xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, tiêu cực, tạo sức răn đe, phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

Ngày 20/1/2022, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (Ban Chỉ đạo) đã họp phiên thứ 21 dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng ban Chỉ đạo. Phát biểu kết luận phiên họp, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả rõ rệt, có mặt cao hơn năm trước, khẳng định quyết tâm mạnh mẽ, không ngừng, không nghỉ, không vì chống dịch mà chùng xuống, không xử lý. Đối với vụ án xảy ra tại Công ty Việt Á đã gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với công tác phòng, chống dịch và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước.

Để xử lý nghiêm minh những tổ chức, cá nhân sai phạm, cảnh báo, răn đe mạnh mẽ hơn nữa, ngăn ngừa tham nhũng, tiêu cực, củng cố niềm tin của nhân dân, Thường trực Ban Chỉ đạo thống nhất đưa vụ án xảy ra tại Công ty Việt Á vào diện được Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo. Theo đó, Ban Chỉ đạo yêu cầu Đảng ủy Công an Trung ương, Ban cán sự đảng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan, chỉ đạo các cơ quan chức năng tập trung lực lượng, khẩn trương, quyết liệt, mở rộng điều tra làm rõ bản chất của vụ án, xử lý nghiêm các sai phạm theo quy định của pháp luật; không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không chịu bất kỳ sự can thiệp trái pháp luật của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào.

Hiện, các cơ quan chức năng đang khẩn trương điều tra, làm rõ vụ án để xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật; đồng thời rà soát, thu hồi triệt để tài sản cho Nhà nước. Cùng với đó, Ban Chỉ đạo giao Ủy ban Kiểm tra Trung ương tiến hành kiểm tra dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên có liên quan để kịp thời xử lý nghiêm theo quy định của Đảng. Các cấp ủy, tổ chức đảng, tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương tập trung lãnh đạo, chỉ đạo khẩn trương kiểm tra, thanh tra, điều tra xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng công tác phòng, chống dịch bệnh để tham nhũng, tiêu cực. Giao Ban Nội chính Trung ương - Cơ quan Thường trực của Ban Chỉ đạo chủ trì phối hợp với các cơ quan chức năng đôn đốc, kiểm tra, tham mưu Thường trực Ban Chỉ đạo để chỉ đạo xử lý kịp thời, nghiêm minh. Trước đó, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu Bộ Công an chủ trì, mở rộng vụ án xảy ra tại Công ty cổ phần công nghệ Việt Á, thu hồi tài sản bị chiếm đoạt và thất thoát, sớm đưa các đối tượng ra xét xử.

Như vậy, từ khi vụ việc tại Công ty Việt Á được phát giác đến nay, các cơ quan chức năng đã khẩn trương đẩy nhanh tốc độ, mở rộng điều tra vụ án; ban đầu điều tra các đối tượng của một địa phương, sau đó mở rộng sang các đối tượng của địa phương khác. Điều đó thể hiện những nỗ lực, quyết tâm cao, hành động xuyên suốt, nhất quán. Thực tế trong công cuộc phòng, chống tham nhũng những năm qua theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII) đã chứng minh, pháp luật Việt Nam nghiêm minh “không thiên tư, thiên vị”, các cá nhân, tổ chức sai phạm đều được làm rõ để xử lý nghiêm. Thời gian qua, đối với những tổ chức, cá nhân có các hành vi tham nhũng chính sách, lợi dụng tình hình dịch bệnh COVID -19 để trục lợi đều bị xử lý nghiêm minh, không có việc Đảng, Nhà nước “tránh trách nhiệm” như những gì mà các thế lực thù địch rêu rao, vu cáo.

Qua vụ Việt Á cho thấy, chống tham nhũng, tiêu cực phải đi liền với chống lợi ích nhóm, suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Vụ án cũng chứng minh chủ trương “kiên quyết, không có vùng cấm, không có ngoại lệ” của Đảng, Nhà nước ta được thực thi trên thực tế chứ không phải “khẩu hiệu suông, mị dân” như luận điệu kẻ xấu. Chúng ta đã thấy rõ những tác hại của vấn nạn tham nhũng gây ra, thấy rõ sự vào cuộc đồng bộ, mạnh mẽ, quyết tâm cao trong công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của cả hệ thống chính trị.

Đồng thời, với tính chất phức tạp, khó khăn của cuộc đấu tranh chống “đạn bọc đường” và âm mưu của kẻ địch lợi dụng cuộc đấu  tranh đó để chống phá Đảng, Nhà nước, đòi hỏi mỗi người phải luôn nâng cao cảnh giác, đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn, xuyên tạc phá hoại công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, không để bị lôi kéo, kích động, biến thành những con rối.

Luận điệu suy diễn, xuyên tạc quan điểm của Việt Nam về xung đột Nga – Ukraine

Mặc dù Việt Nam đã nhiều lần nêu quan điểm chính thức về xung đột Nga - Ukraine, đó là Việt Nam kêu gọi các bên liên quan giảm leo thang căng thẳng, nối lại đối thoại và đàm phán thông qua tất cả các kênh, nhằm đạt được giải pháp lâu dài trên cơ sở luật pháp quốc tế, ấy thế nhưng, trên Internet, mạng xã hội, một số người lại đang cố tình đưa ra những luận điệu sai trái, suy diễn xuyên tạc nhằm bôi nhọ, hạ thấp uy tín, danh dự của Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Ngày 2/3, tại phiên họp khẩn cấp lần thứ XI, Đại hội đồng Liên hợp quốc (LHQ) đã thông qua nghị quyết kêu gọi Nga rút quân khỏi Ukraine. Sau khi nghị quyết trên được thông qua và thông tin các nước thành viên LHQ thể hiện quan điểm, trên một số diễn đàn Internet, mạng xã hội, một số cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước đã đưa ra những luận điệu sai trái, suy diễn rằng quan điểm của Việt Nam là “mơ hồ, không rõ ràng”, Việt Nam đã không đi theo số đông, cố tình tìm cách lựa chọn quan điểm trung lập đối với cuộc xung đột Nga - Ukraine.

Từ việc nêu những câu hỏi mang tính suy diễn chủ quan, nhiều bài viết đưa ra luận điệu quy chụp, cho rằng các quốc gia chọn giữ thái độ trung lập là những quốc gia “phần lớn đổ lỗi cho phương Tây đã kích động các điều kiện dẫn đến cuộc xung đột này”.

Một số người cuốn theo lối suy diễn trên, cũng đưa ra các bình luận tiêu cực, thậm chí kích động tư tưởng chống phá. Có trang mạng dùng thủ đoạn đưa ra thăm dò rồi cho những thành phần trong nhóm click vào lựa chọn theo chủ ý của người đặt bình chọn, từ đó lấy cớ vu cáo “người dân ủng hộ đa số” còn quan điểm của Nhà nước “chỉ là thiểu số”! Cá biệt, có luận điệu xuyên tạc rằng, phải chăng Việt Nam đang ngấm ngầm ủng hộ cho cuộc chiến tranh, quay lưng với hoà bình?

Trong khi đó, trên một số trang báo nước ngoài xuất hiện các luận điệu mang tính chỉ trích, phê phán việc thông tin cuộc xung đột trên báo chí trong nước, từ đó tìm cách hướng lái nhằm cuốn người đọc theo chủ đích, ý đồ của họ. Thậm chí, một số bài viết còn đưa ra những luận điệu theo kiểu lập lờ đánh lận con đen, đưa ra những câu hỏi, nghi vấn mang tính quy chụp, bôi nhọ quan điểm, uy tín Việt Nam trong quan hệ đối ngoại. Nhiều bài viết bằng lối phân tích tỏ ra có trình độ, hiểu biết kiểu “chuyên gia” song thực chất nhận thức rất lệch lạc, lộ rõ ý đồ, động cơ chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Đối với vấn đề xung đột Nga - Ukraine, Việt Nam đã nhiều lần nêu quan điểm chính thức của mình. Ngày 1/3, phát biểu khi Đại hội đồng LHQ tổ chức phiên họp khẩn cấp lần thứ XI thảo luận về tình hình Ukraine, Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng phái Đoàn thường trực Việt Nam tại LHQ đã nhấn mạnh rằng: “Lịch sử của chính dân tộc chúng tôi hứng chịu các cuộc chiến tranh đã nhiều lần chỉ ra rằng, cuộc chiến tranh và xung đột đến tận ngày nay thường bắt nguồn từ các học thuyết lỗi thời đề cao chính trị cường quyền, tham vọng thống trị áp đặt và sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp quốc tế. Một số xung đột vẫn còn gắn liền với những yếu tố lịch sử, ngộ nhận và hiểu lầm. Với trải nghiệm của chính mình, Việt Nam thấu hiểu rằng chiến tranh và xung đột khi nổ ra chỉ gây ra đau khổ sâu sắc cho người dân và hậu quả nghiêm trọng đối với nhiều khía cạnh trong đời sống của các quốc gia có liên quan trực tiếp cũng như của các quốc gia khác”.

Đại sứ nêu rõ, trong bối cảnh đó, Việt Nam đã nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tôn trọng luật pháp quốc tế và Hiến chương LHQ. Mọi tranh chấp quốc tế cần được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình, dựa trên các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương LHQ, bao gồm các nguyên tắc về bình đẳng chủ quyền, độc lập chính trị và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia và không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực. Tất cả các quốc gia lớn hay nhỏ đều phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản này.

Trên cơ sở đó, Đại sứ Đặng Hoàng Giang nhấn mạnh: “Việt Nam kêu gọi các bên liên quan giảm leo thang căng thẳng, nối lại đối thoại và đàm phán thông qua tất cả các kênh, nhằm đạt được giải pháp lâu dài có tính đến lợi ích và quan ngại của tất cả các bên, trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia. Các giải pháp như vậy sẽ chấm dứt những khổ đau và đóng góp cho hòa bình, an ninh và phát triển ở châu Âu và thế giới nói chung”.

Ngày 3/3, tại họp báo thường kỳ, trả lời báo chí về việc bỏ phiếu của Việt Nam, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng đã khẳng định: “Quan điểm của chúng tôi là Việt Nam luôn theo dõi sát sao và hết sức quan ngại về tình hình Ukraine”. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nhấn mạnh: “Chúng tôi cho rằng, ưu tiên hiện nay là cần kiềm chế tối đa, chấm dứt các hành động sử dụng vũ lực để tránh gây thương vong và tổn thất đối với dân thường, nối lại đàm phán đối thoại trên tất cả các kênh để đạt được các giải pháp lâu dài có tính đến lợi ích chính đáng của tất cả các bên trên cơ sở phù hợp với Hiến chương LHQ và nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế”.

Như vậy, xuyên suốt trong các tuyên bố, phát ngôn, quan điểm nhất quán của Việt Nam là kêu gọi chấm dứt hành động sử dụng vũ lực, nối lại đối thoại và tìm kiếm giải pháp lâu dài cho các bất đồng. Kể từ khi cuộc xung đột Nga - Ukraine nổ ra cho đến thời điểm hiện tại, chưa có bất kỳ phát ngôn và hành động nào của Việt Nam đề cập đến việc ủng hộ việc sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề xung đột giữa Nga và Ukraine và Việt Nam cũng không “thiên vị” hay đứng về bất kỳ một bên nào xoay quanh xung đột giữa Nga và Ukraine. Những luận điệu cho rằng Việt Nam đứng bên này để chống bên kia, “cổ suý chiến tranh” là hoàn toàn sai trái, bịa đặt.

Hiến pháp năm 2013 và Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung năm 2011) của Việt Nam đã nêu rõ chính sách đối ngoại của Việt Nam là thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Về chính sách quốc phòng, Việt Nam đã nhiều lần nêu rõ, Việt Nam giữ vững nguyên tắc 4 không: Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Để giành độc lập dân tộc và tự do, bảo vệ nền hòa bình của Tổ quốc, nhân dân Việt Nam đã phải hy sinh biết bao xương máu. Bằng các cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất qua nhiều thế hệ, dân tộc Việt Nam đã khẳng định rằng, quyền thiêng liêng, cơ bản nhất của con người là quyền được sống trong hòa bình, độc lập, tự do, quyền được tự quyết vận mệnh của mình. Bởi vậy, hơn ai hết, nhân dân Việt Nam luôn mong muốn xây dựng một môi trường hòa bình, hiểu biết, đoàn kết và yêu thương nhau, cùng xây dựng thế giới ngày càng tốt đẹp.

Đối với Việt Nam, cả Nga và Ukraine đều là đối tác quan trọng. Do đó, Việt Nam kêu gọi Nga và Ukraine giảm căng thẳng, ngừng bắn, bảo đảm an ninh an toàn, nhu cầu thiết yếu của người dân, bảo đảm an ninh an toàn cho cộng đồng người nước ngoài đang sống tại Ukraine, trong đó có người Việt Nam. Việt Nam luôn khẳng định lập trường không thay đổi, đó là Việt Nam không đứng về bên này chống bên kia hay ngược lại mà luôn đứng về lẽ phải, về công lý, luật pháp quốc tế.

Như vậy, những luận điệu sai trái, xuyên tạc quan điểm của Việt Nam đối với vấn đề xung đột Nga - Ukraine trên Internet, mạng xã hội của một số cá nhân, tổ chức thực chất là nhằm bôi nhọ, hạ thấp danh dự, uy tín của Việt Nam; xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Trả lời về việc Phạm Thị Đoan Trang nhận giải thưởng tự do báo chí

Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng cho rằng, việc Bộ Ngoại giao Canada và Anh trao giải thưởng cho một cá nhân vi phạm pháp luật Việt Nam là một hành động thiếu khách quan, không phù hợp và không có lợi cho việc phát triển quan hệ song phương với Việt Nam.

Ngày 18/2, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết phản ứng trước việc Bộ Ngoại giao Canada và Anh trao giải thưởng tự do báo chí cho đối tượng vi phạm pháp luật Việt Nam Phạm Thị  Đoan Trang, Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng nêu rõ:

"Như đã nhiều lần khẳng định, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm bảo vệ và thúc đẩy các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin. Điều này được quy định cụ thể trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật liên quan, được triển khai thực hiện trong thực tế đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam và được thể hiện rõ ràng qua sự phát triển mạnh mẽ của báo chí Việt Nam trong thời gian qua. 

Phạm Thị Đoan Trang bị bắt giữ và xét xử do có những hành động vi phạm pháp luật nhiều lần, nghiêm trọng, liên hệ với các tổ chức và cá nhân ở nước ngoài, xuất bản các ấn phẩm trái phép có nội dung tuyên truyền, hướng dẫn, kích động các hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.

Hành vi của Phạm Thị Đoan Trang là nguy hiểm cho xã hội. Chúng tôi cho rằng việc Bộ Ngoại giao Canada và Anh trao giải thưởng cho một cá nhân vi phạm pháp luật Việt Nam là một hành động thiếu khách quan, không phù hợp và không có lợi cho việc phát triển quan hệ song phương với Việt Nam".

Nguồn: Báo CADN

Thủ đoạn bôi nhọ chính sách bảo hộ công dân Việt Nam tại Ukraine

Chính phủ Việt Nam luôn thực thi chính sách bảo hộ công dân tại nước ngoài với tinh thần “tương thân tương ái” hỗ trợ tối đa để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là các điểm nóng xung đột, chiến tranh như Trung Đông, Bắc Phi và hiện nay là xung đột giữa Nga và Ukraine.

Tuy nhiên, các thế lực thù địch và những thành phần tự xưng đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền luôn rêu rao các quan điểm sai lệch về chính sách bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài nhằm gây hoang mang dư luận, làm suy giảm niềm tin của công dân trong và ngoài nước đối với Đảng, Nhà nước Việt Nam. Luận điệu này thể hiện trên một số điểm sau:

- Phủ nhận vai trò của các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam tại Nga và Ukraine trong hỗ trợ người dân sơ tán khỏi vùng chiến sự. Truyền thông hải ngoại như đài RFA, BBC tiếng Việt, VOA, facebook của tổ chức khủng bố Việt Tân… đã vẽ ra bức tranh quy kết chính quyền Việt Nam “đứng ngoài lề, dửng dưng với những người dân đang kẹt lại tại khu vực xung đột Nga – Ukraine”. RFA ngày 11/3/2022 đăng tải bài viết về thực trạng người dân Việt Nam tại Ukraine và vu cáo “Không thấy vai trò của toà đại sứ Việt tại các quốc gia đó ở đâu! Lại cái cảnh “dân giúp dân” như tại Việt Nam thời COVID-19 hoành hành!”. Qua đó, nội dung bài viết phủ nhận những nỗ lực của các cơ quan ngoại giao Việt Nam ở Nga và Ukraine trong việc đưa ra các phương án bảo vệ tài sản, tính mạng, sức khoẻ những người dân và cho rằng, khi chiến sự nổ ra đã không quan tâm sơ tán người dân. Đây là luận điệu nguy hiểm, đánh vào tâm lý những người dân đang kẹt lại các điểm nóng và gây hoang mang cho người dân trong nước về tình hình cộng đồng người Việt tại Ukraine.

- Làm giảm niềm tin của người dân trong nước đối với hoạt động quản lý của cơ quan chức năng liên quan đến hỗ trợ người dân tại các quốc gia đang xung đột, chiến tranh. Sau khi vụ án liên quan đến hành vi nhận hối lộ của một số cá nhân tại Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao được cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, các thế lực thù địch, giới dân chủ tự xưng đã khoét sâu vào những sai phạm này để quy chụp, bôi nhọ. Nhiều bài viết các đối tượng vu cáo chính quyền Việt Nam bao che, dung túng sai phạm, đồng thời rêu rao, kích động người dân không tin tưởng vào những hoạt động hỗ trợ của chính quyền đối với kiều bào Việt Nam ở nước ngoài. Họ nhắc lại những chiến dịch sơ tán người dân tại Bắc Phi, Trung Đông giai đoạn 2011-2014, đưa các clip, hình ảnh, bài viết sai lệch về việc người Việt “phải tự mình xoay xở” với hoàn cảnh khó khăn, từ đó suy diễn, vu cáo cơ quan ngoại giao của Việt Nam không thực hiện chính sách bảo hộ công dân Việt ở nước ngoài.

- Bôi lem hình ảnh, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, mục đích để thế giới nhìn nhận Việt Nam là quốc gia thiếu trách nhiệm trong giải quyết các vấn đề nóng trên thế giới. Việt Nam đã tham gia ký kết các Công ước về ngoại giao theo luật pháp quốc tế nên các cơ quan ngoại giao Việt Nam có cơ sở để lên tiếng yêu cầu các quốc gia đang có xung đột, chiến tranh phải có trách nhiệm đối với cộng đồng người Việt Nam. Thực tế, các cơ quan đại diện ngoại giao luôn đi đầu trong nắm diễn biến tình hình và thực hiện các biện pháp bảo vệ tài sản, tính mạng cho công dân theo chính sách bảo hộ của pháp luật. Tuy nhiên, nhiều cá nhân, tổ chức quốc tế có những góc nhìn thiếu khách quan, trung thực trong đánh giá hoạt động của cơ quan ngoại giao của Việt Nam. Một số tổ chức thiếu thiện chí đưa ra thông tin, hình ảnh sai lệch nhằm bôi lem, hạ uy tín Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế, các hội thảo đa phương, thậm chí lên án Việt Nam tại các phiên điều trần của nghị viện Mỹ, EU… Một số cơ quan truyền thông phương Tây tô vẽ góc nhìn lệch lạc, trái với bản chất, tạo ra dư luận xấu về hình ảnh của Việt Nam, mục đích làm cho quốc tế nhìn nhận Việt Nam là quốc gia thiếu tin cậy, thiếu trách nhiệm, thậm chí hướng lái thành “đứng ngoài cuộc” trong tham gia giải quyết các điểm nóng, xung đột trên thế giới.

Thực tế, những hoạt động tích cực của các cơ quan chức năng Việt Nam thể hiện xuyên suốt, từ chủ trương, chính sách đến hành động bảo hộ công dân Việt Nam tại nước ngoài. Điều đó được biểu hiện ở các nội dung:

Một là, Đảng, Nhà nước Việt Nam khẳng định công dân Việt ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập quốc tế, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập sâu rộng với thế giới. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định chính sách nhất quán “nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân”. Nhằm cụ thể hóa tinh thần này của Đại hội XIII, Hội nghị Ngoại giao lần thứ 31 nhấn mạnh cần “triển khai toàn diện, mạnh mẽ, kịp thời, hiệu quả công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài và bảo hộ công dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người Việt Nam ở nước ngoài”; “chăm lo, hỗ trợ đồng bào ta, nhất là ở những địa bàn khó khăn”. Đối với các điểm nóng, xung đột trên thế giới như tại Ukraine hiện nay, Chính phủ đã gửi Công điện 201 ngày 26/2/2022 về việc “Bảo hộ công dân và pháp nhân Việt Nam và một số vấn đề cần lưu ý trước tình hình tại Ukraine”, yêu cầu các bộ, ngành, các cơ quan đại diện Việt Nam tại Ukraine và các nước lân cận Ba Lan, Nga, Rumania, Hungaria, Slovakia phối hợp chặt chẽ trong việc triển khai các phương án bảo hộ công dân, đảm bảo an ninh, an toàn, các điều kiện cần thiết để sơ tán công dân Việt Nam khỏi vùng chiến sự, đến các nước lân cận và về nước nếu có nguyện vọng.

Hai là, dưới góc độ luật pháp, Việt Nam cam kết thực hiện chính sách bảo hộ công dân tại nước ngoài theo quy định pháp luật Việt Nam và phù hợp với luật pháp quốc tế. Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Công dân Việt Nam ở nước ngoài được Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam bảo hộ” (Khoản 3, Điều 17). Luật Quốc tịch Việt Nam ghi nhận: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam bảo hộ quyền lợi chính đáng của công dân Việt Nam ở nước ngoài. Các cơ quan nhà nước ở trong nước, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm thi hành mọi biện pháp cần thiết, phù hợp với pháp luật của nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế để thực hiện sự bảo hộ đó” (Điều 6, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014). Việt Nam cũng đã chủ động sửa đổi Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ở nước ngoài năm 2009 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nhằm phù hợp với Công ước quốc tế như Nghị định thư bổ sung Công ước Geneva về bảo hộ nạn nhân trong các cuộc xung đột quốc tế; Công ước Viên về quan hệ ngoại giao năm 1961.

Ba là, xuất phát từ thực tế thực hiện chính sách bảo hộ công dân Việt Nam ở các nước trên thế giới luôn được Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm và xác định đó không chỉ là lợi ích của mỗi cá nhân mà còn thể hiện trách nhiệm của Chính phủ Việt Nam đối với công dân khi công tác, học tập làm ăn ở nước ngoài theo tinh thần “không ai bị bỏ lại đằng sau”. Ngày 6/3/2022, trong cuộc làm việc với Bộ Ngoại giao liên quan đến sơ tán công dân Việt từ Ukraine khỏi vùng chiến sự, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh: Công tác bảo hộ công dân cần được đặc biệt quan tâm; quá trình tổ chức cần thực hiện những chuyến bay miễn phí đưa trường hợp khó khăn về nước, đồng thời phải thực hiện nhất quán “ưu tiên phụ nữ, trẻ em, người già”. Đó là minh chứng cho những lời hứa thực hiện bảo hộ công dân Việt tại nước ngoài nhằm thực hiện cam kết của Chính phủ với người dân trước những diễn biến phức tạp tại Ukraine.

Mặt khác, trong những năm qua, Việt Nam đã từng tổ chức nhiều phương án, biện pháp thiết thực như lập cầu hàng không sơ tán người lao động ở Libya năm 2011 và 2014; đưa hành khách ra khỏi châu Âu do núi lửa phun trào năm 2010; giải cứu hành khách bị kẹt tại Thái Lan do khủng hoảng chính trị năm 2008; vận chuyển công dân Việt Nam trở về từ Malaysia, Trung Đông các năm 2005-2007... Năm 2021, Bộ Ngoại giao đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan liên quan tổ chức gần 600 chuyến bay đưa hơn 130.000 công dân từ hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ về Việt Nam.

Thực tế đó thể hiện rõ chủ trương, chính sách và hành động thiết thực của Việt Nam trong công tác bảo hộ công dân ở nước ngoài; là bằng chứng sinh động phủ nhận những luận điệu sai trái, vu cáo của các thế lực xấu.

Lại diễn kịch “Giải thưởng Phụ nữ dũng cảm quốc tế”!

Ngày 14/3, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken được nhiều trang thông tấn báo chí nước ngoài như BBC, VOA… cho biết đã chủ trì lễ trao giải thưởng Phụ nữ dũng cảm quốc tế (IWOC) cho Phạm Thị Đoan Trang.

Thông tin nêu, ngoài Phạm Thị Đoan Trang còn có 11 phụ nữ khác trên toàn cầu được “biểu dương lòng dũng cảm, sức mạnh và khả năng lãnh đạo đặc biệt của họ trong việc vận động cho hòa bình, công lý, nhân quyền, bất chấp nguy hiểm đến tính mạng của mình”. Những người này đến từ các nước Bangladesh, Brazil, Burma, Colombia, Iraq, Liberia, Libya, Moldova, Nepal, Romania, South Africa.

Phạm Thị Đoan Trang được đính kèm với cụm từ “nhà báo độc lập”, như để tránh nhầm lẫn giữa Trang “báo chí” với một bà Trang nào khác. Sau khi dùng những từ ngữ ca ngợi “đóng góp của nữ nhà báo độc lập Phạm Thị Đoan Trang đang bị giam cầm tại Việt Nam”, Ngoại trưởng Hoa Kỳ lên án “sự giam cầm bất công đối với bà, chúng tôi kêu gọi phóng thích cho bà ngay lập tức”. Được biết, buổi lễ có sự hiện diện của Đệ nhất phu nhân Jill Biden, Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên hợp quốc Linda Thomas-Greenfield, Trợ lý Bộ trưởng Giáo dục và Văn hóa Lee Satterfield.

Trước đó, ngày 8/3, trong thông cáo báo chí của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng thông tin về “nhà báo độc lập” Phạm Thị Đoan Trang, cho rằng việc Phạm Thị Đoan Trang bị bắt giam, thi hành án phạt tù là do “liên quan đến các bài viết của bà và bày tỏ ý kiến một cách ôn hòa”.   

Kể từ tháng 3/2007 đến nay, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã trao giải này cho hơn 170 phụ nữ từ hơn 80 quốc gia. Phạm Thị Đoan Trang là phụ nữ thứ ba ở Việt Nam được trao giải IWOC, sau Tạ Phong Tần được trao năm 2013 và Nguyễn Ngọc Như Quỳnh được trao năm 2017. Điểm chung của ba người phụ nữ được “vinh danh” này là đều bị toà án các cấp xét xử về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam”, theo Điều 88, Bộ luật Hình sự 1999. 

Ngay sau khi Phạm Thị Đoan Trang được trao giải nói trên, một số kênh truyền thông nước ngoài đã nhanh chóng liên hệ với các phần tử chống phá Việt Nam để “tiếp sóng”. Phóng viên Đài VOA kết nối với Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, hiện đang sinh sống tại Houston, Texas để “hỏi về suy nghĩ, cảm tưởng”. Nguyễn Ngọc Như Quỳnh từng bị toà án tuyên án 10 năm tù vào năm 2017, sau bị trục xuất sang Hoa Kỳ. Nguyễn Ngọc Như Quỳnh được dịp bung nổ: “Chúc mừng chị Phạm Thị Đoan Trang với danh hiệu Phụ nữ dũng cảm quốc tế 2022. Đây là sự ghi nhận của Hoa Kỳ nói riêng và thế giới nói chung dành cho cá nhân Phạm Thị Đoan Trang với những nỗ lực tranh đấu miệt mài, bền bỉ cho quyền con người, tự do ngôn luận tại Việt Nam”. Nguyễn Ngọc Như Quỳnh đồng thời cũng được thể bôi nhọ đất nước, quê hương của mình: “Tôi hy vọng rằng sự dấn thân của chị Đoan Trang sẽ tạo ra thay đổi tích cực trong một xã hội đầy sợ hãi, khiếp nhược. Và quan trọng hơn hết là sẽ không có thêm công dân Việt Nam nào bị kết án vì nói lên quan điểm chính trị, vì chống lại sự đàn áp, bất công. Không một công dân Việt Nam bị bỏ tù vì bày tỏ sự can đảm của mình trước nhà cầm quyền độc tài”.  

Cần thấy rằng, chính Nguyễn Ngọc Như Quỳnh với hoạt động chống phá đất nước như Phạm Thị Đoan Trang, đã bị tuyên 10 năm tù giam và cũng chính Quỳnh từng được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ trao “giải thưởng Phụ nữ dũng cảm quốc tế” trước đó. Khi sang đất Mỹ, với những “thành tích” chống lại Tổ quốc, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh được các thế lực thù địch, phản động bên ngoài tìm cách đánh bóng tên tuổi, đào tạo và gán cho những giải thưởng hào nhoáng như “Giải thưởng Tự do báo chí Quốc tế 2018”; “Giải thưởng Nhân quyền 2019”...

Ở trong nước, Quỳnh tìm cách miệt thị chế độ, ca tụng nước Mỹ là “miền đất hứa”, xứ sở của tự do, của thiên đường. Tuy nhiên, khi bị trục xuất sang Mỹ một thời gian, chính thị đã phải ngao ngán thốt lên trên trang cá nhân của mình những điều chua chát. Như Quỳnh đã viết loạt bài với các nhan đề trên tài khoản Facebook cá nhân: “Cuộc tranh luận về thuốc điều trị sốt rét sẽ đi đến đâu?”,“Nước Mỹ không vĩ đại như người ta tưởng” và “dịch bệnh nên đọc cảnh báo của chuyên gia y tế, đừng nghe lời lãnh đạo”...

Những bài viết của Nguyễn Ngọc Như Quỳnh trực tiếp hoặc gián tiếp chỉ trích Tổng thống Mỹ (khi đó là ông Donald Trump) do trong bài phát biểu cuộc họp báo ngày 19-3, Tổng thống Donald Trump nói: “Thuốc trị sốt rét Hydroxychloroquine có thể bào chế ngay lập tức để trị COVID-19”. Quỳnh cho rằng, tác dụng phụ khi dùng thuốc gốc chloroquine/hydroxychloroquine là “nôn mửa trào mật, tiêu chảy trào bồn cầu, dùng lâu ảnh hưởng đến thị giác, thính giác và cả hệ tim mạch”.

Rồi từ thực tế chống chọi với đại dịch, Quỳnh thốt lên: “Nước Mỹ không vĩ đại như nhiều người đang nghĩ. Thiếu khẩu trang y tế, thiếu bộ xét nghiệm, Tổng thống kêu nhân viên sử dụng lại khẩu trang, có khác gì Vũ Hán không!?”. Từ những viện dẫn về đánh giá của các chuyên gia y tế, cũng như các phân tích lập luận của cá nhân, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh kết luận không nên tin theo lời lãnh đạo nước Mỹ vì có thể bỏ mạng bất cứ lúc nào!  

Rõ ràng, với sự thực như trên, Quỳnh cũng chẳng ưa gì đất Mỹ và còn nhiều éo le, vất vả khác mà xứ sở này thực sự “vỡ mộng” so với suy nghĩ của Quỳnh trước đây. Vậy nhưng, với tâm ý chống phá Nhà nước Việt Nam, ngay khi được hỏi về trường hợp của Phạm Thị Đoan Trang thì Quỳnh không tiếc lời ca tụng Trang và được thể bôi nhọ đất nước, chế độ.  

Với trường hợp Phạm Thị Đoan Trang, sau những trò tôn vinh, trao giải thưởng nhân quyền, giải thưởng tự do báo chí thì nay, cái gọi là giải thưởng Phụ nữ dũng cảm quốc tế chỉ là sự tiếp nối của những vở kịch lố. Với các trường hợp như vậy, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần lên tiếng.

Vào tháng trước, ngay sau khi Phạm Thị Đoan Trang được Bộ Ngoại giao Anh và Canada “vinh danh giải thưởng Tự do báo chí” (Media Freedom 2022), Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng khẳng định: “Như đã nhiều lần khẳng định, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm bảo vệ và thúc đẩy các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin. Điều này được quy định cụ thể trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật liên quan, được triển khai thực hiện trong thực tế đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam và được thể hiện rõ ràng qua sự phát triển mạnh mẽ của báo chí Việt Nam trong thời gian qua.

Phạm Thị Đoan Trang bị bắt giữ và xét xử do có những hành động vi phạm pháp luật nhiều lần, nghiêm trọng, liên hệ với các tổ chức và cá nhân ở nước ngoài, xuất bản các ấn phẩm trái phép có nội dung tuyên truyền, hướng dẫn, kích động các hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Hành vi của Phạm Thị Đoan Trang là nguy hiểm cho xã hội”. Bà Phạm Thu Hằng cũng nêu rõ, việc Bộ Ngoại giao Canada và Anh trao giải thưởng cho một cá nhân vi phạm pháp luật Việt Nam là một hành động thiếu khách quan, không phù hợp và không có lợi cho việc phát triển quan hệ song phương với Việt Nam. 

Khi viết về vấn đề này, chúng tôi đã đặt câu hỏi, tại sao Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lại chú ý quá mức với một đối tượng mà cơ quan tiến hành tố tụng đã có đủ tài liệu, căn cứ để kết tội? Và với chính danh là cơ quan ngoại giao nhà nước, trong xu thế hợp tác toàn diện, lẽ nào lại tìm và khuấy lên những chuyện sai trái như thế, nó đâu có hợp với thể danh của một cơ quan ngoại giao nước lớn, với vị thế để “người ta trông vào”!  

Lại nghĩ, nếu có thể tôn vinh, thì phải tôn vinh người cho đúng với danh nghĩa giải thưởng được nêu ra. Nhân đây, nhắc lại sự kiện ngày 9/2/2006, tại trụ sở Liên hợp quốc, bà Susan Schnall, quốc tịch Mỹ - thành viên của Tổ chức Phụ nữ vì hoà bình và trao đổi toàn cầu của Mỹ, người đã từng bị bắt và kết án tù giam vì phản đối chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam đã được Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Tổ chức hữu nghị Việt Nam trao Kỷ niệm chương “Vì hoà bình, hữu nghị giữa các dân tộc”. Kỷ niệm chương nhằm ghi nhận công lao đóng góp và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân Việt Nam đối với bà nhân chuyến thăm Việt Nam của bà và các thành viên của Tổ chức Phụ nữ vì hoà bình và trao đổi toàn cầu của Mỹ. 

Với tấm lòng yêu chuộng hoà bình, trước nỗi đau thương mất mát không gì bù đắp do cuộc chiến tranh tàn khốc và không muốn những người lính Mỹ phải tiếp tục tử trận vì cuộc chiến phi nghĩa, khi còn làm một nữ y tá chữa bệnh cho thương binh từ chiến trường Việt Nam trở về, Trung uý Hải quân Mỹ Susan Schnall quyết định phải làm một việc theo cách của riêng mình để góp phần nhanh chóng chấm dứt chiến tranh.

Ngày 12/10/1968, bà Susan Schnall đã tổ chức một đợt rải truyền đơn từ trên máy bay của một người bạn ở khu vùng Vịnh San Francisco với nội dung thông báo về một cuộc tuần hành vì hoà bình của các cựu chiến binh và lính Mỹ tại các căn cứ quân sự tại khu vùng vịnh này, tại một tàu sân bay và bệnh viện Hải quân Oak Knoll nơi bà làm việc. Trong trang phục quân đội, bà luôn hô vang khẩu hiệu “Hãy đưa những người con trai nước Mỹ còn sống trở về” và tích cực tham gia biểu tình phản đối chiến tranh. Vì những hành động đó, tháng 2/1969, bà đã bị bắt, đưa ra toà án binh, bị kết án 6 tháng tù giam và sa thải khỏi lực lượng vũ trang. Sau khi bị sa thải, bà vẫn tiếp tục ủng hộ Việt Nam thông qua các hoạt động tuyên truyền phản chiến tại các căn cứ quân sự và gây quỹ ủng hộ một số bệnh viện ở Việt Nam.

Ngày 6/2/1969, đồng chí Nguyễn Thị Bình thay mặt đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc thống nhất miền Nam Việt Nam tham dự Hội nghị Paris đã gửi bức điện động viên chia sẻ, bày tỏ tình cảm và sự biết ơn sâu sắc trước những hành động dũng cảm, bất chấp hiểm nguy của bà và những người dân yêu chuộng hoà bình ở Mỹ vì nền độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam. 

Hành động như bà Susan Schnall mới thực sự xứng đáng để vinh danh giải thưởng Phụ nữ dũng cảm quốc tế. Vậy mà chính bà lại bị toà án ở Mỹ đưa ra xét xử, phạt tù với quy kết hành động đó đã chống lại Nhà nước Mỹ.

Bản sắc văn hóa truyền thống của Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương

Đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh tỉnh Phú Thọ là trung tâm phát khởi của Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Lễ hội Đền Hùng và Giỗ Tổ Hùng Vương được tổ chức hàng năm khoảng một tuần vào đầu tháng 3 Âm lịch.

Sự ra đời và tồn tại lâu dài của Đền Hùng và lễ hội Đền Hùng cùng Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là sự khẳng định niềm tin vào bản sắc truyền thống văn hóa đối với các thế hệ cha ông đi trước, những người đã đổ biết bao công sức và xương máu để dựng nước và giữ nước. Chính từ ý nghĩa tâm linh thiêng liêng ấy mà Lễ hội Đền Hùng đã trường tồn với thời gian, trường tồn cùng lịch sử dân tộc, đúng như câu ca dao được truyền tụng suốt nhiều thế kỷ qua:“Dù ai đi ngược về xuôi/Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba”. Vua Hùng là vị Tổ dựng nước hay như nhân dân ta thường gọi là Quốc Tổ.

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là di sản văn hóa phi vật thể bao gồm các tập quán xã hội, nghi lễ và sự kiện lễ hội liên quan đến Hùng Vương. Theo PGS, TS Đặng Văn Bài: “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương không chỉ là đỉnh cao của sự thăng hoa tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt từ xa xưa mà còn là biểu tượng văn hóa thiêng liêng của tình cảm yêu nước, thương người, được phát triển, nâng cao thành chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân văn Việt Nam. Nét đẹp đạo đức và văn hóa đó đã kết tinh thành giá trị bền vững trong văn hóa truyền thống của cả dân tộc”.

Giỗ Tổ Hùng Vương và Lễ hội Đền Hùng đã hình thành từ rất sớm và sự tồn tại của nó luôn gắn chặt với quá trình phát triển của lịch sử dân tộc. Với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” và đạo lý “Ăn quả nhớ người trồng cây”, các Vua Hùng, vợ con vua và các tướng lĩnh thời Hùng Vương luôn được nhân dân các làng xã trên phạm vi cả nước tôn thờ.

Từ giữa thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVII, cả nước có 73 làng xã thờ Vua Hùng. Hiện nay có 1417 di tích thờ Hùng Vương và các nhân vật có liên quan đến thời đại Hùng Vương, phân bổ ở hầu hết các tỉnh thành  trong cả nước. Riêng tỉnh Phú Thọ có 345 di tích thờ Vua Hùng và các nhân vật, vị thần, những người có công với nước thời đại Hùng Vương.

Thời Lê (thế kỷ XV – XVII) lễ Giỗ Tổ Hùng Vương diễn ra trong ba ngày (từ mùng 9 đến 11 tháng 3 Âm lịch). Diễn trường của lễ hội bao gồm từ đình làng Cổ Tích  đến núi Hùng. Vua Lê Hiển Tông (1715 – 1786) khi về thắp hương tưởng niệm các Vua Hùng đã có thơ đề vịnh tại Đền Hùng: “Quốc tịch Văn Lang cổ/Vương thư Việt sử tiên/Hiển thừa thập bát đại/Hình thắng nhất tam xuyên/Cựu trưng cao phong bán/Sùng từ tuấn lĩnh biên/Phương dân ngung trắc dáng/Hương hỏa đáo kim truyền”.

Thế kỷ thứ XVII – XVIII do sự phát triển của dân địa phương các làng mới lập là làng Vi, làng Trẹo vốn gốc từ dân làng Cổ Tích, theo truyền thống văn hóa tín ngưỡng cùng làm lễ mở cửa đền vào ngày 10-3 (Âm lịch) hàng năm, lễ hội đã mở rộng trong cả một vùng rộng lớn với nhiều làng xã tham gia. Lễ hội Đền Hùng lúc đầu chỉ ở một làng, một vài làng rồi lan ra một vùng và lan rộng trong toàn quốc trở thành nghi lễ mang tính quốc gia.

Đây cũng là điểm độc đáo, khác biệt của văn hóa tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam với tục thờ cúng tổ tiên ở các nước khác như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc… Giỗ Tổ ở các nước trên là sự độc quyền của Hoàng tộc, giới thượng lưu và giới tăng lữ, nếu của dân chúng thì chỉ tiến hành trong phạm vi một địa phương, còn Giỗ Tổ ở Việt Nam là của toàn dân tộc.

Thời kỳ nhà Nguyễn, theo lệ cứ 5 năm (vào những năm chẵn 5, chẵn 10), nhà nước đứng ra tổ chức lễ hội Giỗ Tổ, những năm lẻ do địa phương đăng cai tổ chức. Diễn trường trung tâm của lễ hội là núi Hùng và xung quanh chân núi Hùng. Tới năm 1917, quan tuần phủ Phú Thọ Lê Trung Ngọc trình Bộ lễ ấn định ngày Quốc lễ vào ngày mùng 10 tháng 3 (Âm lịch, trước ngày húy của Vua Hùng một ngày, ngày 11 tháng 3) để dân sở tại làm lễ. Thời gian tổ chức lễ hội thường bắt đầu từ ngày mùng 8 đến ngày mùng 10 tháng 3 (Âm lịch).

Tiết trời tháng 3 mùa xuân, thời tiết rất đẹp, trước hội bao giờ cũng có những trận mưa rào đầu hạ có ý nghĩa như là “tráng đền”, rửa sạch đền trước khi vào hội. Những trận mưa ấy có tác dụng làm cho cây rừng Đền Hùng đã xanh lại càng xanh hơn, không khí trong lành, mát mẻ, dễ chịu khiến du khách đi dự lễ hội cảm thấy mình được trở về thuở hoang sơ mở nước.

Các thủ tục hành lễ được tuân theo quy định rất chặt chẽ. Phần lễ được diễn ra trang nghiêm, trọng thể tại các đền và chùa Thiên Quang trên núi Nghĩa Lĩnh. Phần hội được tổ chức trong một không gian rộng khoảng vài km2 với nhiều trò chơi dân gian phong phú và hấp dẫn, tạo ra cho lễ hội không khí tấp nập, náo nhiệt. Vào ngày Giỗ Tổ, “những người dân ở các làng xung quanh trong trang phục lộng lẫy thi kiệu, thi làm lễ vật, chọn ra chiếc kiệu đẹp nhất và lễ vật ngon nhất cùng chiêng, trống, nghi trượng rước lên đền Hùng để thờ cúng Ngài. Cộng đồng làm lễ vật là những đặc sản từ gạo như bánh chưng, bánh giầy, và diễn xướng dân gian như đánh trống đồng, hát xoan, cầu cúng. Việc thờ vọng Hùng Vương ở các nơi thờ tự trong nước suốt năm”.

Còn các kiệu của các làng xã khác đoạt giải thấp hơn thì rước xung quanh để mọi người chiêm ngưỡng và tạo không khí trang nghiêm cho lễ hội. Ngoài ra, nhiều trò diễn, các trò chơi dân gian như: Đánh trống đồng, hát Xoan, hát Ghẹo, đâm đuống, rước lúa thần, đấu vật, chọi gà, kéo lửa thổi cơm thi, đánh cờ người… khiến cho không khí ngày hội thêm tưng bừng, phấn khởi. Bên cạnh đó, những hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao hiện đại cũng được tổ chức để phục vụ đồng bào cả nước về dự lễ hội, tạo nên màu sắc của lễ hội càng thêm vui tươi, rực rỡ.

Hằng năm, đồng bào ta trên mọi miền Tổ quốc và kiều bào ta ở nước ngoài, hàng chục triệu người hội tụ về Đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh thuộc thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ “để tưởng nhớ tổ tiên và cầu mong mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu, cầu may mắn, sức khỏe”.  

Hai năm qua do đại dịch Covid -19, để đảm bảo an toàn cho nhân dân, tỉnh Phú Thọ chỉ tổ chức phần lễ, không tổ chức phần hội nên hạn chế nhiều số người về dự lễ hội Đền Hùng.

Cùng với giá trị lịch sử, lòng yêu nước, giá trị văn hóa tâm linh…, “Truyền thống tôn thờ Hùng Vương là dịp để hiểu biết về cội nguồn dân tộc, giá trị đạo đức và bản sắc văn hóa Việt Nam… đây là một thực hành thể hiện lòng tri ân tổ tiên nhằm nâng cao niềm tự hào và cố kết xã hội”.

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương có vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người Việt. Với những giá trị đặc trưng và lớn lao, ngày 6-12-2012, “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ” đã được UNESCO vinh danh là “Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại”.

Nguồn: Báo QĐND

Tín ngưỡng thờ cúng các Vua Hùng như một điểm tựa tâm linh vững chắc, cố kết tinh thần dân tộc Việt

                                                                     Phát biểu của Chủ tịch nước NGUYỄN XUÂN PHÚC

Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước,

Thưa các vị đại biểu, khách quý,

Thưa toàn thể đồng chí, đồng bào.

Hôm nay, trong tiết Thanh minh ấm áp đầu xuân năm mới Nhâm Dần, hòa trong không khí cả nước đang hướng tới ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 10-3, tôi cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và toàn thể khách quý vui mừng đến dự Lễ khánh thành công trình Đền thờ Vua Hùng TP Cần Thơ và xin gửi đến các vị đại biểu cùng toàn thể đồng bào, đồng chí lời thăm hỏi thân ái và tình cảm nồng nhiệt nhất.

Trong không khí trang nghiêm, thành kính của buổi lễ hôm nay, chúng ta nhớ lời của các bậc tiền nhân: “Con người có tổ, có tông/ Như cây có cội, như sông có nguồn”. Bao đời nay, từ trong tâm thức của mỗi người dân Việt đã coi các Vua Hùng là Quốc Tổ có công dựng nên nhà nước đầu tiên của đất nước Việt Nam và là tổ tiên chung của cả dân tộc. Đó là một giá trị truyền thống riêng có của nước Việt ta.


Có thể nói, tín ngưỡng thờ cúng các Vua Hùng đã trở thành bản sắc văn hóa sâu sắc, đạo lý truyền thống bền vững nối tiếp qua nhiều thế hệ người Việt ta; là sự thể hiện lòng thành kính, biết ơn của các thế hệ con cháu với công đức của tổ tiên trong dựng nước và giữ nước. Đồng thời, đây là hoạt động tâm linh, cầu mong Quốc Tổ phù hộ cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, đất nước yên vui, thanh bình, thịnh vượng và mang ý nghĩa sâu xa về sự gắn kết, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau của cộng đồng dân tộc Việt, những người có chung một cội, cùng chung một nguồn.

Trải qua biết bao thăng trầm trong lịch sử dân tộc hàng nghìn năm, tín ngưỡng thờ cúng các Vua Hùng vẫn được bền bỉ trao truyền, vun đắp qua bao thế hệ, như một điểm tựa tâm linh vững chắc, cố kết tinh thần dân tộc Việt, là nguồn gốc tạo nên sức mạnh để dân tộc ta luôn đoàn kết vượt qua mọi khó khăn, thử thách, độc lập, trường tồn với “sông núi nước Nam, vua Nam ở” và gìn giữ thái bình, không ngừng mở mang, hợp tác phát triển. Tại Giỗ Tổ Hùng Vương năm 1946, sau khi nước ta mới giành được độc lập, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã thay mặt Chính phủ tế lễ, dâng tấm bản đồ Tổ quốc Việt Nam để cáo với tổ tiên về ý chí quyết giữ trọn vẹn non sông.

Từ bao đời nay, Đền Hùng tại núi Nghĩa Lĩnh, tỉnh Phú Thọ là nơi thực hành các nghi lễ trang nghiêm thờ cúng các Vua Hùng. Ngoài ra còn có hàng trăm đình, đền, miếu... nơi người dân thành kính thờ cúng các Vua Hùng và các tướng lĩnh ở Phú Thọ và nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước. Đặc biệt là cộng đồng người Việt ta ở nhiều nước trên thế giới cũng luôn luôn thành kính thờ cúng Quốc Tổ như một gắn kết thiêng liêng với tổ tông, với quê hương. Tiếp nối truyền thống tốt đẹp, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tôn tạo không gian thờ cúng trang nghiêm; đưa truyền thuyết Hùng Vương vào chương trình giảng dạy thế hệ trẻ; tiếp nối Sắc lệnh tháng 2-1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, coi ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch hằng năm là Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, để mọi người dân "Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng 10 tháng 3" và cùng thành tâm hướng về cội nguồn của dân tộc.

Vươn xa đi khắp năm châu, cách đây 10 năm, năm 2012, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã ghi danh tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại; trở thành niềm tự hào của cả quốc gia, dân tộc, của mỗi người con mang dòng máu Lạc Hồng.  

Thưa các vị đại biểu, khách quý,

Thưa toàn thể đồng bào, đồng chí,

Tục lệ thờ cúng Vua Hùng luôn được con cháu người Việt giữ gìn và thành kính, tôn nghiêm. Thấu hiểu, trân trọng nguyện vọng, tình cảm và lòng mong mỏi thiết tha của Đảng bộ, nhân dân TP Cần Thơ và đồng bào vùng Đồng bằng sông Cửu Long, lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã thống nhất chủ trương xây dựng Đền thờ Vua Hùng TP Cần Thơ. Sau hơn hai năm nỗ lực với tinh thần trách nhiệm cao, hôm nay, chúng ta vui mừng khánh thành công trình Đền thờ Hùng Vương TP Cần Thơ. Đây là điểm hội tụ tâm linh tại vùng đất phương Nam, vùng đất chín rồng anh dũng quật cường.

Tôi tin rằng, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân TP Cần Thơ tiếp tục kế thừa phát huy truyền thống cách mạng, bản lĩnh kiên cường, đoàn kết, năng động, sáng tạo, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII và Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ TP Cần Thơ lần thứ XIV, cùng cả nước thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, hiện đại hóa đất nước; đồng thời đưa TP Cần Thơ sớm trở thành thành phố sinh thái, văn minh, hiện đại, mang đậm bản sắc hào sảng, nghĩa tình miền sông nước Cửu Long...

Cùng với vinh dự là nơi đặt Đền thờ Hùng Vương tại TP Cần Thơ, tôi đề nghị thành phố làm tốt việc quản lý, giữ gìn và phát huy công trình này một cách hiệu quả, thiết thực. Công trình Đền thờ Vua Hùng tại vùng đất phương Nam này sẽ là một điểm kết nối linh thiêng với Đền Hùng đất Bắc, như mạch nguồn Nam-Bắc một nhà và trở thành điểm nhấn trung tâm tại khu vực, lan tỏa kết nối với mạng lưới các di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh, phục vụ du khách tham quan, chiêm bái, tưởng niệm.

Chúng ta xây dựng Đền thờ Vua Hùng tại nơi đây không chỉ là tôn vinh Quốc Tổ, nhắc nhở đạo lý "uống nước nhớ nguồn" mà còn khẳng định nền độc lập, tự cường, tự chủ toàn diện của dân tộc ta. Điều này càng có ý nghĩa trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế sâu rộng đi cùng với yêu cầu đặt ra là hội nhập mà không hòa tan.

Trong không khí kính lễ trang nghiêm hôm nay, trước anh linh các Vua Hùng, chúng ta hãy cùng nhau kết đoàn, nối nghiệp các bậc tiên tổ, như lời Bác Hồ dạy: "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Lời dạy thiêng liêng của Bác không chỉ là lời căn dặn về quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc mà với Đồng bằng sông Cửu Long, chúng ta còn có thêm sứ mệnh gìn giữ vùng đất màu mỡ trước các tác động của thiên tai, biến đổi khí hậu khắc nghiệt.

Với việc "phải cùng nhau giữ lấy nước" cũng chính là đoàn kết quyết tâm thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 vừa được đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ngày 2-4-2022.

Một lần nữa, tôi xin kính chúc các vị đại biểu, các vị khách quý cùng toàn thể đồng bào, đồng chí mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công!

Xin trân trọng cảm ơn!

Nguồn: Báo QĐND


Quyết tâm mạnh mẽ của Việt Nam trong thúc đẩy bình đẳng giới


Với nỗ lực của cả hệ thống chính trị, sau 10 năm triển khai Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới, Việt Nam đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, góp phần thu hẹp khoảng cách giới trong các lĩnh vực, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

 Theo một báo cáo mới đây của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, trong 10 năm qua, việc thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới tại Việt Nam đã được triển khai khá đồng bộ, tạo sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của các cấp ủy đảng, chính quyền, trong đội ngũ cán bộ, công chức và nhân dân về thực hiện bình đẳng giới.

Cùng với đó, hệ thống văn bản pháp luật, chính sách từng bước được hoàn thiện theo hướng bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Việc lồng ghép giới trong xây dựng và thực hiện các chính sách, pháp luật, chương trình, kế hoạch, đề án... đã được các cấp, ngành quan tâm, góp phần rút ngắn khoảng cách giới, nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội, đồng thời tạo điều kiện để phụ nữ và nam giới tham gia, thụ hưởng bình đẳng vào các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế-xã hội.

Đặc biệt, kết quả triển khai thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới trong các lĩnh vực đã có những tiến bộ rõ nét. Trong giai đoạn này, lần đầu tiên phụ nữ tham gia một số vị trí quan trọng trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước và các cơ quan lập pháp. Đặc biệt, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 đã được tổ chức thành công tốt đẹp với tỷ lệ 30,26% nữ đại biểu Quốc hội (tỷ lệ cao nhất kể từ khóa V tới nay) và gần 30% nữ tham gia hội đồng nhân dân các cấp. Phụ nữ tham gia cũng ngày càng nhiều hơn vào các hoạt động kinh tế và có nhiều cơ hội để có việc làm tốt, mang lại thu nhập cao hơn. Điều này góp phần quan trọng giúp Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế vào loại cao nhất thế giới trong thập kỷ qua, bất chấp những biến động kinh tế-chính trị của khu vực và thế giới.

Ngoài ra, một số chỉ số phát triển được cải thiện đã đưa Việt Nam lên các bậc xếp hạng cao hơn và được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về những nỗ lực trong thực hiện bình đẳng giới. Theo Báo cáo phát triển con người năm 2020, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đang ở mức 0,704, xếp thứ 117/189 quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc nhóm các nước có HDI ở mức cao. Với chỉ số phát triển giới ở mức 0,997, Việt Nam cũng xếp thứ 65 trong số 162 quốc gia và thuộc nhóm cao nhất trong số 5 nhóm trên thế giới. Đặc biệt, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội Việt Nam nằm trong nhóm cao nhất trong 3 nhóm trên toàn cầu...

Có thể nói, những nỗ lực và kết quả này là minh chứng cho quyết tâm mạnh mẽ của Việt Nam trong thúc đẩy bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ với một chiến lược rõ ràng, phù hợp với thực tiễn quốc gia.

Dĩ nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số khó khăn, thách thức và hạn chế trong việc thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam. Chẳng hạn, phụ nữ vẫn chưa được tiếp cận và tham gia đầy đủ trong phần lớn công việc thuộc lĩnh vực công nghệ, phản ánh sự bất bình đẳng trong các lựa chọn và nghề nghiệp về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học. Mặt khác, công nghệ tự động hóa làm tăng hiệu quả sản xuất nhưng cũng giảm vị trí việc làm, trong đó phần nhiều do phụ nữ đảm nhận.

Báo cáo của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cũng nêu một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm nhằm thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam thời gian tới như: Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, trách nhiệm quản lý của chính quyền các cấp trong việc nâng cao nhận thức, triển khai thực hiện và hoàn thiện thể chế về bình đẳng giới; tăng cường năng lực bộ máy quản lý nhà nước về bình đẳng giới các cấp; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra liên ngành việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới; xây dựng cơ sở dữ liệu thống kê về giới của quốc gia. Bên cạnh đó cần chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế trong thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới; tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật, tài chính, chuyên môn của các nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài trong lĩnh vực này...

Một nhiệm vụ không kém phần quan trọng khác đó là phải tiếp tục tăng cường tuyên truyền về luật pháp, chính sách và những thành tựu, kết quả về bình đẳng giới của Việt Nam cho các đối tác quốc tế; đồng thời tích cực đấu tranh, phản bác những thông tin sai lệch về bình đẳng giới và các chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Nguồn: báo QĐND

Ngày 7-4-1965: Bác căn dặn "Phải coi nhân tố con người là vấn đề số một"

Ngày 7-4-1949, Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh thành lập bộ đội địa phương. Với sắc lệnh này, các đội du kích tập trung được phát triển thành các trung đội, đại đội bộ đội địa phương huyện và các tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh. Bộ đội địa phương là những đơn vị Vệ quốc đoàn do Đảng bộ địa phương lãnh đạo, có nhiệm vụ bảo vệ nhân dân và chính quyền địa phương, phát triển chiến tranh du kích, chống địch càn quét, dìu dắt dân quân, du kích xã, chuẩn bị chiến trường cho bộ đội chủ lực và phối hợp tác chiến với bộ đội chủ lực, bổ sung cho bộ đội chủ lực.

Ngày 7-4-1803, Ngô Thì Nhậm từ trần. Ngô Thì Nhậm sinh nǎm 1746 tại làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ông đỗ tiến sĩ nhưng thất vọng vì chế độ Lê - Trịnh suy mạt. Đến với Nguyễn Huệ, ông hiến diệu kế "rút quân về Tam Điệp", góp phần đại thắng quân Thanh mùa Xuân nǎm Kỷ Dậu 1789. Ngô Thì Nhậm còn là cây bút tiêu biểu của Ngô Gia vǎn phái và là một nhà ngoại giao tài giỏi thời Tây Sơn. Ông đã được vua Quang Trung giao nhiệm vụ đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa.

Ngày 7-4-1907: Ngày sinh đồng chí Lê Duẩn. Đồng chí sinh ở xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Đồng chí qua đời ngày 10-7-1986 tại Hà Nội. Đồng chí vào Đảng Cộng sản Đông Dương từ nǎm 1930. Trong gần 60 nǎm hoạt động cách mạng, đồng chí giữ nhiều chức vụ quan trọng: Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, Bí thư Trung ương Cục miền Nam, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Là nhà lãnh đạo lỗi lạc, nhà lý luận sáng tạo, đồng chí Lê Duẩn có nhiều cống hiến to lớn cho cách mạng Việt Nam.

Ngày 7-4-1971: Trước áp lực của quần chúng và do chịu thêm nhiều thất bại quân sự, Tổng thống Hoa Kỳ R.Nixon tuyên bố sẽ rút một đợt 10.000 binh lính Mỹ khỏi Việt Nam. Ngay sau đó, cuộc biểu tình quần chúng Mỹ đã nổ ra ở thủ đô Washington với quy mô chưa từng có đòi chấm dứt ngay chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và trên bán đảo Đông Dương.

Tổ chức Y tế thế giới (WHO), là một cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc, đóng vai trò điều hòa các hoạt động y tế và chăm lo sức khỏe cho con người trên phạm vi toàn thế giới; hợp tác với các cơ quan của Liên hợp quốc và các chính phủ nhằm tìm cách nâng cao sự hiểu biết trong lĩnh vực y tế, giúp đỡ kỹ thuật cho các nước trong việc bảo vệ sức khỏe con người. 

Ngày 7-4-1921, trên tờ La Revue Communiste (Tạp chí Cộng sản), Nguyễn Ái Quốc đã thẳng thắn phê bình một số đảng cộng sản ở các “cường quốc thực dân” chưa quan tâm nghiên cứu đến vấn đề cách mạng ở các thuộc địa một cách nghiêm túc. Về Đông Dương, bài báo viết: “Đông Dương gồm hai mươi triệu người bị bóc lột, hiện nay đã chín muồi cho một cuộc cách mạng là sai, nhưng nói rằng Đông Dương không muốn cách mạng và bằng lòng với chế độ bây giờ như các ông chủ của chúng ta thường vẫn nghĩ như thế, thì lại càng sai hơn nữa”. 

Ngày 7-4-1947, Bác Hồ viết thư gửi ông Hoàng Hữu Nam (tức Phan Bùi là Thứ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ liên hiệp kháng chiến) nhắc nhở phải thúc đẩy việc di chuyển các bộ rời khỏi các khu vực nguy hiểm. Bác căn dặn: Phải động viên các vị bộ trưởng hiểu, chịu khó mấy hôm mà an toàn hơn là cầu yên và nước đến chân mới nhảy và dặn họ giải thích với gia quyến họ... Phải cử người thạo việc đi theo để lúc gặp việc khó khăn biết cách giải quyết và biết nâng đỡ tinh thần của đàn bà, trẻ con. Phải làm cho mọi người ý thức rằng, cuộc kháng chiến là gian khổ và trường kỳ.

Ngày 7-4-1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh tham dự họp Bộ Chính trị nghe báo cáo về tình hình chiến sự trên cả nước và một số vấn đề về ngoại giao. Bác lưu ý, việc tăng cường công tác vận động ngoại giao nhân dân, cần tuyên truyền về Tòa án xét xử tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam do Huân tước và triết gia nổi tiếng người Anh Bectơran Rytxen (Bertrand Roussell - năm đó đã 94 tuổi), một người có cảm tình đặc biệt đối với nhân dân ta, đề xướng để tranh thủ dư luận quốc tế.

Ngày 7-4-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời các vị trong Bộ Chính trị đến họp tại nhà sàn trong Phủ Chủ tịch và ở lại dùng bữa với Bác. Đây là lần họp cuối cùng của Bộ Chính trị diễn ra khi có Bác.

Ngày 7-4-1965, với bút danh là Lê Nông, trên Báo Nhân Dân, Bác viết bài “Chúng ta rất có thể đạt hơn 5 tấn thóc cả năm/một héc-ta” để biểu dương một số hợp tác xã đã đạt chỉ tiêu này và khẳng định có thể đạt năng suất cao hơn nữa nếu quan tâm đến việc cải tiến khoa học - kỹ thuật, thực hành cần kiệm xây dựng và tự lực cánh sinh, chi bộ lãnh đạo chặt chẽ, đảng viên gương mẫu xung phong, xã viên đoàn kết nhất trí. “Phải coi nhân tố con người là vấn đề số một”.

Tôn trọng và phát huy sức mạnh của nhân tố con người với tư cách là chủ thể sáng tạo của lịch sử luôn là bài học kinh nghiệm thực tiễn phong phú mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng ta. Bác luôn coi trọng việc giáo dục về chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, về đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đây là nguồn sức mạnh tinh thần, vật chất to lớn để giành được những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tư tưởng quân sự của Bác với triết lý “người trước, súng sau” đã xây dựng được đội ngũ cán bộ, chiến sĩ quân đội có bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, kiên quyết và bền bỉ, thắng không kiêu, bại không nản, dù gian lao khổ hạnh cũng không sờn lòng, vào sống ra chết cũng không nản chí, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.

Để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng, Nhà nước chủ trương xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Bên cạnh việc đầu tư mới vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng luôn đặt lên hàng đầu việc xây dựng nhân tố con người, coi đây là khâu then chốt, có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân đội ta.

Trên trang nhất Báo Quân đội nhân dân số 564, ngày 7-4-1959 có đăng hình ảnh Hồ Chủ tịch đến thăm triển lãm thành tích và sáng kiến hậu cần của các đơn vị quân đội, các cơ sở và các ngành thuộc Tổng cục Hậu cần. Hồ Chủ tịch đã tỏ lời khen anh em có nhiều cố gắng và căn dặn cần chú trọng nghiên cứu để cải tiến hơn nữa những sáng chế phát minh đó, và có kế hoạch phổ biến một cách rộng rãi hơn.

Trên trang 2 Báo Quân đội nhân dân số 10369, ngày 7-4-1990 đăng bài “Vai trò Hồ Chí Minh trong lịch sử tiến bộ của phụ nữ” của bà Giô-dê-phin Xtên-sơn, người Mỹ tại Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nguồn: Báo QĐND

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...