Thứ Tư, 17 tháng 8, 2022

Bộ mặt thật của kẻ lưu vong

 Xuất hiện trên trang mạng Doithoaionline.com, Mạc Văn Trang có bài viết: “Gương mặt chủ nghĩa xã hội của Việt Nam?”. Nội dung bài viết cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội biến dạng khiến công nhân bị bóc lột, đời sống thiếu thốn, nông dân khốn khổ trăm bề…”. Đây là luận điệu phi lý, không có cơ sở khoa học và thực tiễn, cần nhận diện, đấu tranh, phản bác.

Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là chế độ xã hội ưu việt, vì nhân dân. Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định sự nhất quán, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là đem lại tự do hạnh phúc của nhân dân. Thực tiễn hơn 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đập tan ách thống trị của thực dân, đế quốc, đưa dân tộc Việt nam bước sang kỷ nguyên mới: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước. Qua hơn 35 năm đổi mới, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, ổn định chính trị - xã hội, quốc phòng an ninh được tăng cường, môi trường hòa bình ổn định, văn hóa - xã hội phát triển vượt bậc, an sinh xã hội được cải thiện. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Sức mạnh mọi mặt của đất nước được nâng lên, quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Từ những vấn đề trên cho thấy Mạc Văn Trang là kẻ có dã tâm thâm độc, cố tình xuyên tạc sự thật. Chúng ta cần hết sức cảnh giác, cần tỉnh táo, kiên quyết đấu tranh, bác bỏ những âm mưu, thủ đoạn phản động đó.

Việt Nam luôn luôn tích cực, chủ động nỗ lực phòng, chống mua bán người

Vẫn như hằng năm, Hoa Kỳ tự xem mình là “chuẩn mực về nhân quyền” tự cho mình quyền đưa ra các phán xét về chính trị, kinh tế-xã hội các quốc gia, đặc biệt là chủ đề nhân quyền.

Báo cáo năm 2022 về tình hình mua bán người trên thế giới của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (viết tắt là Báo cáo) đã xuất hiện những thông tin, những nhận định không xác thực, không phản ánh đầy đủ, chính xác về tình hình và nỗ lực của Việt Nam trong công tác phòng, chống mua bán người. Đó là các thông tin, nhận định liên quan tới tình hình lao động cưỡng bức đối với trẻ em, các vụ buôn bán phụ nữ, trẻ em, việc người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài...

Trước hết xin được khẳng định rằng: Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm mọi hành vi ngược đãi, mua bán người, bắt người làm nô lệ. Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ: Từ Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 đến 2013 đều có các quy định về quyền công dân và quyền con người được Nhà nước bảo hộ. Hiến pháp năm 2013 đã giành cả Chương II để quy định về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Trong đó có quy định rõ việc bảo đảm quyền con người, bảo đảm quyền công dân như: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm (Điều 20). Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu (Điều 35). Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em (Điều 37).

Để có căn cứ pháp lý cụ thể nhằm ngăn chặn, xử lý hành vi mua bán người, Việt Nam đã có Luật Phòng, chống mua bán người. Điều 3 Luật phòng, chống mua bán người quy định “Các hành vi bị nghiêm cấm” bao gồm: Mua bán người; chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; môi giới để người khác thực hiện mua bán người; cản trở việc tố giác, khai báo và xử lý hành vi mua bán người; kỳ thị, phân biệt đối xử với nạn nhân...

Điều 4 về nguyên tắc phòng, chống mua bán người của Luật Phòng, chống mua bán người quy định rõ: Thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý hành vi mua bán người. Giải cứu, bảo vệ, tiếp nhận, xác minh, hỗ trợ nạn nhân kịp thời, chính xác. Tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp và không kỳ thị, phân biệt đối xử đối với nạn nhân. Ngăn chặn, phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời, chính xác hành vi mua bán người...

Nhà nước ta đã xây dựng và triển khai nhiều chính sách phòng, chống mua bán người. Công tác phòng, chống mua bán người là nội dung của chương trình phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và được kết hợp với việc thực hiện các chương trình khác về phát triển kinh tế-xã hội. Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia, hợp tác, tài trợ cho hoạt động phòng, chống mua bán người và hỗ trợ nạn nhân; khuyến khích cá nhân, tổ chức trong nước thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân theo quy định của pháp luật.

Nhà nước khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong công tác phòng, chống mua bán người; bảo đảm chế độ, chính sách đối với người tham gia phòng, chống mua bán người bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản theo quy định của pháp luật. Hằng năm, Nhà nước bố trí ngân sách cho công tác phòng, chống mua bán người.

Trên bình diện quốc tế, Việt Nam là thành viên Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia; Công ước ASEAN về phòng, chống mua bán người; tham gia Nghị định thư về ngăn ngừa, phòng, chống và trừng trị việc mua bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung cho Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Cùng với đó, Việt Nam tiếp tục triển khai có hiệu quả các hiệp định hợp tác với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới về phòng, chống mua bán người; tiếp tục nỗ lực triển khai thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự (GCM) nhằm củng cố môi trường di cư minh bạch, ngăn chặn nguy cơ mua bán người trong các hoạt động di cư quốc tế.

Triển khai Chương trình phòng, chống mua bán người giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030, thời gian qua, Việt Nam đã và đang đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phòng, chống mua bán người với sự vào cuộc và tập trung cao độ của tất cả các bộ, ngành và địa phương. Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi), các văn bản chính sách, pháp luật về phòng ngừa mua bán người, lao động cưỡng bức, hỗ trợ nạn nhân bị mua bán, bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng đã được ban hành. Ngày 18-7 vừa qua, các bộ: Lao động-Thương binh và Xã hội, Công an, Quốc phòng và Ngoại giao cũng đã ký Quy chế phối hợp trong công tác tiếp nhận, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán.

Lực lượng chức năng của Việt Nam và các nước, nhất là các nước láng giềng thường xuyên phối hợp tổ chức các đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm mua bán người. Trong 6 tháng đầu năm 2022, khắc phục những khó khăn do đại dịch Covid-19, các lực lượng chức năng của Việt Nam đã phát hiện, điều tra, khám phá 33 vụ, với 75 đối tượng phạm tội mua bán người và các tội phạm có liên quan đến mua bán người; đã kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ sang Viện Kiểm sát nhân dân đề nghị truy tố 17 vụ; 66 nạn nhân từ các vụ mua bán đã được tiếp nhận, xác minh, giải cứu, hỗ trợ...

Nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ, nhân viên làm nhiệm vụ về phòng, chống mua bán người, Việt Nam chú trọng đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng. Hàng trăm cán bộ của Việt Nam đã được bố trí tham gia các cuộc hội thảo, các lớp tập huấn chuyên đề, chuyên sâu về pháp luật và nghiệp vụ công tác phòng ngừa, phát hiện, xử lý tội phạm mua bán người và bảo vệ nạn nhân bị mua bán...

Trong Báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ có những thông tin, đánh giá không chính xác về việc xuất khẩu lao động của Việt Nam. Có thể thấy rằng, pháp luật, chính sách của Nhà nước ta đã quan tâm, hỗ trợ cho người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Cụ thể, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi) đã xóa bỏ các khoản phí môi giới và mở rộng phạm vi bảo vệ đối với người lao động. Cùng với đó, Nhà nước có chính sách hỗ trợ học phí học nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết; tiền ăn trong thời gian thực tế học; chi phí đi lại; hỗ trợ chi phí làm thủ tục hộ chiếu, visa, khám sức khỏe... Hỗ trợ chi phí đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề (Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 9-7-2015). Đối với người lao động thuộc hộ nghèo, hộ bị thu hồi đất nông nghiệp và người lao động là người dân tộc thiểu số nếu có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài thì được vay vốn từ Ngân hàng Chính sách xã hội. Còn người lao động thuộc hộ cận nghèo, người lao động là thân nhân của người có công với cách mạng được vay vốn đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng từ Quỹ Quốc gia về việc làm với mức vay tối đa là 100%.

Không phủ nhận rằng, Việt Nam vẫn đang trong tình trạng thiếu việc làm. Xuất phát từ nhu cầu nôn nóng muốn đi tìm việc ở nước ngoài mà có những người dân đã mắc lừa các tổ chức, cá nhân làm ăn phi pháp. Thời gian qua, Nhà nước ta đã xử lý rất nghiêm các hành vi vi phạm luật liên quan đến việc đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Cụ thể, ngay trong Báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã viết: “Trong năm 2020, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã thanh tra 84 doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, xử phạt 32 doanh nghiệp do vi phạm hành chính, rút giấy phép kinh doanh do vi phạm luật về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”.

Từ những dẫn chứng nêu trên, có thể thấy rằng không ai có thể phủ nhận nỗ lực của Đảng, Nhà nước Việt Nam và những kết quả đạt được trong công tác phòng, chống mua bán người tại Việt Nam. Trong những năm qua, quan hệ ngoại giao Việt Nam-Hoa Kỳ đã phát triển vượt bậc, trở thành quan hệ đối tác toàn diện, mang lại những hiệu quả thực chất. Thiết nghĩ đã đến lúc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nên chấm dứt đưa ra những báo cáo về vấn đề nhân quyền không đúng sự thật, can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, trong đó có Việt Nam mà nên làm những việc có ích để tiếp tục phát triển quan hệ với các quốc gia, đóng góp tích cực vào hòa bình và phát triển của nhân loại.

TS CAO ĐỨC THÁI, Giảng viên cao cấp Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Nguồn: Báo QĐND

Tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ, yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới

Bảo vệ chính trị nội bộ là một trong những nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; có ý nghĩa sống còn đối với sinh mệnh của Đảng, sự sống còn của chế độ và lợi ích quốc gia-dân tộc.

Đảng ta xác định: Bảo vệ chính trị nội bộ chính là bảo vệ Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, bảo vệ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo vệ đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, bảo đảm cho cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao; thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Bảo vệ chính trị nội bộ luôn là yêu cầu khách quan, nhiệm vụ cần kíp, cấp bách hiện nay, bởi vì: (1) Bảo vệ chính trị nội bộ có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là mỗi khi cách mạng chuyển sang giai đoạn mới, Đảng ta đều đề ra chủ trương, biện pháp bảo vệ chính trị nội bộ cho phù hợp với tình hình, yêu cầu nhiệm vụ nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, Nhà nước và thành quả cách mạng; phê phán những quan điểm sai trái, thù địch, phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội. (2) Thực hiện nghiêm chế độ, thủ tục, quy định, quy chế quản lý cán bộ, đảng viên trong nội bộ, giữ gìn kỷ luật phát ngôn, bảo vệ bí mật nhà nước, bí mật nội bộ của Đảng. Đảng ta coi đây là khâu có ý nghĩa quyết định đối với việc tổ chức triển khai, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI. (3) Nghiên cứu, phát hiện và xử lý kịp thời những phần tử bất mãn, cơ hội chính trị, thoái hóa, biến chất, những đối tượng bị các tổ chức phản động móc nối, lôi kéo, mua chuộc cài cắm vào nội bộ ta. Không để sơ hở, lộ lọt, mất thông tin, bí mật quốc gia để các thế lực thù địch lợi dụng viết bài, tung tin xấu, độc, chống đối Đảng, Nhà nước và chế độ. (4) Mấu chốt của bảo vệ chính trị nội bộ là nắm chắc tình hình chính trị nội bộ của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và tổ chức đảng, giải quyết thỏa đáng những vấn đề vướng mắc, thực hiện tốt chủ trương lấy phòng ngừa, chủ động giữ vững bên trong là chính.

Đại hội XIII của Đảng đã xác định bài học kinh nghiệm về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là “làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ...”. Đồng thời, xác định “tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chú trọng nắm vấn đề chính trị hiện nay. Chủ động đấu tranh, phòng ngừa có hiệu quả với hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị, nhất là các thông tin xấu, độc trên mạng xã hội. Kiên quyết đấu tranh xử lý nghiêm những cán bộ có động cơ sai trái, tư tưởng cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, những cán bộ, đảng viên, những người lợi dụng phương tiện thông tin đại chúng, internet, mạng xã hội để xuyên tạc, kích động, gây mất đoàn kết nội bộ”.

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI xác định: Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ; các biện pháp bảo vệ bí mật, bảo đảm an ninh, an toàn hoạt động của Đảng, Nhà nước và quân đội. Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các hoạt động xâm nhập, cài cắm, móc nối, phá hoại nội bộ của các thế lực thù địch, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để xây dựng Quân đội ta tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại.

Phương châm của công tác bảo vệ chính trị nội bộ là chủ động phòng ngừa là chính, kịp thời phát hiện, xử lý dứt điểm những vi phạm của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ; thận trọng đánh giá, khách quan khi giải quyết các vấn đề chính trị nội bộ. Trong xem xét lịch sử chính trị với những vấn đề chính trị hiện nay, thì xem xét vấn đề chính trị hiện nay là chính; giữa bản thân với quan hệ gia đình thì bản thân là chính; giữa quản lý đầu vào với xử lý đầu ra thì quản lý đầu vào là chính; giữa xử lý với sử dụng thì sử dụng là chính. Qua đó, giải đáp được các câu hỏi: Hiện tại người cán bộ, đảng viên như thế nào, có đủ tiêu chí, tiêu chuẩn chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ, có đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới hay không?.

Trong thời gian qua, các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương, Quân ủy Trung ương đến tổ chức cơ sở đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; nắm chắc tình hình, rà soát, thẩm tra vấn đề lịch sử chính trị và chính trị hiện nay nên công tác bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đề bạt cán bộ, phục vụ kịp thời, hiệu quả công tác nhân sự. Kết quả nổi bật của công tác bảo vệ chính trị nội bộ là đã góp phần quan trọng khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội cũng như củng cố niềm tin của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và quân đội; cán bộ, chiến sĩ quân đội cùng toàn Đảng, toàn dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bảo vệ chính trị nội bộ vẫn còn những hạn chế nhất định cần phải tiếp tục giải quyết tốt hơn, nhất là khắc phục sự bị động, lúng túng trong rà soát, thẩm tra, xác minh, thẩm định, kết luận về tiêu chuẩn chính trị của các đối tượng; nắm và quản lý tình hình chính trị nội bộ sâu sát, kịp thời hơn. Thực hiện các quy định về bảo vệ bí mật nhà nước của một số cơ quan, đơn vị, cá nhân cần nghiêm túc hơn, không để xảy ra sơ hở, mất cảnh giác, kể cả ở cơ quan, đơn vị, vị trí trọng yếu, cơ mật. Cùng với đó, phải phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chính trị nội bộ ở một số cấp ủy, tổ chức đảng thường xuyên, chặt chẽ hơn.

Trong thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực và trong nước tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là tác động, ảnh hưởng tiêu cực của cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraine đến cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân, điều đó đặt ra nhiều vấn đề mới cho công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới. Vì vậy, cần nghiên cứu, thực hiện các yêu cầu để góp phần: (1) Hạn chế đến mức thấp nhất những tác động, ảnh hưởng tiêu cực từ tình hình thế giới, khu vực đến tâm lý, tư tưởng, tình cảm của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và một số tác động tiêu cực đến tình hình chính trị nội bộ. (2) Giải quyết kịp thời những vấn đề mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong nội bộ. (3) Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên, chiến sĩ vi phạm các tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của công tác bảo vệ chính trị nội bộ, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; củng cố và nâng cao uy tín; xây dựng niềm tin của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội.

Để làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc và triển khai đồng bộ, toàn diện các giải pháp, biện pháp cụ thể, khả thi để nâng cao hơn nữa trình độ nhận thức, hiểu biết về vị trí, vai trò, nội dung, yêu cầu, nhiệm vụ của công tác bảo vệ chính trị nội bộ cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy.

Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa công tác bảo vệ chính trị nội bộ với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu; sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Ba là, chấp hành nghiêm và thực hiện đầy đủ, hiệu quả các quy định của Đảng, Nhà nước, quân đội về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác cán bộ, nhất là các quy định về bảo mật, không để lộ, lọt, mất thông tin; không viết bài, đưa tin, phát ngôn sai quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gây dư luận xấu trong xã hội và trong quân đội; thực hiện nghiêm Quy định số 126-QĐ/TW ngày 28-2-2018 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ chính trị nội bộ; Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về quy định những điều đảng viên không được làm. Thực hiện tốt các phương châm trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ nhằm không bỏ sót những người có năng lực, trình độ trong quá trình thực hiện công tác bảo vệ chính trị nội bộ.

Bốn là, thường xuyên thực hiện tốt công tác nắm tình hình, rà soát chính trị nội bộ. Kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và có biện pháp sử dụng, quản lý cán bộ, đảng viên phù hợp đối với những trường hợp có vấn đề chính trị. Thực hiện tốt hơn nữa việc kê khai bổ sung lý lịch đảng viên, kiểm tra thẻ đảng, hộ chiếu, các giấy tờ liên quan đến cán bộ, đảng viên, chiến sĩ; kê khai các hoạt động đi ra nước ngoài, quan hệ với nước ngoài của cán bộ, đảng viên để kịp thời phát hiện vi phạm và uốn nắn.

Năm là, tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức, bố trí cán bộ làm công tác bảo vệ an ninh ở các cấp. Chủ động phối hợp với các cơ quan có liên quan trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Nâng cao hơn nữa vai trò của cơ quan, cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm làm công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Nâng cao ý thức trách nhiệm, niềm vinh dự, tự hào của cán bộ, đảng viên được bổ nhiệm, đề bạt, cử đi học, ra nước ngoài. Đồng thời, xem xét kỹ lưỡng về mặt chính trị, nhất là việc nhận xét, đánh giá bảo đảm của cơ quan bảo vệ an ninh theo phân cấp.

Bảo vệ chính trị nội bộ là nội dung hết sức quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị. Với sự quyết tâm cao, công tác bảo vệ chính trị nội bộ sẽ tiếp tục đạt được những kết quả tốt góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thiếu tướng, PGS, TS NGUYỄN BÁ DƯƠNG

Nguồn: Báo QĐND

Hàng loạt “quan chức” hầu tòa: Lỗi cơ chế hay phẩm chất?-Bài 3: Những lỗ kim đủ cho voi chui lọt

Đại án ở ngành y tế, ngoại giao chưa dừng lại; sai phạm trong quản lý đất đai, quản lý tài sản công xảy ra ở nhiều địa phương trên cả nước, điển hình là Bình Dương, Bình Thuận, Khánh Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng... đã dấy lên vấn đề: Lỗi do phẩm chất cán bộ hay do cơ chế, chính sách, luật pháp? Có thể thấy, khi cán bộ thoái hóa về phẩm chất đạo đức, lại chủ ý lợi dụng sự chưa hoàn thiện của cơ chế, kẽ hở của chính sách, pháp luật để trục lợi thì con đường từ đỉnh cao quyền lực đến "xộ khám" là tất yếu. Trong tiến trình xây dựng luật pháp và chính sách, Đảng, Nhà nước đang quyết tâm để hoàn thiện các hệ thống này.

Từ kẽ hở luật pháp về đất đai...

Trong số hàng loạt cán bộ vướng vào vòng lao lý thì số có liên quan đến sai phạm trong lĩnh vực đất đai không nhỏ. Thực tế cho thấy, khoảng 70% các vụ khiếu kiện hiện nay liên quan đến đất đai, nhiều vụ có tính chất phức tạp, kéo dài. Trong số những đơn thư khiếu kiện mà chúng tôi có điều kiện tiếp cận, phần lớn có nội dung không đồng thuận trong thu hồi, đền bù, áp giá đất giữa cơ quan nhà nước, doanh nghiệp với người bị thu hồi đất.

Luật Đất đai năm 1987 ra đời đã đóng vai trò quan trọng, thực hiện được sứ mệnh tạo ra khung khổ pháp lý hoàn thiện hơn trong lĩnh vực đất đai. Cho đến Luật Đất đai năm 2013, qua gần 9 năm thực hiện, luật đã giải quyết được nhiều tồn tại phát sinh trong thực tiễn. Tuy nhiên, trước thực tiễn thay đổi nhanh chóng, Luật Đất đai năm 2013 đã dần bộc lộ một số bất cập, trong đó có những kẽ hở, gây ra nhiều hệ lụy xã hội. Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng phát biểu: “Nhiều người giàu lên nhờ đất, nhưng cũng có không ít người nghèo đi vì đất, thậm chí bị đi tù cũng vì đất, mất cả tình nghĩa cha con, anh em, đồng chí cũng vì đất”.

Hàng loạt đại án liên quan đến đất đai ở các địa phương cho thấy lĩnh vực này đã phát hiện nhiều sai phạm, phổ biến nhất là sai phạm trong giao đất, cho thuê đất, thu hồi, đền bù đất, định giá đất, đấu giá đất dẫn đến tình trạng trục lợi về đất rất lớn. Giá đất được xác định trong các trường hợp này thường thấp hơn nhiều so với giá đất trên thị trường, một mặt gây bức xúc dư luận, mặt khác đã để những kẻ cơ hội trục lợi. Các chuyên gia cho rằng, luật pháp hiện hành đang giao cho UBND cấp tỉnh, thành phố quá nhiều quyền, trong đó có quyền quyết định giá đất. Nhiều tổ chức, cá nhân lợi dụng điều này để thâu tóm, trục lợi đất. Thế mới có chuyện, có nơi người dân bị thu hồi đất được đền bù số tiền ít ỏi nhưng lại phải bỏ ra số tiền gấp nhiều lần số tiền được đền bù trả cho doanh nghiệp để mua lại một phần diện tích đất của mình bị thu hồi trước đó. Tất nhiên, diện tích đất ấy đã được chuyển đổi mục đích sử dụng thành đất ở, đất thương mại.

Một kẽ hở khác trong luật pháp về đất đai, đó là các chế tài chưa bảo đảm cho thị trường bất động sản phát triển lành mạnh, minh bạch. Vụ việc điển hình gần đây là việc đấu giá 4 lô đất ở Thủ Thiêm (TP Hồ Chí Minh) đã cho thấy sự nguy hiểm trong lĩnh vực này. Dư luận đi từ ngỡ ngàng đến bàng hoàng khi mức trúng đấu giá của một công ty con thuộc Tập đoàn Tân Hoàng Minh lên tới 2,4 tỷ đồng/m2. Ngay sau đó, thị trường giá đất trên cả nước như "diễn xiếc", đẩy lên cao ngất ngưởng. Nhưng trớ trêu là, cuối cùng, cả 4 đơn vị trúng đấu giá này đều bỏ cọc và không nộp tiền sử dụng đất. Dư luận té ngửa khi biết rằng, luật pháp về vấn đề này chưa chặt chẽ. Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc từng phát biểu: “Có những trường hợp, vốn vay lớn gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu nhưng vẫn phát hành trái phiếu doanh nghiệp để huy động tiền, rồi lấy tiền đó đi buôn bán bất động sản. Như vụ việc đấu giá đất ở Thủ Thiêm là điển hình của việc làm nhiễu loạn thị trường". Đất đai bị đầu cơ hoặc lạm dụng sẽ ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế, gây tác hại khôn lường.

Nếu cú áp phe trong vụ đấu giá đất ở Thủ Thiêm trót lọt thì sự trục lợi của các nhóm lợi ích đã toan tính là rất lớn, sẽ lại có những tỷ phú đất mới xuất hiện. Một thực tế đáng suy nghĩ, đó là nhiều tỷ phú, triệu phú ở nước ta giàu có từ kinh doanh đất đai, bất động sản, hoặc khởi đầu từ lĩnh vực này. Sự giàu có từ buôn bán đất đai trên thực tế không tạo ra nhiều giá trị gia tăng về của cải vật chất như lĩnh vực sản xuất. Một hiện tượng bất thường trong xã hội, đó là rất nhiều người dân “chân đất” cũng đi buôn bán đất, đầu cơ đất. Thị trường mua bán đất ngầm hoạt động rầm rộ, lượng tiền giao dịch thực tế rất lớn nhưng số thuế Nhà nước thu được lại không phản ánh đúng thực tế.

Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16-6-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về "Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao" cũng chỉ ra: “Chính sách, pháp luật về đất đai còn nhiều hạn chế, bất cập, chồng chéo, thiếu thống nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý, tạo kẽ hở để không ít cá nhân, tổ chức lợi dụng, tham nhũng, trục lợi, gây thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước”. Bởi thế, việc hoàn thiện thể chế, chính sách, luật pháp trong lĩnh vực đất đai vừa cấp bách, vừa lâu dài.

Vấn đề nhức nhối trong quản lý tài sản công đã thường xuyên làm nóng các cuộc họp, trao đổi từ nghị trường cho đến bàn trà, quán cóc. Sở dĩ tài sản công rất được quan tâm bởi đó là nguồn lực quan trọng của quốc gia. Nhiều cán bộ biến chất, nhiều “nhóm lợi ích” đã tìm mọi cách để đục khoét. Vì sao một cá nhân như Phan Văn Anh Vũ (Vũ "nhôm") có thể lấy được mấy chục trụ sở nhà đất vốn thuộc các cơ quan nhà nước, ở các vị trí đắc địa? Vì sao trong vụ AVG (sai phạm ở Tổng công ty Viễn thông Mobifone), các đối tượng có thể chia chác được nhiều nghìn tỷ đồng bằng một hợp đồng “diễn xiếc” qua mặt các cơ quan chức năng có trách nhiệm thẩm định, giám sát? Vì sao sau cổ phần hóa, một số đất đai, nhà máy, xí nghiệp, tài sản của tập thể, sở hữu nhà nước trước đây đã rơi vào tay một vài cá nhân, trở thành của tư? Không chỉ vậy, có những tài sản nhà nước trong tổ chức, doanh nghiệp cũng bị rơi vào tay cá nhân, hoặc bị sử dụng lãng phí, bị thâu tóm với giá "bèo". Dư luận không khỏi xót xa với những dây chuyền mua sắm công nghệ cũ, lạc hậu của một số nhà máy đường, xi măng, nhà máy gang thép, đóng tàu... sau một thời gian ngắn đã phải "đắp chiếu".

Có thể nói rằng, cùng với Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 và các văn bản pháp luật, chúng ta đã có hệ thống pháp luật quản lý tài sản công khá đầy đủ, giúp từng bước chấn chỉnh việc quản lý không chặt chẽ tài sản công. Tuy vậy, trên thực tế, tình trạng làm sai pháp luật, lợi dụng kẽ hở để lách luật vẫn rất đáng lo ngại. Điển hình là một số lĩnh vực trong thực hiện cơ chế tự chủ đối với các đơn vị công lập; thực hiện hợp đồng BT, BOT; cơ chế quản lý, hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty, tổ chức tín dụng... Tại Hội thảo “Đổi mới quản lý tài sản công ở nước ta gắn với phòng, chống “nhóm trục lợi” được tổ chức mới đây, PGS, TS Đoàn Minh Huấn, Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản cho rằng, nhận diện "nhóm trục lợi", những lỗ hổng trong quản lý tài sản công, đúc rút bài học kinh nghiệm và kiến nghị để hoàn thiện, bổ sung chính sách... là vấn đề khó của mọi quốc gia và là vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.

 Nhiều chuyên gia trong lĩnh vực quản lý đã chỉ ra, trong quản lý tài sản công vẫn chưa rõ trách nhiệm của các chủ thể thực thi quyền tài sản công, gồm người định đoạt tài sản, người chiếm hữu, quản lý tài sản, người sử dụng tài sản. Cũng từ thực tế cho thấy, tình trạng người đứng đầu cơ quan, đơn vị không ban hành quy chế quản lý, sử dụng tài sản công để tổ chức thực hiện không hiếm. Điều này dẫn đến một số nơi tài sản công bị quản lý lỏng lẻo, không rõ trách nhiệm. Những sai phạm này không được thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát kịp thời dẫn tới hậu quả xảy ra trong thời gian dài, phức tạp, rất khó khắc phục. Ngay trong phiên chất vấn và trả lời chất vấn về công tác quản lý, khai thác, sử dụng quỹ nhà, đất thuộc quản lý nhà nước trên địa bàn TP Hà Nội diễn ra đầu tháng 7-2022, các đại biểu Hội đồng nhân dân TP Hà Nội đã chất vấn việc thành phố có 802/803 hợp đồng nhà chưa được gia hạn, chưa được ký và có sai phạm trong sử dụng nhà chuyên dùng. Đặc biệt, nợ nghĩa vụ tài chính của các tổ chức, cá nhân sử dụng nhà chuyên dùng trên địa bàn TP Hà Nội khoảng 1.200 tỷ đồng kéo dài nhiều năm và xu hướng ngày càng tăng. Đây cũng là thực trạng chung ở một số địa phương hiện nay.

 Cũng theo các chuyên gia, trong quản lý tài sản công, điều quan trọng là phải bằng mọi quy định pháp luật để từng bước loại bỏ hoàn toàn cơ chế “xin-cho”. Nếu đâu đó còn việc phân bổ nguồn lực theo cơ chế “xin-cho”, quan hệ thân hữu không dựa trên cơ chế thị trường và cạnh tranh công bằng thì nơi đó chắc chắn hình thành “nhóm lợi ích”, “nhóm trục lợi”. Loại bỏ dứt điểm cơ chế "xin-cho" phải bằng chế tài pháp luật chặt chẽ chứ không thể dùng mệnh lệnh hành chính. Để phòng, chống tham nhũng hiệu quả, nhất là lĩnh vực quản lý tài sản công, tài chính công, chúng ta nên nghiên cứu xây dựng Luật Đăng ký tài sản. Chế tài luật để xử lý hiện tượng nhiều người đang đứng tên, chiếm, sở hữu tài sản mà có thể đó là hợp pháp hay không hợp pháp, có chứng minh được nguồn gốc hợp pháp hay không. Đó cũng là chế tài để xử lý tình trạng các đối tượng tham nhũng che giấu tài sản.

Tiên và hậu đều trách... cán bộ thoái hóa

Hơn 20 năm trước đây, đăng đàn trước Quốc hội, một vị chánh án từng phát biểu gây xôn xao dư luận, nêu ra thực trạng đáng suy ngẫm, đó là tình trạng luật pháp của chúng ta tạo ra những cách hiểu khác nhau. Ông nói điều đó nhằm cảnh báo về hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh.

Luật pháp và chính sách là xương sống trong quản trị quốc gia. Đảng, Nhà nước không bao biện và luôn nhìn thẳng vào thực tế để thấy rằng, chúng ta có hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ; có rất nhiều chính sách tiến bộ, phù hợp với thực tiễn, đặc biệt những chính sách về an sinh xã hội bảo đảm tốt nhất quyền con người. Dù vậy, còn những văn bản luật, những chính sách cần nghiên cứu sâu từ thực tiễn để điều chỉnh cho phù hợp, nhất là những bộ luật, chính sách có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội như đã phân tích. Đại dịch Covid-19 đã cho chúng ta thêm góc nhìn khách quan về các chính sách ở nhiều lĩnh vực, trong đó có chính sách công. Ở những thời điểm khó khăn nhất, về cơ bản, đội ngũ ngành y vẫn quyết tâm, làm việc hết mình, sẵn sàng xả thân nơi gian khó. Nhưng sau một thời gian dài trên tuyến đầu chống dịch, chính sách tiền lương, chế độ ưu đãi với họ không phù hợp sức lao động bỏ ra đã khiến hàng nghìn nhân viên ngành y rời hệ thống y tế công lập. Không chỉ ngành y, nhiều ngành nghề đang có những bất cập giữa lương và thu nhập, giữa lao động và hưởng thụ, giữa quyền lợi và trách nhiệm.

Không thể phủ nhận, tiến trình từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật luôn được Đảng, Nhà nước ta coi trọng. Chúng ta có đủ các chế tài bao quát mọi lĩnh vực và thượng tôn pháp luật đang đóng vai trò chủ đạo trong quản lý nhà nước. Tuy vậy, cũng như bất cứ quốc gia nào, Việt Nam đang trên con đường hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, một mô hình nhà nước chưa có sẵn. Lập pháp (bao gồm cả sửa luật) phải tuân theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ và không phải bao giờ cũng dự báo được mọi tình huống xảy ra. Hơn nữa, việc này cần thực tiễn chứng minh. Bởi thế, những khoảng trống, kẽ hở, khiếm khuyết trong quá trình thực thi pháp luật là khó tránh khỏi. Yếu tố cốt lõi chúng ta đang làm là tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, quản lý kinh tế-xã hội và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; kịp thời khắc phục những bất cập, bịt kín những "khoảng trống", "kẽ hở" để "không thể tham nhũng, tiêu cực".

Có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để trả lời câu hỏi "Hàng loạt “quan chức” hầu tòa thì lỗi tại phẩm chất hay cơ chế?".

Các Mác từng luận giải một cách thuyết phục: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Luận điểm này đã trở thành nền tảng, cơ sở khoa học khi nghiên cứu, giải quyết vấn đề bản chất con người. Những quan chức, cán bộ sai phạm có cả nguyên nhân do phẩm chất đạo đức, cả nguyên nhân do kẽ hở về cơ chế, chính sách, pháp luật. Trong mối quan hệ này, lỗi do sự suy thoái phẩm chất đạo đức của cán bộ mang tính quyết định. Cơ chế, chính sách, pháp luật có lỗ hổng là điều kiện để thúc đẩy họ vi phạm. Hay có thể nói, những cán bộ này là những người cơ hội chủ nghĩa. Ở một góc nhìn khác, một phần nguyên nhân dẫn tới luật pháp, chính sách của chúng ta có những kẽ hở, còn hạn chế cũng có yếu tố do chủ quan phẩm chất đạo đức của chính đội ngũ cán bộ có trách nhiệm, nghĩa vụ xây dựng hệ thống luật pháp, chính sách đó. Luật pháp, chính sách cũng là do con người xây dựng nên. Loại bỏ yếu tố về trình độ, năng lực còn hạn chế khi xây dựng luật thì tình trạng xây dựng luật pháp, chính sách theo kiểu “cuốc giật vào lòng”, “lợi ích nhóm”, "cài cắm" lợi ích vào văn bản, lợi dụng cái hợp pháp để làm điều không hợp lý chưa thực sự chấm dứt.

Đi đôi với việc tập trung chỉ đạo công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, công tác xây dựng, hoàn thiện cơ chế, thể chế về quản lý kinh tế-xã hội và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cũng được chú trọng đẩy mạnh, từng bước hoàn thiện cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để "không thể", "không dám", "không muốn", "không cần" tham nhũng (Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (2012-2022).(còn nữa)

Nguồn: Báo QĐND

Hàng loạt “quan chức” hầu tòa: Lỗi cơ chế hay phẩm chất? Bài 2: Khi quyền lực chưa bị nhốt trong “lồng cơ chế”

Dù khẳng định việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống là nhân tố quyết định để cán bộ, đảng viên (CB, ĐV) không tham nhũng, tiêu cực (TN, TC) nhưng thực tế cho thấy, TN, TC-biểu hiện rõ nhất của sự tha hóa quyền lực cũng là yếu tố khách quan ở bất kỳ chế độ xã hội và thời đại nào.

Bởi tạo hóa sinh ra con người vốn có lòng tham và những ham muốn mang tính bản năng. Chính vì vậy, muốn ngăn chặn TN, TC thì phải có giải pháp kiểm soát quyền lực hiệu quả, nói như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là phải “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế”. Thế nhưng, dù Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều quy định để kiểm soát quyền lực song “lồng cơ chế” vẫn còn những “lỗ hổng”...

Tìm hiểu những vụ việc vi phạm pháp luật, kỷ luật của cán bộ có chức quyền trong những năm qua, nhất là những vụ án cán bộ cấp cao vi phạm pháp luật, chúng tôi nhận thấy hầu hết khi đương chức, những cán bộ này như là “vua con”. Dù họ có nhiều việc làm sai trái nhưng cấp dưới không dám ngăn cản, thậm chí buộc phải làm theo. Chẳng hạn, ông Vũ Huy Hoàng có nhiều sai phạm trong việc bổ nhiệm cán bộ khiến dư luận rất bất bình. Rồi các ông: Nguyễn Bắc Son khi làm Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, Tất Thành Cang khi làm Phó bí thư Thường trực Thành ủy TP Hồ Chí Minh, Nguyễn Đức Chung khi làm Chủ tịch UBND TP Hà Nội... cùng nhiều cán bộ cấp bộ, cấp tỉnh, cấp huyện đã ngang nhiên lạm dụng quyền lực, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ để tham nhũng, trục lợi.

Vì sao Đảng ta đã có quy định về những điều đảng viên không được làm, đã ban hành các quy chế, quy định yêu cầu các cấp ủy và CB, ĐV, nhất là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu tổ chức đảng phải gương mẫu thực hiện để chống lạm dụng quyền lực; pháp luật cũng có những quy định khá chặt chẽ để phòng, chống lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ, chống TN, TC, nhưng vẫn có nhiều CB, ĐV, công chức, nhất là cán bộ cấp cao vi phạm như vậy?

Thẳng thắn nhìn nhận chúng ta sẽ thấy, “lỗ hổng” ở đây chính là sự lạm quyền của một số cán bộ cấp cao, của người đứng đầu. Lạm quyền dẫn đến siêu quyền lực, siêu mánh lới, siêu mưu kế đen tối ở một số cán bộ, một số người đứng đầu. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến “lỗ hổng” kiểm soát quyền lực này chính là vai trò của người cầm cân nảy mực. Việc phát huy trách nhiệm, quyền hạn người đứng đầu là phù hợp với thực tế phát triển, nhưng nhiều người đứng đầu không chuẩn mực về đạo đức, tư cách, nhiều trường hợp tham lam vô độ, nịnh trên nạt dưới, tạo bè cánh bao bọc cho mình. Với cơ chế chủ yếu vẫn là xin-cho, người đứng đầu có quyền phân bổ kinh phí, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, phân công các công việc gắn liền với lợi ích cá nhân; người đứng đầu phẩm chất kém khi đã thích ai, có cảm tình với ai thì người đó được hưởng lợi (và ngược lại) thì khó ai dám trái ý "sếp" mà chủ yếu là lờ đi hoặc đồng lõa với những sai phạm của “sếp” để được lòng (đồng nghĩa với được hưởng lợi).

Thực tế cho thấy, hầu hết những sai phạm của cán bộ lãnh đạo trong những năm qua đều có sự độc đoán, chuyên quyền, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc; vi phạm các quy định trong công tác cán bộ, quản lý đầu tư, xây dựng, sử dụng đất đai, tài chính, tài sản... và cái đích cuối cùng là tham nhũng, trục lợi... Những vi phạm này, không thể nói là tất cả các thành viên cấp ủy, ban lãnh đạo và chi bộ, đồng nghiệp cùng công tác với những cán bộ đó đều “không biết”, mà nhiều người biết rõ nhưng không có ý kiến phản biện. Nhiều trường hợp tập thể phải biểu quyết theo quy định cũng chỉ là để “hợp lý hóa ý muốn của thủ trưởng”! Việc kiểm soát quyền lực thực sự rất khó ở chỗ này và vì thế, nhiều cán bộ cấp cao, người đứng đầu đã lạm quyền, bị quyền lực làm cho tha hóa, dẫn đến vi phạm pháp luật, kỷ luật.

Như đã phân tích ở trên, tha hóa quyền lực là một thực tế khách quan, việc cán bộ tha hóa, biến chất cũng không thể tuyệt đối tránh dù ở chế độ xã hội nào. Chính vì thế, cần phải có cơ chế chặt chẽ để kiểm soát quyền lực, phòng, chống cán bộ vi phạm pháp luật, kỷ luật.

Làm cho đội ngũ cán bộ, công chức “không thể, không dám, không cần, không muốn tham nhũng” là mong muốn chung của nhân loại cũng như mọi nhà nước. Nhưng để thực hiện được “không cần, không muốn tham nhũng” là vô cùng khó. Do đó, các quốc gia đều chú trọng những giải pháp kiểm soát quyền lực để quan chức “không thể, không dám tham nhũng” và Việt Nam cũng như vậy. Cùng với những quy định chặt chẽ, chế tài xử lý nghiêm khắc của pháp luật Nhà nước, kỷ luật của Đảng, chúng ta có hệ thống các cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án để bảo đảm pháp luật được thực thi nghiêm túc và hiệu quả.

Nhưng những năm qua, công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy đảng và thanh tra, kiểm tra của chính quyền dưới cấp Trung ương hầu như chỉ phát hiện được sai phạm của cán bộ cấp dưới, rất hiếm khi phát hiện ra sai phạm trong cấp ủy, chính quyền cùng cấp, nhất là sai phạm của người đứng đầu. Bên cạnh đó, khá nhiều tổ chức, cá nhân có vi phạm kéo dài nhưng qua nhiều lần kiểm tra, thanh tra vẫn không phát hiện ra vi phạm. Thời gian qua, có những người đứng đầu (thậm chí cả ban lãnh đạo) không chỉ vi phạm mà còn ngang nhiên can thiệp, chỉ đạo sai trái hoạt động thanh tra, kiểm tra, khiến cơ quan kiểm tra, thanh tra ở cùng cấp bị vô hiệu hóa. Đây là thực trạng rất đáng báo động. “Lỗ hổng” này đặt ra thách thức lớn trong việc kiểm soát quyền lực, phòng, chống TN, TC.

Chúng ta không khỏi giật mình khi ông Nguyễn Đức Chung lúc là Chủ tịch UBND TP Hà Nội đã chỉ đạo Công ty TNHH MTV thoát nước Hà Nội mua chế phẩm Redoxy-3C thông qua Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Arktic (là công ty gia đình của ông Chung) với giá cao hơn mua trực tiếp từ công ty của Đức, gây thiệt hại cho Nhà nước 36 tỷ đồng. Trước những ý kiến của dư luận, UBND TP Hà Nội ban hành quyết định thanh tra việc mua sắm, quản lý và sử dụng chế phẩm Redoxy-3C để xử lý ô nhiễm các hồ ở Hà Nội. Thực hiện quyết định này, Thanh tra TP Hà Nội đã tiến hành thanh tra và chỉ ra nhiều sai phạm. Nhưng ông Nguyễn Đức Chung lợi dụng chức vụ, nhiều lần tổ chức họp, chỉ đạo, định hướng, ép buộc Thanh tra thành phố phải kết luận là không có sai phạm, dẫn tới Chánh thanh tra TP Hà Nội phải ký quyết định thay đổi kết luận thanh tra. Sau này, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và cơ quan cảnh sát điều tra đã làm rõ sự việc.

Nguyên nhân nào khiến cơ quan hoặc cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra bị người đứng đầu hoặc ban lãnh đạo tổ chức đảng, chính quyền vô hiệu hóa, can thiệp, ép buộc phải kết luận sự việc không đúng với bản chất? Câu trả lời vẫn là do chịu chi phối về nhiều mặt, phụ thuộc vào lợi ích, tạo thành một vòng khép kín mang lại lợi ích cho nhau. Thật vô cùng khó để cơ quan, cán bộ cấp dưới dám chỉ ra vi phạm của cán bộ, cơ quan cấp trên có “quyền sinh quyền sát” hoặc có thể gây khó dễ đối với bản thân mình. Đây chính là bất cập lớn cần phải sớm tháo gỡ.

Bên cạnh đó, việc chúng ta gần như “bỏ ngỏ” trách nhiệm, chưa xử lý nghiêm khắc đối với cơ quan và cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra khi không phát hiện ra vi phạm của đối tượng được thanh tra, kiểm tra cũng là một “lỗ hổng” trong kiểm soát quyền lực, dẫn đến vụ việc TN, TC không được phát hiện, ngăn chặn từ sớm nên ngày càng “phát triển” thành vụ việc lớn hơn.

Muốn phòng, chống TN, TC hiệu quả thì phải phát huy tốt vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân, bởi không có gì mà nhân dân không biết và không có gì qua mắt được nhân dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Phải biến hàng ức, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp”.

Nhận thức rõ vấn đề này, suốt quá trình cách mạng, Đảng ta luôn quán triệt và thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”, đến Đại hội lần thứ XIII vừa qua, Đảng đã bổ sung thêm “dân thụ hưởng”. Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều quy định để phát huy vai trò của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng nói chung, trong phòng, chống TN, TC nói riêng, như: Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật Khiếu nại; Luật Tố cáo; Quy chế dân chủ ở cơ sở... Đặc biệt, ngày 3-10-2017, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Quyết định số 99-QĐ/TW về hướng dẫn tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Theo đó, các cấp ủy, tổ chức đảng phải công khai để nhân dân biết về nhiều nội dung, làm cơ sở góp ý và giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện, giữ vững lập trường tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của cấp ủy, tổ chức đảng, CB, ĐV... 

Tuy nhiên, hiện nay, việc phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân vẫn là khâu yếu, thậm chí còn tồn tại nhiều “khoảng trống” dẫn đến nhân dân rất khó thực hiện quyền kiểm tra, giám sát.

Đầu tiên, việc công khai, minh bạch là cơ sở, điều kiện để phát huy vai trò, trách nhiệm của nhân dân trong tham gia kiểm soát quyền lực, phòng, chống TN, TC, bởi nếu nhân dân không biết thì làm sao có thể kiểm tra, giám sát? Thế nhưng lâu nay, việc thực hiện các quy định về công khai, minh bạch ở nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương còn mang tính hình thức, đối phó; thậm chí, có tình trạng không thực hiện công khai và hiện tượng cố tình đóng dấu “mật” vào những tài liệu lẽ ra cần công khai. Hình thức công khai cũng chưa phù hợp, người dân khó tiếp cận, dẫn đến rất ít người biết. Đơn cử, việc công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức là biện pháp vô cùng hiệu quả để phòng, chống tham nhũng, vì quần chúng sẽ giám sát, kịp thời phát hiện những tài sản bất thường, thông báo cho các cơ quan chức năng kiểm tra xem đó có phải là từ thu nhập phi pháp hay không; nhưng hiện nay, chúng ta chưa quy định công khai rộng rãi bản kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ các cấp để đông đảo nhân dân được biết. Việc phải công khai bản kê khai tài sản, thu nhập của những người có nghĩa vụ kê khai tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó thường xuyên làm việc (và một số trường hợp khác) cũng ít đơn vị thực hiện nghiêm.

“Khoảng trống” nữa là mặc dù Hiến pháp đã quy định rõ: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền” (Điều 8) và “... Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” (Điều 28)... song hiện nay, vừa thiếu những quy định chi tiết để thực hiện, vừa chưa có chế tài thực sự hiệu quả để bắt buộc các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức thực hiện đúng trách nhiệm của mình khi nhân dân thực hiện quyền giám sát và phản ánh, kiến nghị. Thậm chí, khá nhiều người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương còn chưa chấp hành nghiêm quy định tiếp công dân; vẫn còn hiện tượng trù dập, thành kiến với người khiếu nại, tố cáo, chưa thực sự quan tâm giải quyết.

Ngay việc dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị là chủ trương nhất quán của Đảng, nhưng chúng ta cũng chưa có đầy đủ quy định để phát huy hiệu quả vai trò của nhân dân trong công tác này, đặc biệt là chưa có quy định cụ thể để nhân dân tham gia vào việc đánh giá, bổ nhiệm cán bộ và phòng, chống TN, TC trong đội ngũ CB, ĐV, dẫn đến không ít trường hợp chọn nhầm cán bộ hoặc không kịp thời phát hiện cán bộ vi phạm. Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) đã thẳng thắn nhìn nhận: “Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của CB, ĐV chưa hiệu quả”...

Thực tế cho thấy, hầu hết những trường hợp cán bộ vi phạm pháp luật thì dư luận nhân dân đều có ý kiến xì xào về phẩm chất đạo đức, lối sống, về tài sản nghi ngờ bất minh từ trước khi những cán bộ này bị cơ quan chức năng phát hiện, xử lý. Vì thế, khi cán bộ đó bị kỷ luật hoặc truy tố thì người dân ở nơi cư trú và quần chúng cùng cơ quan, đơn vị cũng không mấy bất ngờ, nhất là với những cán bộ ngang nhiên vi phạm hoặc có nhiều dấu hiệu bất thường trong suốt thời gian dài, như: Trịnh Xuân Thanh (thời kỳ công tác tại Tổng công ty Cổ phần xây lắp dầu khí Việt Nam và Bộ Công Thương), Vũ Huy Hoàng (lúc là Bộ trưởng Bộ Công Thương), Tất Thành Cang (khi là lãnh đạo các cấp ở TP Hồ Chí Minh), hay một số cựu lãnh đạo của TP Đà Nẵng, tỉnh Bình Thuận, Bộ Y tế...  

Những “lỗ hổng” trong cơ chế kiểm soát quyền lực, cùng với hệ thống pháp luật chưa thực sự chặt chẽ, nhiều kẽ hở là nguyên nhân cơ bản khiến một số cán bộ thiếu bản lĩnh đã vi phạm pháp luật, kỷ luật. Vấn đề này, chúng tôi sẽ tiếp tục đề cập ở những bài sau. (còn nữa)

Hàng loạt “quan chức” hầu tòa: Lỗi cơ chế hay phẩm chất?: Bài 4: Hoàn thiện cơ chế để hiện thực hóa “4 không”

Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (TN, TC): Phòng, chống TN, TC chính là "chống giặc nội xâm"-nhiệm vụ rất quan trọng nhưng vô cùng khó khăn, phức tạp, bởi TN, TC thường xảy ra ở cán bộ có chức, có quyền.

Nó đòi hỏi chúng ta phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục, bền bỉ ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực; thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự, với những bước đi vững chắc, tích cực, chủ động và có trọng tâm, trọng điểm. Đặc biệt, phải xây dựng cho được một cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để "không thể tham nhũng"; một cơ chế răn đe, trừng trị nghiêm khắc để "không dám tham nhũng"; và một cơ chế bảo đảm để "không cần tham nhũng, không muốn tham nhũng”. Chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp về hoàn thiện cơ chế, chính sách để bảo đảm thực hiện “4 không” này.

Trước hết, phải “tuyên chiến” với “chạy chức”

Sở dĩ trước hết phải “tuyên chiến” với “chạy chức”, vì đây vừa là biểu hiện rõ nhất của sự tha hóa quyền lực, vừa là nguyên nhân cơ bản, trực tiếp dẫn đến tha hóa quyền lực, tham nhũng, tiêu cực. Cổ nhân đã đúc rút “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”. Người không tốt mà lại làm cán bộ, nắm quyền lực trong tay thì đương nhiên sẽ dẫn đến tha hóa quyền lực. Ai đó đã phải đầu tư để “chạy chức”, “chạy quyền” thì tất yếu sẽ nghĩ cách tham nhũng, tiêu cực để ít nhất là thu hồi số tài sản đã dùng để “chạy”, rồi còn phải tìm cách “chạy” tiếp. Thật vô cùng nguy hiểm vì đối tượng “chạy chức” sẽ lại ưu ái sử dụng những người biết “dùng phong bì, đi cửa sau”. Cái vòng “chạy chọt” cứ thế tiếp diễn, khiến người thực sự có tâm, có tài không được trọng dụng. Tha hóa quyền lực nói chung và tham nhũng, tiêu cực nói riêng vì thế sẽ ngày càng nghiêm trọng, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Do đó, trước tiên phải chặn bằng được nạn “chạy chức”, “chạy quyền”, kiểu “nâng đỡ không trong sáng”.

Ngày 23-9-2019, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Quy định số 205-QĐ/TW “về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”. Mới đây, Bộ Chính trị khóa XIII tiếp tục ban hành Quy định số 69-QÐ/TW về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, trong đó có Điều 30 về kỷ luật đảng viên vi phạm liên quan đến chạy chức, chạy quyền. Theo các quy định này, đảng viên vi phạm các quy định về chống chạy chức, chạy quyền bị xử lý kỷ luật từ khiển trách đến khai trừ; nếu liên quan đến việc đưa, nhận hối lộ hoặc các hành vi vi phạm khác đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì phải chuyển hồ sơ sang cơ quan chức năng để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật; nghiêm cấm giữ lại để xử lý hành chính.

Thế nhưng, để có bằng chứng về việc đưa và nhận hối lộ nhằm “chạy chức”, “chạy quyền” là vô cùng khó vì nó diễn ra hết sức tinh vi, bí mật. Do đó, trước hết phải siết chặt quy trình, quy định về công tác tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ theo hướng: Gắn trách nhiệm cụ thể của người đề cử cán bộ và người đứng đầu cấp ủy đề nghị bổ nhiệm cán bộ. Ví dụ, nếu phát hiện cán bộ có sai phạm nghiêm trọng trước khi được đề cử và trong 5 năm đầu kể từ khi được bổ nhiệm thì người đề cử cán bộ đó và người đứng đầu cấp ủy đề nghị bổ nhiệm cán bộ đó cũng bị xem xét xử lý kỷ luật (tránh tình trạng núp bóng tập thể cấp ủy để “nâng đỡ không trong sáng”). Bên cạnh đó, cần thực hiện ngay việc công khai danh sách cán bộ từ quy hoạch đến đề bạt, bổ nhiệm, đánh giá, luân chuyển để quần chúng biết và cùng giám sát, vì “ngọn đèn công khai” càng rộng rãi thì càng ít “khoảng tối” mờ ám.

Đặc biệt, Đảng, Nhà nước phải kiên quyết đổi mới công tác đánh giá cán bộ, đảng viên (CB, ĐV), công chức, viên chức theo nguyên tắc lấy phẩm chất, tư cách và hiệu quả công việc làm thước đo chủ yếu; chuyển từ đánh giá định tính sang định lượng bằng hình thức chấm điểm trên từng nội dung, như: Bản lĩnh chính trị; phẩm chất đạo đức, lối sống; trình độ, năng lực công tác; kết quả hoàn thành nhiệm vụ theo chức trách; tinh thần đấu tranh phê bình; việc chấp hành pháp luật, kỷ luật... Chấm điểm cụ thể trên từng biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để tránh tình trạng đánh giá chung chung, cào bằng; đại đa số CB, ĐV được nhận xét hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ nhưng sau đó lại “lòi ra” vi phạm pháp luật, kỷ luật. Cần nghiên cứu ban hành cơ chế lấy phiếu tín nhiệm CB, ĐV, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý mỗi năm một lần ở trong cấp ủy, tổ chức đảng và tập thể cơ quan, đơn vị. Như vậy sẽ hạn chế được nạn “chạy chức”, “không dám chạy” vì không xứng đáng thì sẽ sớm bị loại.

Bên cạnh đó, việc tổ chức thi tuyển cán bộ cần được triển khai thống nhất theo lộ trình ở từng cấp đối với những chức vụ có thể thi tuyển. Với mỗi vị trí cán bộ cần bổ nhiệm, trên cơ sở quy hoạch cán bộ, người đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền hoặc thủ trưởng cấp trên trực tiếp giới thiệu hai ứng viên trở lên cùng trình bày chương trình hành động trong hội nghị cấp ủy và hội nghị cán bộ chủ trì trước khi bỏ phiếu tín nhiệm, đề cử để bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, đánh giá khách quan hơn. Đó là những biện pháp hiệu quả phòng ngừa nạn “chạy chức”, “nâng đỡ không trong sáng”, đồng thời tạo động lực để CB, ĐV, công chức, viên chức phấn đấu không ngừng và phòng, chống tha hóa quyền lực, tham nhũng, tiêu cực...

Một bất cập nữa cần khắc phục ngay, đó là hiện nay chưa có quy định nào về xử lý hình sự đối với hành vi liên quan đến việc thiếu trách nhiệm hay vi phạm các quy định về công tác tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ. Trong khi đó, việc lợi dụng chức vụ quyền hạn, thiếu trách nhiệm dẫn đến “bổ nhiệm nhầm cán bộ” có khi còn gây hậu quả nghiêm trọng hơn nhiều so với những thiệt hại về kinh tế, sức khỏe, môi trường... của các tội danh khác.

Thủ đoạn của những người “chạy chức”, “chạy quyền”, “nâng đỡ không trong sáng” là rất tinh vi, nguy hại khôn lường. Muốn phòng, chống tha hóa quyền lực, nhất là chống tham nhũng, tiêu cực thì trước hết phải khắc phục triệt để những hạn chế, tiêu cực trong công tác cán bộ để bảo đảm cho CB, ĐV “không thể", "không dám” tham nhũng, tiêu cực.

Đại hội XIII của Đảng xác định: Tiếp tục hoàn thiện thể chế Đảng lãnh đạo công tác cán bộ, cải cách thủ tục hành chính và đẩy mạnh phân cấp, phân quyền về công tác cán bộ. Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong từng khâu của công tác cán bộ, nhất là đối với người đứng đầu cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Giữ vững kỷ luật, kỷ cương; tăng cường kiểm tra, giám sát, chống chạy chức, chạy quyền... Kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực trong công tác cán bộ... 

Những hệ lụy từ cơ chế xin-cho quá rõ ràng và đã được bàn rất nhiều trong những năm qua, vì đây chính là nguyên nhân trực tiếp sinh ra tha hóa quyền lực, tham nhũng, tiêu cực. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng đã yêu cầu: “Các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo rà soát, hoàn thiện các quy định, văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, điều hành bảo đảm công khai, minh bạch, góp phần xóa bỏ cơ chế xin-cho; ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, "lợi ích nhóm", "sân sau”...

Theo tinh thần này, những năm qua, nước ta đã ban hành nhiều quy định về cải cách hành chính và thủ tục hành chính; yêu cầu các bộ, ngành, địa phương rà soát loại bỏ rất nhiều thủ tục hành chính, “giấy phép con” gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp... Thế nhưng cơ chế xin-cho vẫn chưa được loại bỏ và có nhiều biến tướng tinh vi hơn. Lẽ đương nhiên, đã có “xin” thì ắt có “cho” hoặc “không cho”. Những tổ chức, cá nhân được trao thẩm quyền (cũng là nghĩa vụ, trách nhiệm phải làm) “tự nhiên” được quyền ban ơn: Cho hay không cho, cho ít hay nhiều, cho sớm hay muộn... Chính điều vô lý này là nguyên nhân cơ bản, trực tiếp dẫn đến tha hóa quyền lực của không ít cán bộ, công chức mà biểu hiện rõ nhất là sự nhũng nhiễu, tiêu cực, “gây khó để có phong bì”; đồng thời làm người dân và cấp dưới lúc nào cũng có tâm lý đi “xin”, tạo thành lệ “muốn được việc thì phải biết bôi trơn”.

Cùng với đó, phải có cơ chế bắt buộc các cơ quan công quyền công khai minh bạch tất cả những thủ tục hành chính, các nguồn lực, tiêu chuẩn chế độ, kinh phí, chính sách, chương trình dự án, mức phân bổ cho các cơ quan, đơn vị, địa phương (trừ trường hợp thuộc danh mục phải giữ bí mật do Nhà nước quy định) để mọi người đều có thể giám sát, tránh tình trạng “ưu tiên, thiên vị” những tập thể, cá nhân “đi cửa sau”.

Chăm lo đời sống cán bộ thỏa đáng  

Làm cán bộ, công chức mà các khoản thu nhập chính đáng không đủ trang trải cuộc sống ở mức trung bình trở lên thì rất khó để giữ mình trong sạch, không tham nhũng, tiêu cực. Đó là thực tế cần phải được nhìn nhận thẳng thắn, nghiêm túc và sớm có giải pháp khắc phục, vì cổ nhân đã đúc rút “có thực mới vực được đạo”, “đói ăn vụng, túng làm càn”.

Thực tế là mức thu nhập chính đáng của đa số cán bộ, công chức ngày càng thấp so với mặt bằng xã hội, bởi thu nhập bình quân của người dân tăng nhanh nhưng nhiều năm rồi nước ta chưa cải cách tiền lương; tiền thưởng của cán bộ, công chức cũng rất ít so với người lao động ngoài nhà nước. Ngay cả với cán bộ cấp cao, sau nhiều năm phấn đấu và cống hiến thì lương, phụ cấp cũng chỉ trên dưới 20 triệu đồng, không bằng thu nhập của chủ một cửa hàng hoặc cơ sở sản xuất nhỏ, hay cử nhân trẻ làm việc ở doanh nghiệp tư nhân khấm khá... Trong khi đó, cán bộ càng giữ cương vị cao thì càng có nhiều mối quan hệ, riêng khoản chi việc hiếu, việc hỷ đã rất tốn kém; rồi áp lực “một người làm quan, cả họ được nhờ”, cả đại gia đình, họ hàng, dân làng, bè bạn trông chờ giúp đỡ, tài trợ... Thực tế này ai cũng biết rõ và như vậy thì không phải cán bộ nào cũng có thể giữ mình liêm chính, nhất là khi nhiều người dân, doanh nghiệp và cấp dưới tìm cách gửi “quà” để nhờ vả, mua chuộc người có chức quyền để được ưu tiên, thỏa thuận ngầm “đôi bên cùng có lợi”! Việc bảo đảm chế độ, chính sách thỏa đáng cho cán bộ, công chức đúng với những đóng góp và trách nhiệm trên từng cương vị là giải pháp không thể thiếu để phòng, chống tha hóa quyền lực, tham nhũng, tiêu cực. Nó giúp đội ngũ cán bộ chuyên tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ, vừa không cần tham nhũng, vừa không dại gì tham nhũng.

Trong nhiều nghị quyết mà gần đây là Nghị quyết Đại hội XIII, Đảng ta đã nêu rõ: Chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc; do đó phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách chính sách tiền lương, nâng cao thu nhập và có chính sách nhà ở, bảo đảm cuộc sống để cán bộ, công chức, viên chức yên tâm công tác. Đáng tiếc là việc hiện thực hóa chủ trương này quá chậm do nhiều nguyên nhân, nhất là chưa có đủ nguồn lực. Nhưng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng, nguồn lực của đất nước bị thất thoát do tham nhũng, lãng phí có khi còn nhiều hơn nguồn lực để cải thiện đời sống cho cán bộ, công chức, nên nếu quản lý tốt, chặn được tham nhũng, lãng phí thì sẽ có nguồn lực để trả lương tương xứng cho cán bộ, công chức. 

Trong các thành tố cơ bản có tác dụng ngăn chặn từ gốc hành vi tham nhũng, tiêu cực thì cùng với chuẩn mực đạo đức trên các lĩnh vực và cơ chế kiểm soát quyền lực thì thể chế nói chung, thể chế về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nói riêng đóng vai trò rất quan trọng. Muốn xây dựng thể chế phòng, chống TN, TC tốt, phải kiểm soát chặt chẽ được việc xây dựng chính sách, pháp luật để hạn chế sự tác động tiêu cực của "nhóm lợi ích", "sân sau", "tư duy nhiệm kỳ"; ngăn chặn nguy cơ nảy sinh tham nhũng, tiêu cực ngay từ khi xây dựng chính sách, luật pháp.

 Hệ thống luật pháp hiện nay của chúng ta tương đối đầy đủ, nhưng chưa thực sự đồng bộ, tính thống nhất chưa cao, còn có kẽ hở, một số nội dung còn chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột, tính dự báo, khả thi chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Đơn cử như những mâu thuẫn, chồng chéo, xung đột giữa các văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực đất đai, đầu tư, xây dựng, quy hoạch, nhà ở, kinh doanh bất động sản, môi trường... Điều quan trọng trong công tác xây dựng luật pháp, chính sách là phải lựa chọn được đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn sâu, có khả năng phân tích, dự báo chính sách tốt, chuyên nghiệp, tuân thủ pháp luật, đặc biệt có đạo đức tốt, bởi xây dựng chính sách, pháp luật là công việc rất khó khăn, phức tạp.

Trong cơ chế hiện nay của chúng ta, nhiều ý kiến cho rằng, cần nghiêm túc quy trách nhiệm, xem xét, xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu các cơ quan, đơn vị chủ trì soạn thảo văn bản luật, xây dựng chính sách để nâng cao chất lượng xây dựng luật. Bởi một văn bản luật yếu kém, một chính sách bất cập có ảnh hưởng đến rất nhiều người, tác động xã hội lớn. Vấn đề này hiện còn bị xem nhẹ, trách nhiệm không rõ ràng. Cách thức xây dựng luật ở nước ta không do cơ quan chuyên trách, độc lập, hoặc các ủy ban của Quốc hội chủ trì soạn thảo mà thường được giao cho cơ quan thuộc Chính phủ hoặc cơ quan trực tiếp quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực xây dựng. Bởi vậy, nếu không có cơ chế kiểm soát tốt, không quy rõ trách nhiệm thì khó đạt được chất lượng văn bản tốt. Tại một số kỳ họp Quốc hội, nhiều đại biểu Quốc hội đã lên tiếng về tình trạng cài cắm “lợi ích cục bộ”, “cuốc giật vào lòng” trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Ông Nguyễn Đình Quyền, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội cảnh báo: “Lợi ích nhóm người ta cài vào thì chuyên gia pháp luật mới phát hiện được, cài kín lắm, cài đủ các loại luôn, rất kín. Không có sự phát hiện, bóc tách thì rất tai hại”.

Kiểu tham nhũng này nguy hiểm nhưng lại rất tinh vi chứ không dễ nhìn, dễ thấy như tham nhũng kinh tế. Tình trạng cài cắm “lợi ích nhóm” vào văn bản là rất nguy hiểm. Nó phá hỏng tất cả các nguyên tắc, quy tắc trong xây dựng luật pháp, làm méo mó chính sách, làm mất lòng tin của xã hội. Sâu xa hơn, nó làm tha hóa đội ngũ cán bộ, làm đảo lộn giá trị xã hội, tạo cơ hội cho các thế lực chống phá Đảng, Nhà nước, chống phá chế độ. (còn nữa).

Nguồn: Báo QĐND

55 năm ASEAN - Một tầm nhìn, một bản sắc, một cộng đồng

Ngày 8-8-1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập, khởi đầu cho tiến trình liên kết sâu rộng vì hòa bình, ổn định và phát triển ở Đông Nam Á và khu vực.

Từ một nhóm các quốc gia Đông Nam Á vốn bị chia rẽ bởi chiến tranh, trải qua 55 năm xây dựng và phát triển, ASEAN ngày nay là một trong những tổ chức khu vực quan trọng, có uy tín và thành công trên thế giới, là ngôi nhà chung gắn bó hơn 650 triệu người dân của 10 quốc gia Đông Nam Á có bản sắc văn hóa đa dạng, một cộng đồng kinh tế lớn thứ 5 thế giới, một đối tác tin cậy và quan trọng của nhiều quốc gia, đóng vai trò trung tâm của các tiến trình đối thoại, hợp tác và liên kết quan trọng ở khu vực.

Hành trình xây dựng Cộng đồng ASEAN cùng chung tầm nhìn và bản sắc

Sự ra đời của ASEAN cách đây 55 năm đã phản ánh nguyện vọng chung của nhiều quốc gia trong khu vực về hòa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác cùng phát triển. Vượt qua thăng trầm và thích ứng với những thay đổi của thế giới và khu vực, ASEAN ngày càng phát triển và hoàn thiện về nhiều mặt. Năm 1995, Việt Nam gia nhập ASEAN đã mở đường cho xây dựng ngôi nhà chung ASEAN gắn kết 10 quốc gia Đông Nam Á. Năm 1997, lần đầu tiên ASEAN thông qua Tầm nhìn ASEAN 2020 về một Cộng đồng “gắn kết trong bản sắc chung”, đáp ứng nguyện vọng của các quốc gia thành viên về một khu vực Đông Nam Á “sông núi không còn chia cắt mà gắn kết chúng ta trong hữu nghị và hợp tác”. Đặc biệt, việc hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 với ba trụ cột về an ninh-chính trị, kinh tế và văn hóa-xã hội đã nâng tiến trình hợp tác và liên kết khu vực lên tầm cao mới vì hòa bình, hợp tác và cùng phát triển thịnh vượng.

“Phương cách ASEAN” dựa trên nền tảng những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đoàn kết, đồng thuận và không can thiệp công việc nội bộ luôn được gìn giữ, bồi đắp và phát huy, tạo nên giá trị và bản sắc của ASEAN. Chính “phương cách ASEAN” đã giúp ASEAN và các nước thành viên vượt qua những giai đoạn sóng gió của khu vực và thế giới. Đồng thời, mỗi khi vượt qua thử thách, khó khăn, ASEAN càng trưởng thành, tinh thần đoàn kết, thống nhất càng được đề cao, phương cách và bản sắc ASEAN càng tỏa sáng. Nhờ đó, ASEAN càng khẳng định được uy tín, vị thế và vai trò trung tâm, quan hệ với các đối tác được mở rộng, thực chất và sâu sắc hơn, tranh thủ được sự ủng hộ sâu rộng và hiệu quả của quốc tế cho thúc đẩy phát triển và liên kết của ASEAN. Đến nay, ASEAN có quan hệ đối tác đối thoại với 11 quốc gia và tổ chức quốc tế quan trọng (Trung Quốc, Mỹ, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Liên minh châu Âu...). Nhiều quan điểm và quy định của ASEAN như Hiến chương ASEAN, Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC)... được cộng đồng quốc tế hoan nghênh và ủng hộ, từ đó thúc đẩy hợp tác và nâng tầm quan hệ với ASEAN.

Trung thành với mục đích, tôn chỉ hoạt động của mình, ASEAN đã phát huy vai trò quan trọng trong thúc đẩy đối thoại, hợp tác, xây dựng lòng tin giữa các nước trong và ngoài khu vực nhằm duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển trong khu vực. Trên cơ sở đề cao luật pháp quốc tế, giải quyết các tranh chấp và bất đồng bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế và Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, ASEAN đã và đang đóng góp quan trọng vào giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định trên Biển Đông, được cộng đồng quốc tế ủng hộ.

Thúc đẩy hội nhập và liên kết kinh tế luôn là nội dung trọng tâm trong tiến trình liên kết ASEAN suốt 55 năm qua. Đến nay, trao đổi thương mại nội khối chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch thương mại của ASEAN. GDP của cả khối năm 2021 đạt 3.360 tỷ USD, tăng hơn 30% so với năm 2015 khi thành lập Cộng đồng ASEAN. Bên cạnh đó, ASEAN còn là trung tâm của không gian kinh tế rộng mở với mạng lưới 8 hiệp định thương mại tự do (FTA) gồm Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và 7 FTA với các đối tác quan trọng, trong đó Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) tạo nên một khu vực thương mại tự do chiếm 30% dân số thế giới và 32% GDP toàn cầu.

Trải qua 55 năm xây dựng và phát triển, ASEAN có thể tự hào là một hình mẫu liên kết khu vực thành công. Những thành quả đã đạt được là nền tảng vững chắc cho ASEAN nỗ lực hoàn thành Tầm nhìn ASEAN 2025 và xây dựng Tầm nhìn sau năm 2025 để tiếp tục củng cố Cộng đồng ASEAN đoàn kết, tự cường và thích ứng. Đoàn kết để thống nhất ý chí, đề cao ý thức cộng đồng, chia sẻ trách nhiệm vì lợi ích chung và lâu dài của Cộng đồng ASEAN, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực. Tự cường để giữ vững bản lĩnh, tăng cường tiềm lực và sức mạnh nội sinh của từng quốc gia thành viên và cả Cộng đồng ASEAN. Thích ứng để luôn tự tin, năng động, đổi mới sáng tạo, vững vàng vươn lên trước những biến chuyển phức tạp của khu vực và thế giới.

ASEAN giữ một vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Gia nhập ASEAN năm 1995 là một quyết sách mang tầm chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, góp phần tạo nên cục diện mới về hội nhập quốc tế và phát triển của đất nước, củng cố môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như nâng cao uy tín, vị thế của đất nước.

Nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, tôn trọng các nguyên tắc, phương cách và bản sắc của ASEAN, Việt Nam thực hiện nghiêm túc các cam kết và nghĩa vụ thành viên, có nhiều đóng góp quan trọng cho tăng cường đoàn kết, hiện thực hóa ý tưởng ASEAN gồm 10 nước thành viên, xây dựng Cộng đồng ASEAN và thực hiện Tầm nhìn ASEAN 2025. Trong các hoạt động của ASEAN, Việt Nam luôn đề cao đoàn kết và đồng thuận theo tinh thần “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công”.

Những lần Việt Nam đảm nhiệm Chủ tịch ASEAN đều vào những giai đoạn hiệp hội gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, trên cương vị Chủ tịch ASEAN 2020, trước vô vàn khó khăn chưa từng có tiền lệ của đại dịch Covid-19, Việt Nam đã kiên trì các nguyên tắc của ASEAN, thể hiện trọn vẹn tinh thần “gắn kết và chủ động thích ứng”, đưa con tàu ASEAN vượt qua sóng gió, giữ vững đà hợp tác và liên kết khu vực, đồng thời định hướng phát triển cho Cộng đồng ASEAN trong giai đoạn mới.

Thực hiện đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng, Việt Nam tiếp tục cùng các nước ASEAN phát huy hơn nữa bản sắc, vai trò trung tâm của ASEAN, xây dựng Cộng đồng ASEAN đoàn kết, vững mạnh, mang lại lợi ích thiết thực cho tất cả thành viên ASEAN cũng như các đối tác trong và ngoài khu vực. Với phương châm chủ động, tích cực, chân thành, tin cậy và có trách nhiệm, Việt Nam tiếp tục nỗ lực hết sức mình cùng ASEAN viết tiếp những chương thành công về xây dựng Cộng đồng ASEAN, đóng góp quan trọng vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới.

BÙI THANH SƠN, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao

Tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng trong giai đoạn mới

 LTS: Ngày 17-8, tại Hà Nội, Ban chỉ đạo (BCĐ) Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (PCTNTC) đã họp Phiên thứ 22 để kiểm điểm, đánh giá kết quả hoạt động 6 tháng đầu năm, xác định nhiệm vụ những tháng cuối năm 2022.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng ban chỉ đạo chủ trì phiên họp. Báo Quân đội nhân dân trân trọng giới thiệu phát biểu kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. 

Thưa các đồng chí,

Sau một buổi làm việc tích cực, khẩn trương, rất tâm huyết, nghiêm túc và trách nhiệm, Ban chỉ đạo đã hoàn thành toàn bộ nội dung phiên họp theo chương trình đề ra. Hội nghị đã nghe đồng chí Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội chính Trung ương, Phó trưởng ban Thường trực BCĐ, trình bày Tờ trình tóm tắt các tài liệu phiên họp; các đồng chí trong BCĐ đã có ý kiến phát biểu và hầu hết đều đánh giá cao, hoan nghênh Cơ quan Thường trực đã chuẩn bị rất công phu, nghiêm túc, chất lượng các tài liệu phiên họp và gửi sớm cho các thành viên BCĐ để nghiên cứu trước.

Qua thảo luận, các đồng chí đều cơ bản thống nhất với nội dung các tài liệu do Cơ quan Thường trực trình; tập trung phân tích, đánh giá công tác đấu tranh PCTNTC và hoạt động của BCĐ từ đầu năm đến nay, đồng thời góp ý, bổ sung, làm rõ thêm một số vấn đề. Đề nghị giao Cơ quan Thường trực nghiên cứu, tiếp thu tối đa để tiếp tục hoàn thiện các văn bản.

Sau đây, tôi xin có một số ý kiến có tính chất khái quát lại và nhấn mạnh, làm rõ thêm một số nội dung để kết thúc phiên họp.

I-Về kết quả đạt được từ đầu năm 2022 đến nay:

Như các đồng chí đã biết, từ sau Phiên họp thứ 21 (tháng 1-2022) của BCĐ đến nay, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp và những tác động khó lường từ tình hình quốc tế và khu vực gây ra nhưng các cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan chức năng đã có nhiều cố gắng, nỗ lực, vừa tập trung cho các nhiệm vụ phục hồi kinh tế, phát triển văn hóa-xã hội, chăm lo đời sống nhân dân, vừa chú trọng chỉ đạo công tác PCTNTC; thực hiện nghiêm các kết luận phiên họp, cuộc họp và Chương trình công tác năm 2022 của BCĐ, Thường trực BCĐ. Các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước, Thường trực BCĐ, thành viên BCĐ đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, kịp thời cho chủ trương xử lý đối với những vụ án, vụ việc nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm. Công tác PCTNTC tiếp tục được đẩy mạnh, khẳng định mạnh mẽ quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta về cuộc đấu tranh chống tham nhũng, được dư luận, nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao. Kết quả đó đã được thể hiện khá rõ trong báo cáo và tờ trình của phiên họp; có thể khái quát lại thành mấy điểm nổi bật sau:

Một là, chúng ta đã chủ động làm tốt công tác tham mưu cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư sơ kết, tổng kết và triển khai thực hiện nhiều chủ trương lớn về công tác đấu tranh PCTNTC.

- BCĐ đã tham mưu đề xuất với Bộ Chính trị tổ chức rất thành công Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác PCTNTC theo Kết luận số 21-KL/TW của Hội nghị Trung ương 5 khóa XI. Có thể nói, đây là hội nghị toàn quốc lớn nhất về công tác PCTNTC được tổ chức từ trước đến nay (với hơn 80.000 đại biểu tham dự tại hơn 4.000 điểm cầu trong cả nước, nhiều địa phương kết nối đến cấp xã). Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định thành lập BCĐ PCTNTC ở cấp tỉnh và cho đến nay, tất cả 63/63 tỉnh, thành phố đã thành lập BCĐ. Tôi xin nhấn mạnh lại là, việc tổ chức thành công hội nghị toàn quốc tổng kết công tác PCTNTC đã để lại dấu ấn tốt, đánh dấu chặng đường 10 năm đấu tranh PCTNTC, tạo động lực mới, khí thế mới, quyết tâm mới cho công tác PCTNTC thời gian tới. Đồng thời, việc quyết định thành lập BCĐ cấp tỉnh một lần nữa đã thể hiện quyết tâm cao của Trung ương trong việc đẩy mạnh cuộc đấu tranh PCTNTC từ Trung ương đến địa phương trong giai đoạn mới, theo tinh thần như tôi đã nói nhiều lần, là "trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt".

Hai là, đã tập trung chỉ đạo đẩy mạnh công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế của Đảng, Nhà nước về xây dựng Đảng, quản lý kinh tế-xã hội và PCTNTC. Có thể khẳng định rằng, thời gian qua, chúng ta đã chỉ đạo triển khai khá toàn diện, đồng bộ, quyết liệt nhiều giải pháp để xây dựng, hoàn thiện thể chế về PCTNTC cả trong Đảng và Nhà nước. Từ nghiên cứu, ban hành mới đến rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện một số quy định của Đảng và các quy định của pháp luật còn bất cập hoặc chưa phù hợp với thực tiễn, để kịp thời bổ sung, điều chỉnh; từng bước hình thành khuôn khổ pháp lý vững chắc để "không thể tham nhũng, tiêu cực". Nhất là chúng ta đã từng bước gắn kết đồng bộ giữa phòng, chống tham nhũng với phòng, chống tiêu cực; nếu như trước đây, chúng ta mới chỉ có quy định, chế tài xử lý các hành vi tham nhũng thì nay đã có cả quy định, chế tài xử lý các hành vi tiêu cực; nếu như trước đây, cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chức năng còn lúng túng trong nhận thức, triển khai công tác phòng, chống tiêu cực thì hiện nay đã có quy định, hướng dẫn cụ thể giúp các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chức năng thống nhất nhận thức trong triển khai thực hiện. Từ đầu năm 2022 đến nay, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, BCĐ đã ban hành gần 30 văn bản về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị và PCTNTC. Đặc biệt là, việc ban hành Quy định số 69-QĐ/TW, ngày 6-7-2022 của Bộ Chính trị về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm và Hướng dẫn số 25-HD/BCĐTW, ngày 1-8-2022 của BCĐ hướng dẫn một số nội dung về công tác phòng, chống tiêu cực đã hình thành cơ chế đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực ngày càng đồng bộ, thống nhất, chặt chẽ.

Tính ra, trong 6 tháng đầu năm nay, Quốc hội đã thông qua 6 dự án luật; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 44 nghị định, 15 quyết định; các bộ, ngành ban hành 216 thông tư, thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý kinh tế-xã hội, kịp thời thể chế hóa các đường lối, chủ trương của Đảng, góp phần phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực. Bên cạnh đó, Quốc hội, Chính phủ cũng đang chỉ đạo rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan đến việc đấu thầu, đấu giá, quy hoạch, quản lý, sử dụng đất, tài sản công, tài chính công, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp... theo đề xuất của BCĐ.

Ba là, công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực ngày càng quyết liệt, hiệu quả, tạo bước đột phá mới trong công tác đấu tranh PCTNTC.

Báo cáo đã nêu rất cụ thể và các đồng chí vừa nghe đồng chí Phan Đình Trạc trình bày Tờ trình tóm tắt các tài liệu rất đầy đủ, chi tiết số liệu các vụ việc, tôi xin không nhắc lại, mà chỉ nhấn mạnh:

Có thể nói là chưa bao giờ chúng ta xử lý mạnh mẽ, nghiêm minh hành vi tham nhũng, tiêu cực như vừa qua, có đúng không? Nhất là việc xử lý khẩn trương, nhanh chóng, kịp thời, đồng bộ, dứt điểm giữa kỷ luật đảng với kỷ luật hành chính và xử lý hình sự đối với hai trường hợp Ủy viên Trung ương là bộ trưởng, nguyên bộ trưởng trong vụ Việt Á gần đây đã thể hiện nhất quán quan điểm: "Không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể đó là ai". Hay như việc xử lý kỷ luật đối với 3 lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước do có sai phạm trong hoạt động thanh tra, kiểm toán chính là bước tiến mới trong kiểm soát quyền lực nhà nước; thể hiện đúng tinh thần chỉ đạo của BCĐ và Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018: Nếu qua thanh tra, kiểm toán không phát hiện sai phạm hoặc có phát hiện sai phạm mà không xử lý, hoặc xử lý không nghiêm, sau đó cơ quan có thẩm quyền khác lại phát hiện ra sai phạm thì trưởng đoàn, thành viên đoàn thanh tra, kiểm toán đó sẽ bị xem xét, xử lý trách nhiệm. Đây là bước đột phá mới trong công tác đấu tranh PCTNTC ngay chính trong các cơ quan chống tham nhũng, tiêu cực, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá rất cao.

Bốn là, tiếp tục chỉ đạo khắc phục những khâu yếu, việc khó, tạo bước chuyển biến tích cực hơn trong công tác giám định, định giá tài sản, thu hồi tài sản tham nhũng.

Nếu như trước đây, khâu yếu, việc khó được BCĐ tập trung chỉ đạo xử lý là việc cho hưởng án treo không đúng quy định hay việc phối hợp công tác giữa các cơ quan chức năng chưa tốt, còn tình trạng "quyền anh, quyền tôi", "cua cậy càng, cá cậy vây", rồi tình trạng "trên nóng, dưới lạnh"... thì đến nay, các tồn tại, hạn chế đó đã được chấn chỉnh, khắc phục một bước và có nhiều chuyển biến tích cực; các việc khó, việc phức tạp đều được các cơ quan tư pháp bàn bạc để có sự đồng thuận, thống nhất cao trong xử lý các vụ án, vụ việc. Kết quả bước đầu cho thấy, con số thu hồi tài sản tham nhũng lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng mỗi năm; công tác giám định, định giá cũng có chuyển biến tích cực; tình trạng đùn đẩy, đổ lỗi cho nhau giữa các cơ quan chức năng, chậm ban hành kết luận hoặc từ chối giám định, định giá tài sản không đúng quy định pháp luật đã giảm hẳn; chất lượng kết luận cũng được nâng lên.

Năm là, hoạt động của BCĐ và các cơ quan chức năng được duy trì nền nếp, bài bản, hiệu quả (đây là yếu tố rất quan trọng góp phần vào các kết quả nổi bật nêu trên).

BCĐ đã sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc, phân công nhiệm vụ thành viên BCĐ và ban hành quy định về công tác kiểm tra, giám sát của BCĐ; chỉ đạo quyết liệt, cụ thể, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong xử lý nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng, tiêu cực, nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm. Các đồng chí thành viên BCĐ đã tích cực triển khai và hoàn thành nhiều đề án, nhiệm vụ được giao theo kế hoạch; quan tâm chỉ đạo, đôn đốc tại địa bàn được phân công quản lý, phụ trách. Kết quả cụ thể của 8 đoàn kiểm tra chuyên đề của BCĐ như báo cáo của đồng chí Phan Đình Trạc trình bày càng khẳng định thêm nhận định trên. Đồng thời, chúng ta cũng phải ghi nhận, đánh giá cao và biểu dương vai trò của báo chí, truyền thông trong công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục về PCTNTC. Báo chí, truyền thông đã nỗ lực cố gắng, thường xuyên theo sát và kịp thời thông tin, phản ánh quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong cuộc đấu tranh PCTNTC; được đông đảo các tầng lớp nhân dân quan tâm, theo dõi, đồng tình, ủng hộ (theo thống kê, trong 6 tháng đầu năm nay đã có hơn 5.000 tin, bài nói về PCTNTC, gần bằng số tin bài của cả năm 2021).

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, chúng ta cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng, công tác đấu tranh PCTNTC vẫn còn những hạn chế như trong báo cáo của BCĐ tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác PCTNTC giai đoạn 2012-2022 do Bộ Chính trị tổ chức ngày 30-6-2022 vừa qua đã chỉ rõ. Tôi đề nghị các đồng chí thành viên BCĐ Trung ương phải gương mẫu thực hiện và tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện, nghiêm túc khắc phục các tồn tại, khuyết điểm đã nêu ra.

II- Một số nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới

Thưa các đồng chí,

Chúng ta sắp kết thúc năm thứ hai của nhiệm kỳ XIII của Đảng, trong hoàn cảnh đất nước vừa trải qua những khó khăn, thách thức to lớn của đại dịch Covid-19; toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đang tích cực thi đua, ra sức phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội, quyết tâm hoàn thành thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng với tâm thế mới, khí thế mới, mạnh mẽ hơn, tự tin hơn. Công tác đấu tranh PCTNTC đã đạt được những kết quả rất quan trọng, cho chúng ta thêm nhiều bài học quý, góp phần nâng cao uy tín của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân đối với công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mở rộng quan hệ đối ngoại.

Tuy nhiên, tình hình, bối cảnh quốc tế và khu vực đang có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức vẫn còn diễn biến phức tạp; tham nhũng, tiêu cực trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, gây bức xúc trong xã hội. Vì vậy, chúng ta tuyệt nhiên không được chủ quan, tự thỏa mãn với những kết quả đã đạt được, cũng không được nóng vội, mà phải tiến hành kiên trì, thường xuyên, liên tục, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, quyết liệt hơn, hiệu quả cao hơn, làm cho Đảng ta và hệ thống chính trị nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Qua thảo luận, các đồng chí đều cơ bản nhất trí với những nhiệm vụ, giải pháp như báo cáo và tờ trình mà Cơ quan Thường trực đã nêu. Tôi đề nghị các đồng chí cần tập trung chỉ đạo hoàn thành các công việc theo đúng kế hoạch đã đề ra. Trong đó cần tập trung làm tốt một số nhiệm vụ sau đây:

1. Tiếp tục chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thiện thể chế của Đảng, Nhà nước về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị, quản lý kinh tế-xã hội và PCTNTC. Khẩn trương hoàn thành, trình Bộ Chính trị ban hành quy định về kiểm soát quyền lực để PCTNTC trong các hoạt động kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, xây dựng pháp luật, quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công và trong hoạt động báo chí, truyền thông.

2. Tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ xác minh, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, xử lý các vụ việc thuộc diện BCĐ theo dõi, chỉ đạo. Phấn đấu từ nay đến hết năm 2022 kết thúc điều tra 14 vụ án, ban hành cáo trạng truy tố 20 vụ án; xét xử sơ thẩm 25 vụ án; xét xử phúc thẩm 5 vụ án; kết thúc xác minh, giải quyết 21 vụ việc theo kế hoạch của BCĐ. Nhất là: (1) Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, xử lý dứt điểm các vụ việc, vụ án liên quan đến Công ty Cổ phần Công nghệ Việt Á; vụ án xảy ra tại Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao và một số cơ quan, doanh nghiệp liên quan; vụ án "Thao túng thị trường chứng khoán" xảy ra tại Tập đoàn FLC và một số công ty liên quan; vụ án "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" xảy ra tại Tập đoàn Tân Hoàng Minh; vụ án xảy ra tại Công ty AIC. (2) Khẩn trương đưa ra xét xử các vụ án trọng điểm theo kế hoạch của BCĐ.

3. Khẩn trương hoàn thành việc kiểm tra chuyên đề của BCĐ về lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác phát hiện, chuyển giao, tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố các vụ việc có dấu hiệu tội phạm về tham nhũng, kinh tế, tiêu cực và công tác giám định, định giá tài sản trong các vụ án, vụ việc.

4. Chỉ đạo tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, trong đó tập trung vào những lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, có nhiều dư luận về tham nhũng, tiêu cực.

5. Cần tiếp tục tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, kiên trì xây dựng văn hóa liêm chính, không tham nhũng, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân; xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong tình hình mới, trước hết là sự gương mẫu, giữ gìn, nói đi đôi với làm của người đứng đầu và tập thể lãnh đạo các cấp, các ngành, cơ quan, tổ chức, đơn vị trong PCTNTC. Phát huy hơn nữa vai trò của báo chí, truyền thông trong PCTNTC. Báo chí không chỉ tuyên truyền, giáo dục mà còn tích cực đấu tranh, góp phần răn đe, ngăn chặn những hành vi tham nhũng, tiêu cực.

6. Khẩn trương chuẩn bị và tích cực hướng dẫn, chỉ đạo BCĐ cấp tỉnh sớm kiện toàn tổ chức và xây dựng, hoàn thiện các quy chế, quy trình công tác, tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra để nâng cao hiệu quả hoạt động; kiên quyết khắc phục tình trạng "trên nóng, dưới lạnh", tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, rõ rệt, đồng bộ trong công tác PCTNTC ở địa phương, cơ sở.

Cuối cùng, tôi xin chúc các đồng chí luôn luôn mạnh khỏe; chúc công cuộc đấu tranh PCTNTC của chúng ta giành được nhiều thắng lợi mới!

Nguồn: Báo QĐND

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...