Thứ Sáu, 19 tháng 6, 2020

KIÊN QUYẾT ĐẤU TRANH BÁC BỎ ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN XUYÊN TẠC VỀ HỒ CHÍ MINH



Thượng tá Cao Văn Trọng
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của cách mạng, Người là Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa kiệt xuất của Việt Nam được UNESCO công nhận. Người là sự hội tụ và phát huy đến mức cao nhất tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, từ cổ và kim. Người tỏa sáng trí dũng và nhân văn, vĩ đại và giản dị, khiêm nhường. Chính vì thế, để chống phá sự nghiệp cách mạng, ngăn chặn tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị luôn tìm mọi cách để bôi nhọ danh dự, hình tượng Hồ Chí Minh, phá hoại “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” bằng cách ngụy tạo chứng cứ và xuyên tạc bóp méo tài liệu lịch sử về Bác Hồ để lừa mị nhân dân, đổi trắng thay đen hòng làm mất đi tinh thần dân tộc, lòng yêu nước của nhân dân ta.
Đặc biệt, vừa qua khi cả nước ta tổ chức kỷ niệm 130 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, các đối tượng thù địch lại ráo riết, đẩy mạnh các chiến dịch bôi nhọ, xuyên tạc hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh thông qua nhiều thủ đoạn khác nhau.
Để thực hiện mưu đồ trên, các thế lực thù địch tập trung khoét sâu vào các vấn đề nhân thân, lai lịch, đời tư của Chủ tịch Hồ Chí Minh theo kiểu dựa trên những nguồn thông tin không rõ nguồn gốc, hình ảnh đã photoshop hoặc cắt xén để nhào nặn ra những tác phẩm sai trái có liên quan đến con người, thân thế và sự nghiệp của Người.
Thủ đoạn của các thế lực thù địch là “tạo sóng ngầm trong bể” khi tung tin cho rằng Nguyễn Ái Quốc đã chết tại Trung Quốc và con người bằng xương, bằng thịt được cả dân tộc Việt Nam tôn kính là một người Đài Loan-Trung Quốc. Việc gán ghép, quy chụp cho rằng Bác Hồ là người gốc Trung Quốc là thủ đoạn nham hiểm khi chúng lợi dụng tâm lý bức xúc của người dân Việt Nam trước những vấn đề lịch sử giữa Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt là các hành động của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên biển Đông trong thời gian gần đây.
Bên cạnh đó, các thế lực thù địch bịa đặt dàn dựng những vở kịch về đời tư của Chủ tịch Hồ Chí Minh với các luận điệu như: Hồ Chí Minh không phải là người vĩ đại đã hy sinh cuộc đời riêng để tận hiến cho dân tộc, mà từng có vợ, con và nhiều người tình. Rồi sau đó quy kết cho rằng Hồ Chí Minh không dám thừa nhận và nhẫn tâm bỏ mặc vợ con mình. Chúng còn bịa đặt ra những câu chuyện hoang đường, trong đó Hồ Chí Minh được miêu tả như một con người tầm thường, bản năng và sống xa hoa hưởng lạc, chứ không hề giản dị thanh bạch như cộng sản tuyên truyền.
Chúng ta thấy, chính nhờ đi theo ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin và thực hiện thành công sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước nên Bác Hồ được nhân dân tôn thờ; hình ảnh Bác Hồ đã đại diện cho sự cao đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước Việt Nam. Vậy nên muốn đánh đổ chế độ xã hội chủ nghĩa để đưa nước ta theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa thì các đối tượng tìm cách bôi nhọ hình ảnh, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm dần dần làm xói mòn hình tượng Người Cha già dân tộc, làm giảm lòng tin của nhân dân vào chế độ xã hội chủ nghĩa mà Người đã lựa chọn cho dân tộc.
Đáng chú ý, trong giai đoạn hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang đẩy mạnh thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh, các thế lực thù địch, những nhà mạo danh “dân chủ” đã và đang tìm mọi lý do để phủ nhận, chối bỏ sự thật lịch sử khi cho rằng, Hồ Chí Minh không hề yêu nước thương dân, mà suốt đời chỉ tôn thờ chủ nghĩa Cộng sản quốc tế, làm “tay sai” cho Trung Quốc, Liên Xô, từ đó quy kết, xuyên tạc Hồ Chí Minh “bán nước”. Tất cả những luận điều này chỉ có thể là sản phẩm của những kẻ vô ơn, bạc bẽo, không có liêm sỉ.
Âm mưu xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là không hề thay đổi. Nhân dịp kỷ niệm 130 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền chống phá trên không gian mạng Internet. Đó là các chiến dịch phá hoại nguy hiểm trên mặt trận chính trị tư tưởng. Do đó, việc nhận diện những thủ đoạn trên và đấu tranh, phản bác các luận điệu sai trái, bôi nhọ hình tượng lãnh tụ Hồ Chí Minh chính là nhiệm vụ chính trị xã hội góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và tiến trình đi lên CNXH tại Việt Nam. Vấn đề cấp thiết hiện nay trong đấu tranh phòng, chống các luận điệu xuyên tạc là mỗi người dân Việt Nam và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, phát hiện và thẳng thắn lên án luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, các đối tượng chống phá trong và ngoài nước bôi nhọ đến thanh danh, đạo đức, nhân phẩm Chủ tịch  Hồ Chí Minh.

TÌM HIỂU SỰ THẬT VỀ “HỘI ĐỒNG LIÊN TÔN VIỆT NAM



                                Thượng tá Cao Văn Trọng
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, trong lịch sử tôn giáo luôn bị chủ nghĩa thực dân, đế quốc lợi dụng để phục vụ cho âm mưu xâm lược và chống phá cách mạng Việt Nam. Hiện nay, trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các thế lực thù địch vẫn triệt để lợi dụng tôn giáo như con bài lợi hại để thực hiện mục đích chống phá cách mạng nước ta.
Bên cạnh các hình thức tổ chức theo mô hình giáo hội đã được Nhà nước ta công nhận tư cách pháp nhân, ở Việt Nam hiện nay xuất hiện tổ chức bất hợp pháp là “Hội đồng liên tôn Việt Nam”. Tổ chức này được lập ra với danh nghĩa tranh đấu cho tự do tôn giáo và dân chủ nhân quyền, trụ sở hiện nay tại chùa Giác Hoa, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh, do ông Thích Không Tánh trụ trì. Cái tên “Hội đồng liên tôn Việt Nam” nghe có vẻ rất mỹ miều nhưng thực chất tổ chức này lại bao gồm số tu sỹ bất mãn, biến chất trong các tôn giáo ở Việt Nam, có thể liệt kê một số đối tượng cầm đầu, cốt cán như: Thích Không Tánh, Thích Vĩnh Phước (Phật giáo); linh mục Nguyễn Văn Lý, Đinh Hữu Thoại (Công giáo); Hứa Phi, Nguyễn Kim Lân (Cao Đài); mục sư Nguyễn Hoàng Hoa, Nguyễn Mạnh Hùng (Tin Lành); Lê Quảng Hiển, Lê Văn Sóc (Phật giáo Hòa Hảo)…
Nhìn về các hoạt động của số tu sỹ kể trên, có thể thấy đa phần họ ít chăm lo cho việc đạo, góp công đức xây dựng giáo hội, góp phần phát triển đạo đức xã hội, mà thường xuyên tụ họp, tham gia bàn bạc lo việc đời hơn là việc đạo. Chính vì thế, uy tín, ảnh hưởng trong giáo hội xếp hạng thấp, năng lực yếu kém, không được trọng dụng nên tỏ ra bất mãn. Cho nên, hầu hết các việc làm của họ đều mang mang tính tự phát, lấy danh nghĩa cá nhân chứ không hề đại diện cho bất kỳ một tổ chức tôn giáo nào. Đặc biệt, do bị xúi giục, bị các thế lực bên ngoài mua chuộc, hứa hẹn giúp đỡ nên số tu sỹ trên đã và đang có những hoạt động mang tính chất cực đoan, gây phương hại đến trật tự, an toàn xã hội.
Đáng chú ý là hành động “cõng rắn cắn gà nhà” khi họ tìm mọi cách để xuất cảnh ra nước ngoài tìm kiếm cơ hội được gặp gỡ các quan chức phương Tây, các tổ chức nhân quyền quốc tế để cung cấp các thông tin xuyên tạc về tình hình chính trị của đất nước, các vụ việc nhạy cảm, vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”,“tự do tôn giáo”, qua đó vẽ nên một bức tranh méo mó, phản cảm về vấn đề tôn giáo tại Việt Nam, đồng thời kêu gọi quốc tế can thiệp, gây sức ép với Việt Nam thực hiện các yêu sách của họ.
Hành động của “Hội đồng liên tôn Việt Nam” còn tái hiện qua các buổi gặp gỡ giữa họ với các đoàn lâm thời như đoàn Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế của Hoa Kỳ (USCIRF), phái đoàn ngoại giao của các quốc gia như Mỹ, Canada, Pháp, Anh, Tây Ban Nha… tại chùa Giác Hoa, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Về mục tiêu của cuộc gặp được cho là “tiếp tục tìm hiểu về vấn đề tự do tôn giáo và nhân quyền tại Việt Nam từ phía những giáo hội không chịu sự chỉ đạo, quản lý của chính quyền Hà Nội từ năm 1975 cho đến nay”. Thực chất đây chỉ là vỏ bọc để các đối tượng chống đối có cơ hội bày tỏ, cung cấp những thông tin một chiều, đã bị bóp méo sai sự thật hoặc đã bị thổi phồng về vấn đề tự do tôn giáo cho phía nước ngoài.
Hơn nữa, việc tổ chức cuộc gặp này thực ra là cách để viên chức ngoại giao một số nước thiếu thiện chí với Việt Nam tìm kiếm, thu thập thông tin nhân chuẩn bị hội nghị Đối thoại nhân quyền, hoặc để củng cố luận cứ nhằm vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, Việt Nam đàn áp tôn giáo trong các bản “Phúc trình về tự do tôn giáo thế giới” được Bộ Ngoại giao của Hoa Kỳ trình bày công khai nhằm hạ uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; yêu cầu Hòa Kỳ đưa Việt Nam trở lại danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo (CPC - Countries of Particular Concern)…
Chẳng hạn như gần đây, “Hội đồng liên tôn Việt Nam” đã có cơ hội gặp gỡ phái đoàn nhân viên Đại sứ quán Canada tại chùa Giác Hoa, Nơ Trang Long, Bình Thạnh. Trong quá trình tiếp xúc, trao đổi, ông Thích Không Tánh đã xuyên tạc trắng trợn về tình hình đất nước, đổi trắng thay đen ý nghĩa lịch sử ngày 30-4-1975, đưa tin sai sự thật về vụ Đồng Tâm..., nhằm quốc tế hóa vấn đề tôn giáo, kêu gọi phía nước ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Cho nên, sẽ không bất ngờ khi những điều đó đã được phản ảnh một cách méo mó, lệch lạc trong bản báo báo về tình hình nhân quyền toàn cầu, được công bố hôm 14/1/2020 của Tổ chức Human Rights Watch của Mỹ.
Như vậy, có thể thấy, hành động của số tu sỹ cực đoan trong “Hội đồng liên tôn Việt Nam” là hành động của những nhân vật không muốn đất nước được bình an. Còn dưới góc độ tôn giáo, các chính đạo đều coi trọng việc tu luyện loại bỏ dục vọng, đề cao tâm tính làm căn bản. Các lễ nghi, chức tước, cấp bậc, tiền tài… chỉ làm nảy sinh thêm chấp trước vào vật chất. Những thứ hữu hình sẽ chỉ làm cho người xuất gia tập trung vào nó mà dần quên mất điều mình tin là Thần, Phật, chứ không phải là hình thức cấp bậc trong xã hội, tôn giáo. Người tu hành nếu chỉ lo đến làm kinh tế, làm chính trị, hoạt động xã hội thì không những không còn thời gian tham thiền nhập định, mà tâm cũng không tĩnh, khó có thể tinh tấn thanh tĩnh vô vi.
Chính vì vậy, “Hội đồng liên tôn Việt Nam” chưa bao giờ được các tôn giáo chính thống công nhận, bởi bản chất của tổ chức này là một hội nhóm có tính chất tập hợp số cực hữu, cực đoan trong tôn giáo để đối trọng lại chính quyền. Việc phái đoàn ngoại giao một số nước Âu, Mỹ đến với “Hội đồng liên tôn Việt Nam” thực chất chỉ là cuộc gặp gỡ với những nhân vật cực đoan, quá khích đội lốt tôn giáo tại Việt Nam mà thôi.

“NỘI CÔNG, NGOẠI KÍCH”, THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG



Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại của đất nước. Thời điểm đại hội cận kề, các thế lực thù địch càng tăng cường các hoạt động chống phá, tung ra luận điệu xuyên tạc, sai trái nhằm làm suy giảm niềm tin, phá hoại Đại hội XIII của Đảng.
Gia tăng “chiến dịch” tuyên truyền, xuyên tạc
Dịp này, các thế lực thù địch tung ra nhiều bài viết, video clip với lập luận, tuyên truyền, cổ vũ cho việc từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin hòng làm lung lay, phủ nhận nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng. Để phủ định học thuyết Mác-Lênin, trên đài BBC, RFA, VOA, các trang phản động, mạng xã hội Facebook, YouTube…; không ít ý kiến cho rằng, chủ nghĩa Mác-Lênin là phản dân chủ, việc kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin là một sai lầm từ lý luận đến thực tiễn.
Lợi dụng thời điểm Đảng lấy ý kiến góp ý toàn dân vào dự thảo Báo cáo Chính trị, họ đưa ra các kiến nghị bằng nhiều hình thức, như “trao đổi”,“gửi thư”,“góp ý cho Đại hội XIII”… rằng, Đại hội XIII là thời cơ để đổi mới chính trị theo hình thức đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xây dựng nhà nước dựa trên nền tảng “xã hội dân sự”.
Lợi dụng những hiện tượng tiêu cực, hạn chế trong đời sống xã hội như sự cố môi trường biển miền Trung, tình hình phức tạp trên Biển Đông, một số dự án chậm tiến độ, sự việc Đồng Tâm, vụ án hình sự Hồ Duy Hải…, họ xuyên tạc vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, quy kết “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tạo khủng hoảng toàn diện”, “đất nước lâm nguy”, “tình thế hiểm nghèo”, dẫn đến “Sự thất bại nghiêm trọng xây dựng CNXH, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”… 
Từ đó dùng các lời lẽ “khẩn thiết”, “thiết tha” kiến nghị, rằng: Chừng nào ở Việt Nam chỉ có độc tài, độc đảng lãnh đạo thì chừng đó không thể nói tới một nền dân chủ chân chính được; ở Việt Nam muốn phát triển, muốn có dân chủ thực sự thì phải hội nhập vào xu thế đa đảng, dân chủ như nước ngoài.
Xét về bản chất, đây là những quan điểm sai trái, phi lịch sử, phản khoa học. Họ chống phá Đại hội XIII, tấn công trên nhiều lĩnh vực, phương diện khác nhau, song chung quy lại, mục đích mà họ hướng tới: Hướng lái đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.  
Ngụy biện đổi mới chính trị là thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam
Trong mấy chục năm qua, công cuộc đổi mới đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thay đổi một cách căn bản, toàn diện bộ mặt của đời sống, xã hội đất nước ta. 
Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển; từ đó đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại. 
Cũng như đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế luôn đứng trước thời cơ và thách thức, thuận lợi và khó khăn, có lúc khó khăn, thách thức còn lớn hơn cả thuận lợi, thời cơ. 
Nhưng rồi bằng sự phấn đấu quyết liệt của Đảng, Nhà nước và nhân dân, kinh tế vĩ mô được ổn định, nhịp độ tăng trưởng đạt mức cao, đời sống được nâng lên; dịch bệnh COVID-19 đặt thế giới vào khủng hoảng nghiêm trọng, đất nước ta đã phát huy được tinh thần đoàn kết, chung sức, đồng lòng; tính ưu việt của chế độ, vai trò Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và sự làm chủ của nhân dân tạo ra sức mạnh để vượt qua đại dịch. 
Vẫn biết khó khăn, thách thức còn nhiều, nhưng không thể vì thế mà nói kinh tế đất nước đang chìm trong “khủng hoảng trầm trọng”, “đất nước lâm nguy”, “tình thế hiểm nghèo”… như các đối tượng rêu rao.
Cũng trong mấy chục năm qua, ở Việt Nam, đổi mới chính trị luôn gắn liền với đổi mới kinh tế, hơn thế nữa còn giữ vai trò dẫn dắt, chỉ đường cho đổi mới kinh tế. 
Đổi mới chính trị, Đảng, Nhà nước và nhân dân đã có nhiều cố gắng đạt được kết quả đáng ghi nhận trong xây dựng nền dân chủ XHCN, khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực và sức chiến đấu… 
Đổi mới chính trị là đổi mới, tập trung vào những nội dung cụ thể như vậy chứ không thể đổi mới chính trị là thay đổi thể chế chính trị, mục tiêu, con đường đi lên CNXH, vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Mục tiêu, con đường cách mạng vô sản, thể chế chính trị là sự lựa chọn của lịch sử, dân tộc và nhân dân. Vai trò lãnh đạo của Đảng là bài học xuyên suốt chiều dài lịch sử, là nhân tố tổ chức và quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là bài học lịch sử được đúc kết từ thực tiễn cách mạng dân tộc. 
Đa nguyên chính trị, đa đảng không phải là giá trị phổ quát của nhân loại, đồng thời không phải là thực tế hiện hữu trong tất cả mọi thời kỳ của một quốc gia dân tộc. Nó có thể đúng và phù hợp với quốc gia – dân tộc này, nhưng cũng có thể không đúng và không phù hợp với quốc gia – dân tộc khác. 
Sự lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam không tự nhiên mà có và không phải cứ tự nhận mà được. Đây là kết quả của một quá trình đấu tranh lâu dài của toàn Đảng. Đảng đã tập hợp và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc đứng lên giành chính quyền, lập nên chế độ chính trị mới, vừa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà mục tiêu là chủ nghĩa cộng sản.
Thế lực thù địch – họ là ai?
Nhiều người đặt câu hỏi: Thế lực thù địch hướng lái, “đấu tranh” đòi Đảng từ bỏ nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối về CNXH, họ là ai?
Đó là phần tử cơ hội chính trị, những đối tượng đội lốt “yêu nước”, đội lốt các nhà đấu tranh vì “dân chủ”, “nhân quyền”,“xã hội dân sự” trong nước được hình thành trong quá trình cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH ở Việt Nam. 
Theo phân tích của GS. TS Trương Giang Long, nguyên Giám đốc Học viện Chính trị CAND thì hiện nay, cơ hội chính trị có thành phần đa dạng, phức tạp. Họ thường là: 
(1) Đối tượng đã bị xử lý trong các vụ án chính trị trước đây nay tiếp tục hoạt động chống đối trở lại, như số đối tượng trong các vụ án chống Đảng, Nhà nước XHCN, chính quyền nhân dân. 
(2) Một số đối tượng là đảng viên trong bộ máy Nhà nước có quá trình tham gia cách mạng, có người từng giữ cương vị chủ chốt trong Đảng, sỹ quan cao cấp trong lực lượng vũ trang. Nhận thức quan điểm chính trị của họ đối lập với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối chính sách của Đảng, phản bội lại mục tiêu, lý tưởng Cộng sản, phản bội Tổ quốc. 
(3) Một bộ phận là trí thức, văn nghệ sỹ, cán bộ trẻ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bị mua chuộc, lôi kéo, bất mãn, trở cờ quay lưng lại với lợi ích dân tộc, đất nước, nhân dân. 
(4) Một số chức sắc núp bóng dưới những hình thức tôn giáo khác nhau, lợi dụng vào tôn giáo kích động, lôi kéo quần chúng nhân dân xuyên tạc nền tảng tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, có những hoạt động chống Đảng, chống chế độ.
Đó là phần tử, các tổ chức phản động được hình thành từ nhiều loại đối tượng trong chế độ cũ hoạt động đối lập với sự lãnh đạo của Đảng và chế độ; nhiều đối tượng tiêu cực, bất mãn, bị các thế lực thù địch lợi dụng, kích động, lôi kéo vào hoạt động chống Đảng Cộng sản và chế độ XHCN; hình thành các hội đoàn chống cộng, tổ chức phản động trong và ngoài nước, trực tiếp chống phá và hà hơi, tiếp sức “nội công, ngoại hợp”.
Đó là những cá nhân, tổ chức, chính thể có quan điểm, hành động, việc làm khác, đối lập với nền tảng tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật Nhà nước, có hoạt động đi ngược lại với lợi ích dân tộc, đất nước và nhân dân Việt Nam.
Trong số những dạng trên, điều đáng lưu ý là những đối tượng cơ hội chính trị từng là những cán bộ nắm giữ chức vụ cao trong bộ máy Đảng và Nhà nước ta. Có đối tượng là nhà văn, nhà thơ, nhà sử học, nhà khoa học, nhà báo. Họ có trình độ chuyên môn cao, có kiến thức xã hội rộng và do đó có uy tín trong giới chuyên môn, có ảnh hưởng nhất định tới một số bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. 
Thậm chí, có những đối tượng mà phạm vi ảnh hưởng vượt ra ngoài nước. Họ được dư luận quốc tế quan tâm, có quan hệ sâu rộng, có khả năng, điều kiện và có ý thức tìm hiểu, nắm bắt, thu thập tin tức, tài liệu có liên quan tới các vấn dư luận đặc biệt quan tâm và triệt để khai thác để tuyên truyền, xuyên tạc, gây chia rẽ nội bộ, hạ uy tín của Đảng và Nhà nước, phục vụ cho hoạt động chính trị phản động, lấy cớ “dân chủ”, “nhân quyền”; liên kết với các tổ chức phản động lưu vong, nuôi ý đồ thành lập, công khai hoá tổ chức chính trị đối lập. 
“Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, lực lượng bên trong kết hợp, móc nối, câu kết, ủng hộ, khích lệ, cổ vũ, giúp đỡ với cá nhân, tổ chức bên ngoài để thực hiện “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ chống phá Đảng và chế độ XHCN ở Việt Nam.
Âm mưu, thủ đoạn chống phá
Những âm mưu, thủ đoạn các thế lực thù địch tập trung chống phá, “diễn biến hòa bình” đối với cách mạng Việt Nam có thể tổng quát phương châm của họ là: lấy chống phá về chính trị, tư tưởng làm khâu đột phá; lấy mua chuộc kinh tế làm mũi nhọn; lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo làm ngòi nổ; dùng ngoại giao để hỗ trợ, hậu thuẫn. Đối với “chiến dịch” chống phá Đại hội XIII của Đảng, âm mưu, phương thức, thủ đoạn của họ thể hiện ở một số điểm sau đây:
Một là, xuyên tạc bản chất ưu việt của chế độ XHCN, thể chế chính trị ở Việt Nam, hướng lái từ bỏ mục tiêu, con đường đi lên CNXH. Đây là cái đích trong chiến lược “diễn biến hoà bình”; tác động vào nhận thức, nội bộ nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, hiện thực hóa mục tiêu chệch hướng XHCN, thủ tiêu chế độ xã hội, lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
Hai là, xuyên tạc nền tảng tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng, công tác cán bộ, nhân sự Đại hội XIII, thực tiễn công tác phòng, chống tham nhũng của Đảng trong nhiệm kỳ qua… suy diễn xuyên tạc, vẽ ra tình cảnh “khủng hoảng toàn diện”, “tình thế hiểm nghèo”, “Tổ quốc lâm nguy”, “nội bộ lục đục, mất đoàn kết”… Thực tế chỉ là ngụy tạo để đòi hỏi phải “cải cách”, “đổi mới” chính trị từ gốc là từ bỏ nền tảng tư tưởng, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng.
Ba là, với luận điệu sai trái, thù địch nêu trên, họ nhằm tạo nhận thức sai lệch, mơ hồ, hoài nghi, hoang mang, dao động, tác động vào niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Kích động người dân, nhất là phần tử cơ hội, bất mãn, khoét sâu yếu kém, hạn chế, bất cập, tạo tâm lý bức xúc, chống đối, mất an ninh, trật tự trong đời sống xã hội.
Bốn là, phương thức của họ là triệt để lợi dụng kênh truyền thông internet, mạng xã hội, các trung tâm truyền thông, các trang mạng, blog hải ngoại tạo thành “chiến dịch” đồng loạt, “tiền hô hậu ủng”, cổ suý, hậu thuẫn, tuyên truyền, xuyên tạc đánh vào nhận thức, tâm lý người dân theo kiểu “mưa dầm thấm lâu”, “góp gió thành bão”.
Năm là, lợi dụng sự kiện có thật, khoét sâu vào những thiếu sót, yếu kém, hạn chế trong đời sống xã hội để tạo cớ xuyên tạc, vu cáo như: Các vụ án kinh tế, tham nhũng, tình hình Biển Đông, sự cố môi trường, vụ việc Đồng Tâm, dịch bệnh, vụ án Hồ Duy Hải, Lương Hữu Phước... Trên cơ sở đó, suy diễn, xuyên tạc theo chiều hướng tiêu cực, nhằm tạo ra những nhận thức lệch lạc, tâm lý bức xúc, ức chế, bất mãn đối với chế độ, chính quyền; kích động hành vi chống đối, biểu tình, bạo loạn, lật đổ.
Sáu là, củng cố các tổ chức đội lốt “dân chủ”, “nhân quyền”, “xã hội dân sự”, mua chuộc, lôi kéo, tập hợp lực lượng, tổ chức, kêu gọi biểu tình trái pháp luật. Phương châm của họ là “tích tiểu thành đại”, các hoạt động, tập hợp lực lượng đủ lớn, đủ mạnh, thúc đẩy các cuộc biểu tình, “cách mạng đường phố”, “cách mạng màu” là sức ép, phương thức để lật đổ thể chế chính trị, vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Rõ ràng đây là những âm mưu thâm độc, nguy hiểm với phương thức, thủ đoạn hết sức tinh vi, mỗi cán bộ, đảng viên, nhân dân cần phải đề cao cảnh giác, nhận diện, đấu tranh.

MƯU ĐỒ CỦA NHỮNG ĐỐI TƯỢNG KHOÁC ÁO DÂN CHỦ KÍCH ĐỘNG BIỂU TÌNH



Nước Mỹ đang trải qua những ngày tháng thách thức khi biểu tình, bạo lực đã và đang xảy ra tại hàng chục thành phố lớn sau khi cảnh sát bắt giữ và làm một công dân da màu tử vong tại bang Minnesota ngày 25/5. Cái chết của George Floyb khi bị một cảnh sát đè cổ đã thổi bùng làn sóng đấu tranh với nạn phân biệt chủng tộc tại xứ cờ hoa nhiều thập kỷ qua.
Mâu thuẫn sắc tộc tại Mỹ như ngọn lửa ẩn giấu bên trong xã hội từ rất lâu và nay được dịp bùng phát chỉ với một mồi lửa nhỏ. Hậu quả của sự leo thang từ các vụ biểu tình chuyển biến thành bạo lực, cướp bóc, tiếng súng nổ khắp nơi, các cuộc biểu tình tiếp tục lan rộng khắp nước Mỹ, nhiều cửa hàng, trụ sở cảnh sát bị đập phá, thậm chí người biểu tình còn tấn công cả Nhà Trắng, buộc chính quyền phải ra lệnh giới nghiêm ở nhiều bang.
Chính quyền phải điều động quân đội và lực lượng vệ binh để đảm bảo an ninh, trật tự. Việc này mới chỉ phần nào chấm dứt các cuộc bạo động chứ chưa xoa dịu làn sóng biểu tình. Những gì đang xảy ra đã cho thấy một nước Mỹ thật khác đang bị phơi bày mà trước đó, những hình ảnh này chỉ thường được xem ở những bộ phim bom tấn Hollywood.
Xung quanh vấn đề nêu trên, một số nhà “dân chủ” tự xưng ở Việt Nam, các tờ báo như RFA, BBC, VOA… sau một thời gian tỏ ra thờ ơ, vô cảm với biểu tình ở Mỹ thì nay đã lên tiếng. Thay vì lên án nạn phân biệt chủng tộc và cách hành xử của một số cảnh sát Mỹ, họ lại tỏ ra hào hứng khi ca tụng các vụ biểu tình tại Mỹ và mơ tưởng về việc Việt Nam sẽ diễn ra biểu tình và bạo loạn phá hoại như ở Mỹ.
Âm mưu của các đối tượng là muốn Việt Nam sẽ có biểu tình, bạo loạn như Mỹ hiện nay, muốn tái hiện kịch bản phá hoại an ninh chính trị, môi trường đầu tư đã từng diễn ra tại một số nhà máy của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam khi số cực đoan được sự hỗ trợ của các thế lực thù địch lấy lý do phản đối việc Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào vùng lãnh hải của Việt Nam (năm 2014) hay như các vụ biểu tình, gây rối an ninh, trật tự nhằm khiếu kiện nhà máy Formosa gây ô nhiễm môi trường biển tại một số tỉnh miền Trung (2016), đặc biệt là vụ bạo động tại Bình Thuận (2018) do các đối tượng xấu kích động với lý do phản đối Dự thảo Luật Đặc khu…
Tất cả các vụ việc phức tạp trên đều có bàn tay của các thế lực thù địch, số đối tượng phản động, cực đoan ở trong nước, mục tiêu đều hướng tới tập dượt cho cái gọi là “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố” nhằm làm tê liệt hệ thống chính trị cơ sở và dần lan rộng ra khắp các thành phố lớn, đích cuối cùng của họ chính là nhằm lật đổ chế độ XHCN ở Việt Nam.
Rõ ràng, những nhà “dân chủ” tự xưng đã và đang “vạch áo cho người xem lưng”, chứng minh bản chất trong việc ngấm ngầm tuyên truyền, kích động tâm lý tiêu cực tới một bộ phận quần chúng nhân dân, nhất là giới trẻ qua các vụ biểu tình tại Mỹ hay như tại Hồng Kông (năm 2019). Đây là tiền đề để khi tình hình chính trị, kinh tế, xã hội nước ta có những biến động, các đối tượng này sẽ “thừa nước đục thả câu”, lợi dụng kích động, lôi kéo người dân tham gia các hoạt động chống phá.
Bên cạnh đó, các đối tượng còn chứng tỏ sự cực đoan khi “khóc thuê cho người Mỹ”. Với họ, lâu nay hình mẫu nước Mỹ được xem là biểu tượng tiêu biểu về sự quy chuẩn của tự do, dân chủ, nhân quyền và họ luôn miệng rêu rao đòi Việt Nam phải học theo Mỹ. Không ít lần họ ca cẩm, lên án Việt Nam vi phạm “dân chủ”, “nhân quyền”, đàn áp những người “bất đồng chính kiến”, quốc tế hóa các vấn đề trên và không quên “nhờ cậy” Mỹ can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, thậm chí một số đối tượng tôn giáo cực đoan còn yêu cầu Hoa Kỳ đưa Việt Nam trở lại nhóm CPC (nhóm các quốc gia đáng quan tâm về vấn đề tự do tôn giáo) vì cho rằng “Việt Nam đàn áp tôn giáo”, Việt Nam không có “tự do tôn giáo”…
Là những người luôn rêu rao đi đầu trong phong trào đấu tranh đòi “dân chủ”, “nhân quyền”, nhưng suốt thời gian qua, họ không có một động thái lên án, không bình luận và không phê phán bất kỳ một tin, hình ảnh nào về cuộc biểu tình bạo loạn của Mỹ đã chứng tỏ những gì họ vẫn khua môi, múa mép trước đây chỉ là diễn trò để mưu đồ gây bạo loạn ở Việt Nam. Điều này đã lật mặt những nhà “dân chủ” giả hiệu khi họ chính là những kẻ ăn bám Mỹ và các thế lực thù địch bên ngoài, cho nên đương nhiên họ không bao giờ nói xấu về nước Mỹ.
Hơn nữa, qua bức tranh tổng thể về hậu quả do cuộc biểu tình, bạo loạn tại nước Mỹ đã và đang rất nghiêm trọng sẽ là sự cảnh tỉnh cho những ai luôn mong muốn và lấy cảm hứng từ các cuộc biểu tình của nền dân chủ Mỹ để mong rằng Việt Nam sẽ có nhiều cuộc biểu tình tương tự với hy vọng “biểu tình để đất nước phát triển”.
Đây thực chất là âm mưu của những kẻ phá hoại đất nước. Giấc mơ về các cuộc biểu tình chẳng qua mong muốn biến đất nước ta thành bãi chiến trường của các cuộc cách mạng màu, cách mạng đường phố. Bài học từ những biểu hiện của cái gọi là cách mạng màu diễn ra ở các nước Đông Âu, Trung Đông và Bắc Phi dẫn tới việc các quốc gia này rơi vào khủng hoảng chính trị, nội chiến, chết chóc và sự bất ổn. Cho nên, biểu tình chỉ là cái cớ để dẫn đến các cuộc bạo loạn phá hoại làm suy yếu sức mạnh của chính quyền, làm giảm hiệu lực của pháp luật.
Người dân Việt Nam vốn yêu chuộng hòa bình, luôn mong muốn có một môi trường tốt đẹp, hòa bình, ổn định để sinh sống và lao động sản xuất. Cho nên, những gì đang diễn ra ở Mỹ, người Việt Nam sẽ chẳng bao giờ mơ ước một nền dân chủ vô pháp khi nó đang gây họa với nước Mỹ. Chỉ có những kẻ cực đoan mới mơ ước điều này xảy ra.
Đặc biệt, sau những biến cố từ các cuộc biểu tình, đình công, bạo động, cướp bóc tại một số khu công nghiệp và trụ sở các cơ quan công quyền tại Hà Tĩnh, Bình Dương, Bình Phước trước đây khi những người hám lợi, nhẹ dạ cả tin bị những đối tượng xấu kích động, mua chuộc tham gia các hoạt động gây rối an ninh trật tự, để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng đã thức tỉnh nhận thức của mỗi người dân Việt Nam thấy được giá trị to lớn của hai chữ “bình yên”. 

VẪN LẶP LẠI NHỮNG ĐIỂM THIẾU KHÁCH QUAN TRONG BÁO CÁO CỦA BỘ NGOẠI GIAO HOA KỲ



Vừa qua, Ủy hội Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ đã công bố Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế (TDTGQT) thường niên năm 2019. Báo cáo năm nay vẫn đưa ra những chỉ trích thiếu khách quan: “Việt Nam tiếp tục đàn áp tôn giáo”. 
Bình luận về Báo cáo này, nhiều tài khoản trên mạng cho rằng đó vẫn chỉ là “bổn cũ chép lại”. Vẫn còn những thông tin thiếu khách quan về chính sách, pháp luật và thực tế quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam.
Xin được trích lại và có đôi lời về Báo cáo TDTGQT. Báo cáo viết: “Nhà nước đàn áp nhắm vào các nhóm tôn giáo không được chính quyền thừa nhận”,… cán bộ “sách nhiễu, đánh đập, bắt giữ, truy tố, theo dõi, cấm đi lại đối với những người theo các nhóm tôn giáo không được nhà nước cho đăng ký”. Báo cáo viện dẫn ở Nghệ An, đó là trường hợp thầy giáo Nguyễn Năng Tĩnh bị tù 11 năm với cáo buộc “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”.
Còn trong văn bản thứ 2 “Báo cáo mới về tù nhân tôn giáo tại Việt Nam” (đưa ra sau 1 ngày – 10/6/2020, sau báo cáo TDTGQT) thì các thông tin không có gì mới mà chỉ lắp lại những thông tin trong báo cáo TDTGQT… Tuy nhiên, báo cáo này có nhấn mạnh thêm “Điều kiện giam giữ trong các nhà tù ở Việt Nam vi phạm những chuẩn mực quốc tế, từ chối không cho các tù nhân tôn giáo được tiếp cận các nghi lễ phụng tự của tôn giáo mà họ tin theo… Đơn đăng ký thường bị ngâm nhiều tháng hay thậm chí nhiều năm mà không cho biết quyết định giải quyết”.
Như nhiều người đã biết, hằng năm, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đều đưa ra 2 bản báo cáo: 1- “Báo cáo về tình hình nhân quyền trên thế giới” và 2- “Báo cáo về tự do tôn giáo quốc tế”. Hai báo cáo này tuy gọi là về “tình hình thế giới” nhưng Hoa Kỳ tập trung chỉ trích vào những nhà nước do các Đảng Cộng sản lãnh đạo, cầm quyền, đặc biệt là Việt Nam.
Còn nhớ năm 2004, Hoa Kỳ đã đưa Việt Nam vào danh sách CPC (Những quốc gia cần quan tâm đặc biệt) nhưng đến năm 2006, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã rút tên Việt Nam khỏi danh sách CPC… Năm nay, Báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã thừa nhận: “Việt Nam có một số tiến bộ nhất định trong việc cho phép người dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng”… Tuy nhiên, họ vẫn kêu gọi chính phủ Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách CPC.
Trong báo cáo năm nay, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã cung cấp thêm thông tin về số lượng, tỷ lệ đồng bào có đạo ở Việt Nam. Theo thống kê hiện Việt Nam có khoảng hơn 97 triệu dân với khoảng 26,4% dân số là những người đang thực hành các hoạt động tín ngưỡng được đăng ký.
Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Mỹ ước tính 90% dân số Việt Nam theo một đức tin truyền thống nào đó bao gồm cả dạng được đăng ký với nhà nước và dạng không đăng ký. Đạo Phật là đạo lớn nhất tại Việt Nam với khoảng 14,9% dân số, tiếp theo là Công giáo với khoảng 7,4% dân số. Chưa bàn con số trên thì người đọc đã thấy rằng, Báo cáo TDTGQT của Hoa Kỳ là mâu thuẫn và vô lý. Nhà nước Việt Nam không có lý do gì để chống lại 26,4% (khoảng 237 triệu người) có đạo.
Mặt khác, chính trong báo cáo năm nay, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã thừa nhận rằng “90% dân số Việt Nam theo một đức tin truyền thống nào đó bao gồm cả dạng được đăng ký với nhà nước và dạng không đăng ký”. Điều này có nghĩa, ở Việt Nam vẫn đang tồn tại một số người có đạo “không/chưa đăng ký” nhưng họ vẫn thực hiện các nghi thức tôn giáo.
Điều đáng tiếc là, những người chắp bút Báo cáo TDTGQT năm nay vẫn đưa ra một số thông tin thiếu kiểm chứng, thiếu thiện chí với Việt Nam. Chẳng hạn, Báo cáo cho rằng ở Việt Nam, các tôn giáo luôn bị “sách nhiễu, đánh đập, bắt giữ, truy tố, theo dõi, cấm đi lại đối với những người theo các nhóm tôn giáo không được nhà nước cho đăng ký”.
Chính sách, pháp luật Việt Nam quy định, các tôn giáo phải đăng ký với chính quyền các cấp. Đương nhiên, những tổ chức đã đăng ký sẽ được Nhà nước bảo hộ. Những tổ chức nào không hoặc chưa đăng ký thì không được bảo hộ. Nhà nước Việt Nam là nhà nước của tất cả dân tộc, của các tôn giáo, tín ngưỡng. Tất cả đều có quyền bình đẳng như nhau. Không có chuyện một tôn giáo nào đó áp đặt cho nhà nước quyền của mình (không phải đăng ký…).
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo. Theo thống kê điều tra dân số gần đây nhất, đến nay, Việt Nam có 38 tổ chức tôn giáo, trên 24 triệu tín đồ, 80.000 chức sắc và hơn 26.000 cơ sở thờ tự. Đông đảo người có đạo đã và đang tham gia các hoạt động chung của xã hội, đoàn kết xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”; nhiều chức sắc tôn giáo có uy tín đã được bầu vào Quốc hội, HĐND các cấp và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được đưa vào Hiến pháp 2013, sau đó đã được thể chế hóa trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, 2016. Khác với Pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo trước đây, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016 đã mở rộng đối tượng thụ hưởng, kể cả người nước ngoài, người đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành án vẫn có quyền cầu nguyện…
Việt Nam đã đơn giản hóa những thủ tục cấp phép hoạt động trước đây, như phải xin phép trước các lễ hội, nay chỉ cần gửi thông báo có hoạt động là được. Tuy nhiên ở Việt Nam, tôn giáo không phải là những tổ chức “đặc biệt”, muốn làm gì cũng được mà phải tuân thủ pháp luật như các tổ chức xã hội khác, phải đăng ký, phải được chính quyền cho phép…
Vừa qua, trong công tác phòng, chống dịch COVID-19, nhiều giáo phận Thiên Chúa giáo đã chấp hành “giãn cách xã hội”, không tập trung cầu nguyện ở nhà thờ. Ở Hà Tĩnh - theo Giám mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp, việc người dân tập trung cầu nguyện tại nhà thờ đã được điều chỉnh, dưới nhiều hình thức, trong đó có hình thức “Làm lễ trực tuyến, một số nhóm người nhỏ, không mở cửa nhà thờ cho đông người vào”.
Được biết, ngày 27/3, Tòa Giám mục giáo phận Hà Tĩnh đã có Thông báo số 03 gửi các chức sắc và cộng đồng Thiên Chúa giáo về các lưu ý trong phụng vụ để phòng tránh dịch bệnh COVID-19. Thông báo nêu: “Đại dịch COVID-19 ngày càng gây tác hại nghiêm trọng…, nay Tòa Giám mục thông báo: “Các cha dâng thánh lễ hằng ngày, kể cả Chúa Nhật, lễ trọng với một số rất ít người tham dự và bắt buộc phải đeo khẩu trang. Hủy bỏ các chương trình tập trung đông người. Khuyến khích làm các việc lành này trong nội bộ gia đình mỗi người”.
Như vậy có thể nói: Quyền TDTG ở nước ta được tôn trọng và bảo vệ. Quyền này không chỉ được quy định trong Hiến pháp mà đảm bảo cả ở trong hoạt động thực tiễn. Mặt khác, tuyệt đại các chức sắc và đồng bào có đạo đều tuân thủ chính sách pháp luật Quốc gia về tín ngưỡng, tôn giáo. Báo cáo về tình hình tôn giáo ở Việt Nam của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ 2019 mới công bố là chưa đúng sự thật.



MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM KỶ LUẬT, PHÁP LUẬT TRONG QUÂN ĐỘI



Tăng cường giáo dục, rèn luyện, phòng, chống vi phạm kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước cho quân nhân có ý nghĩa rất quan trọng. Vì vậy, các cơ quan, đơn vị cần nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng, phát hiện nguyên nhân, tiến hành đồng bộ các giải pháp phòng, chống vi phạm kỷ luật, pháp luật, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện “tiêu biểu, mẫu mực”, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Thực hiện căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bộ đội không có kỷ luật, đánh giặc nhất định thua”1 và “Quân đội mạnh là nhờ giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng và nhờ kỷ luật nghiêm”2; đồng thời, quán triệt, thực hiện khâu đột phá về chấp hành kỷ luật, pháp luật mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X đã xác định, những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của trên về công tác phòng, chống vi phạm kỷ luật, pháp luật và bảo đảm an toàn tuyệt đối, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Nổi bật là: công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong toàn quân có sự đổi mới mạnh mẽ cả về nội dung, hình thức, phương pháp và từng bước đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực. Nhiều đơn vị đã lồng ghép công tác giáo dục với biện pháp quản lý hành chính, duy trì kỷ luật, kỷ cương và quan tâm đến đời sống của cán bộ, chiến sĩ. Tuyệt đại  đa số cán bộ, chiến sĩ ổn định tư tưởng, yên tâm công tác, gắn bó xây dựng cơ quan, đơn vị, tự giác chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội; nền nếp, chế độ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, công tác, học tập, sinh hoạt được duy trì chặt chẽ, nghiêm túc; nội bộ đoàn kết, thống nhất, mối quan hệ cán bộ với chiến sĩ, cấp trên với cấp dưới được giải quyết hài hòa, phát huy tốt những giá trị, nét đẹp văn hóa quân sự, phẩm chất, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Tình hình vi phạm kỷ luật, pháp luật trong toàn quân có chuyển biến tích cực, toàn diện, rõ nét, có chiều hướng giảm dần trên các tiêu chí về tổng số vụ, số đối tượng vi phạm3. Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Tuy nhiên, sự chuyển biến tiến bộ về chấp hành kỷ luật, pháp luật, xây dựng chính quy, xây dựng đơn vị an toàn của các cơ quan, đơn vị chưa thực sự vững chắc. Tình hình chấp hành kỷ luật, pháp luật vẫn còn diễn biến phức tạp, các vụ vi phạm kỷ luật, pháp luật gây thiệt hại nghiêm trọng về người, tài sản vẫn còn xảy ra. Đáng chú ý là, những năm gần đây, xuất hiện một số loại tội phạm mới, phi truyền thống, có tính chất rất phức tạp, như: tội phạm sử dụng công nghệ cao, sử dụng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để chiếm đoạt tài sản. Một số loại vụ việc xảy ra chiếm tỷ lệ cao trên tổng số vụ việc, gây thiệt hại nghiêm trọng về người, tài sản, ảnh hưởng đến uy tín của Quân đội, điển hình là: tai nạn giao thông chiếm 34,81%; cố ý gây thương tích chiếm 5,05%; tự tử, tự sát chiếm 3,97%; đánh bạc chiếm 1,7%; giết người chiếm 1,08%; vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, gây thất thoát, lãng phí chiếm 0,68%, v.v.
Nguyên nhân của các vụ việc vi phạm kỷ luật, pháp luật trong Quân đội có cả khách quan và chủ quan, nhưng qua tìm hiểu thấy rằng chủ yếu là do: cấp ủy, chỉ huy một số cơ quan, đơn vị chưa thực sự quan tâm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện công tác phòng, chống vi phạm kỷ luật, pháp luật; thực hiện có lúc, có nơi còn chiếu lệ, hình thức; chưa phát huy tốt vai trò và huy động được mọi lực lượng tham gia. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở một số cơ quan, đơn vị hiệu quả còn thấp; nội dung, hình thức, phương pháp còn đơn điệu; việc lồng ghép, gắn giáo dục chính trị với phổ biến, giáo dục pháp luật, rèn luyện kỷ luật bộ đội còn hạn chế; chưa chú trọng giáo dục, rèn luyện tích lũy kinh nghiệm, bồi dưỡng kỹ năng sống, kỹ năng ứng xử, giao tiếp cho bộ đội, nên khi gặp tình huống khó khăn, phức tạp dễ dẫn đến chán nản, tiêu cực, mất phương hướng, bế tắc về tư tưởng và hành động. Việc duy trì, thực hiện nền nếp chính quy, rèn luyện kỷ luật, quản lý bộ đội, quản lý vũ khí, trang bị, cơ sở vật chất,… tại một số đơn vị chưa nghiêm. Công tác kiểm tra, đôn đốc của chỉ huy các cấp chưa thường xuyên, thiếu tỷ mỷ, chưa chủ động, kiên quyết; phương pháp, tác phong công tác của một số cán bộ cấp phân đội chưa gương mẫu, chưa khoa học, còn chủ quan, đơn giản, chưa có nhiều biện pháp, kinh nghiệm trong quản lý, rèn luyện kỷ luật và xây dựng nền nếp chính quy. Khi phát sinh những biểu hiện tiêu cực hoặc có vụ việc xảy ra, chưa chú trọng tìm hiểu nguyên nhân, thiếu kiên trì giáo dục, thuyết phục, nặng về biện pháp hành chính, mệnh lệnh; xử lý chưa kiên quyết, dứt điểm, không dự kiến được tình hình để có biện pháp phòng ngừa; báo cáo chưa kịp thời, không trung thực, còn che giấu khuyết điểm vì sợ ảnh hưởng đến thành tích của đơn vị và cá nhân. Một số cán bộ, chiến sĩ nhận thức, tinh thần tự giác, ý thức chấp hành kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước còn hạn chế. Công tác tuyển chọn công dân nhập ngũ, tuyển sinh quân sự còn có những sơ hở, thiếu sót; việc phối hợp với cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể địa phương và gia đình quân nhân trong nắm tình hình địa bàn, tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của quân nhân thuộc quyền chưa thường xuyên, bị động khi có vụ việc xảy ra.
Để khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, kịp thời ngăn chặn, xử lý các vụ việc vi phạm; phòng, chống vi phạm kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước, đặc biệt là kỷ luật nghiêm trọng, tạo chuyển biến mạnh mẽ, vững chắc về tư tưởng, kỷ luật, góp phần nâng cao chất lượng xây dựng chính quy, sức mạnh, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, các cơ quan, đơn vị cần nghiên cứu, thực hiện một số nội dung, giải pháp cơ bản sau:
Một là, phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo phòng, chống vi phạm kỷ luật, pháp luật trong Quân đội. Đây là nguyên nhân chung dẫn tới những hạn chế, khuyết điểm trong công tác phòng, chống vi phạm kỷ luật, pháp luật ở các cơ quan, đơn vị thời gian qua. Do vậy, thực hiện tốt nội dung, giải pháp này có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, giáo dục, chấp hành kỷ luật, xây dựng đơn vị an toàn, phòng, chống vi phạm kỷ luật, pháp luật trong Quân đội. Quán triệt các chỉ thị, nghị quyết, hướng dẫn của trên, trọng tâm là: Kết luận số 1249-KL/QUTW, ngày 27/11/2019 của Quân ủy Trung ương về tình hình chấp hành kỷ luật của toàn quân; Chỉ thị số 103/CT-BQP, ngày 28/11/2019 của Bộ Quốc phòng về việc tiếp tục tăng cường quản lý, giáo dục chấp hành kỷ luật và bảo đảm an toàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam; Hướng dẫn số 2556/HD-CT, ngày 30/12/2019 của Tổng cục Chính trị về công tác đảng, công tác chính trị trong quản lý, giáo dục chấp hành pháp luật, kỷ luật Quân đội và bảo đảm an toàn trong Quân đội nhân dân Việt Nam, v.v. Cấp ủy các cấp xây dựng nghị quyết chuyên đề lãnh đạo tăng cường công tác quản lý, giáo dục chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội và bảo đảm an toàn; nghị quyết, kết luận lãnh đạo thường kỳ của các cấp ủy cần xác định rõ công tác giáo dục pháp luật, phòng, chống vi phạm pháp luật, kỷ luật, bảo đảm an toàn đơn vị là một khâu đột phá, nội dung trọng tâm, phải thường xuyên rà soát, bổ sung chủ trương, biện pháp lãnh đạo. Đồng thời, phải được cụ thể hóa vào kế hoạch công tác của chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cán bộ chủ trì các cấp, sát yêu cầu nhiệm vụ. Trong thực hiện, cần phát huy vai trò, trách nhiệm, tính tiền phong gương mẫu, sáng tạo của đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì các cấp, cán bộ trực tiếp quản lý, chỉ huy, duy trì cơ quan, đơn vị chấp hành nền nếp chính quy, rèn luyện kỷ luật, bảo đảm an toàn. Để thực hiện thống nhất và đạt hiệu quả, các đơn vị thường xuyên rà soát, bổ sung hệ thống quy chế, nội quy, quy định; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, tiến hành tốt việc sơ kết, tổng kết, phát hiện, nhân rộng cách làm hay, mô hình hiệu quả; chấn chỉnh, khắc phục khấu yếu, mặt yếu, nhân rộng đơn vị vững mạnh toàn diện “tiêu biểu, mẫu mực” ở các cơ quan, đơn vị.
Hai là, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng. Đây là nội dung cấp thiết, đồng thời là yêu cầu đã được đưa vào chương trình giáo dục chính trị bắt buộc cho các đối tượng trong Quân đội. Vì vậy, hoạt động giáo dục cần phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện theo hướng đồng bộ, thiết thực, hiệu quả, với các biện pháp phù hợp tình hình cơ quan, đơn vị, đối tượng quản lý, được tiến hành thường xuyên, liên tục; gắn công tác này với mọi hoạt động của đơn vị. Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu, rộng hiện nay, vấn đề giáo dục, xây dựng đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh cho cán bộ, chiến sĩ có ý nghĩa rất quan trọng. Phải lấy việc xây dựng lối sống “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để đấu tranh có hiệu quả lối sống thực dụng, vị kỉ, vi phạm nhân cách đạo đức, vi phạm kỷ luật, pháp luật; coi trọng giáo dục những tiêu chí đạo đức của người quân nhân cách mạng. Bên cạnh đó, cần chủ động giải quyết những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống, hoạt động và các mối quan hệ của cán bộ, chiến sĩ, giữa cá nhân với tập thể, cấp trên với cấp dưới, quan hệ đồng chí, đồng đội, quan hệ với nhân dân. Để đạt hiệu quả, cần gắn kết với thực hiện các cuộc vận động, phong trào Thi đua Quyết thắng, nhất là Cuộc vận động Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế Dân chủ cơ sở;  xây dựng đơn vị có môi trường văn hóa lành mạnh; phát huy tốt vai trò của các thiết chế văn hóa. Cán bộ các cấp gần gũi, gắn bó cán - binh, coi chiến sĩ như những người thân để nắm, quản lý tốt tình hình, diễn biến tư tưởng bộ đội; chủ động phát hiện những biểu hiện tiêu cực, không để xảy ra bất ngờ. Kịp thời động viên, giải quyết những vướng mắc và có biện pháp ngăn chặn các hành vi vi phạm, tiêu cực có thể xảy ra, tránh các biểu hiện thụ động, giản đơn trong công tác giáo dục chính trị, giáo dục pháp luật, kỷ luật và nắm tư tưởng bộ đội.
Ba là, thực hiện nghiêm các chế độ, nền nếp xây dựng chính quy, quản lý bộ đội, vũ khí trang bị, phương tiện, cơ sở vật chất và xử lý nghiêm vi phạm. Đây là nội dung rất quan trọng trong xây dựng chính quy, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện - vấn đề then chốt trong duy trì chấp hành kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước. Trong thực hiện, chỉ huy các cấp, nhất là ở cơ sở cần phát huy tốt vai trò, trách nhiệm, thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn; nắm chắc các quy định của Điều lệnh, chế độ công tác của người chỉ huy; nâng cao tính tổ chức, tính kỷ luật, tính kế hoạch trong chỉ huy, điều hành đơn vị; khắc phục tình trạng độc đoán, tùy tiện. Quản lý chặt chẽ đơn vị và mọi hoạt động của quân nhân, tạo thành ý thức tự giác, thói quen chấp hành chế độ, chấp hành kỷ luật, pháp luật. Tăng cường công tác quản lý con người, vũ khí, cơ sở vật chất, tài sản công, các giấy tờ tùy thân của quân nhân theo đúng quy định. Duy trì thực hiện nghiêm các quy định về đảm bảo an toàn, hạn chế thấp nhất các vụ tai nạn trong huấn luyện, học tập, công tác, lao động và tai nạn rủi ro gây hậu quả nghiêm trọng. Khi thực hiện nhiệm vụ ngoài doanh trại, cần quản lý chặt chẽ vũ khí, trang bị, phương tiện, nhất là trong giờ nghỉ, ngày nghỉ, tránh để xảy ra các vụ việc chiếm đoạt vũ khí, vật liệu nổ và các vi phạm khác. Tổ chức, duy trì lực lượng kiểm soát quân sự thường xuyên kiểm tra người và phương tiện quân sự; cấm hạ sĩ quan - chiến sĩ sử dụng xe máy tham gia giao thông; thực hiện nghiêm Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia và các quy định về sử dụng rượu, bia trong sinh hoạt, học tập công tác và khi tham gia giao thông. Khi có vụ việc xảy ra, phải báo cáo kịp thời chỉ huy và cơ quan chức năng để chỉ đạo, giải quyết; nhanh chóng ổn định tình hình đơn vị, tránh để xảy ra đơn thư vượt cấp, khiếu kiện kéo dài. Căn cứ vào tính chất, mức độ và thẩm quyền theo quy định, phải điều tra, xử lý nghiêm những người vi phạm kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước và trách nhiệm liên đới của người chỉ huy để giáo dục, răn đe, phòng ngừa chung. Kiên quyết khắc phục tình trạng che giấu vụ việc, gây khó khăn cho công tác điều tra, xử lý và việc dự báo, đánh giá tình hình vi phạm pháp luật, kỷ luật của lãnh đạo, chỉ huy và cơ quan chức năng.
Đồng bộ với các giải pháp trên, các cơ quan, đơn vị cần tiếp tục nghiên cứu, phát huy tốt vai trò của các tổ chức, lực lượng trong đơn vị, như: hội đồng quân nhân, đoàn thanh niên, công đoàn, phụ nữ; phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương và gia đình quân nhân,… để giáo dục, rèn luyện, phòng, chống vi phạm pháp luật, kỷ luật cho quân nhân. Quan tâm chăm lo, bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ. Thường xuyên nắm chắc tình hình, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh không để các thế lực thù địch, phản động, phần tử xấu cài cắm, móc nối vào nội bộ và những tiêu cực xã hội xâm nhập vào cơ quan, đơn vị, xây dựng đơn vị an toàn, gắn với địa bàn an toàn.
1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 10, Nxb CTQG, H.2011, tr. 537.
2 - Sđd, Tập 7, tr. 483.
3 - Theo số liệu thống kê: năm 2018 giảm 8,0% so với năm 2017; năm 2019 giảm 1,2% so với năm 2018.

PHÒNG, CHỐNG LÃNG PHÍ TRONG QUÂN ĐỘI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH



Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: lãng phí là vấn nạn rất nguy hại cho Đảng, Tổ quốc và Nhân dân. Hiện nay, Đảng ta xác định lãng phí là một trong những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và đặt ra yêu cầu phải kiên quyết phòng, chống ở các cấp, các ngành, góp phần xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới.
Trong suốt cuộc đời cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm việc nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nói riêng. Ngay từ những ngày đầu chống thực dân Pháp xâm lược, Người đã căn dặn phải thực hành tiết kiệm để kháng chiến, kiến quốc, đồng thời phải tẩy sạch nạn tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu. Khi nói về vấn nạn lãng phí, Người diễn đạt một cách đơn giản, dễ hiểu làm cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, đồng bào ai cũng có thể thực hành và đấu tranh phòng, chống được. Theo Hồ Chí Minh, lãng phí bao gồm sức lao động, thời giờ, tiền của, v.v. Lãng phí là không biết thương tiếc mồ hôi nước mắt của nhân dân ta, không biết quý trọng sự giúp đỡ chí tình của nhân dân các nước anh em; lãng phí có mối liên hệ “đồng minh” với các căn bệnh khác như quan liêu, tham ô. Người viết: “Tuy không trộm cắp của công như tham ô, nhưng lãng phí cũng làm cho nhân dân và Chính phủ thiệt thòi, hao tổn, kết quả thì lãng phí cũng có tội như tham ô”1; phải xem quan liêu, tham ô, lãng phí là những tội lỗi đối với Tổ quốc, đối với đồng bào; “Không khác gì gián điệp giết hại đồng bào”2.
Từ khi ra đời đến nay, cán bộ, chiến sĩ Quân đội luôn khắc ghi, học tập và làm theo lời dạy của Người, chú trọng đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần tô thắm truyền thống vẻ vang “Bộ đội Cụ Hồ”. Tuy nhiên, trong từng cơ quan, đơn vị, đâu đó vẫn còn hiện tượng lãng phí, gây thất thoát vật tư, tài chính, tài sản của Nhà nước, nhân dân, thời gian, công sức của bộ đội. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến truyền thống, bản chất cách mạng của Quân đội. Vì vậy, phòng, chống căn bệnh lãng phí theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ cấp bách, cơ bản, lâu dài của toàn quân. Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quan trọng này, góp phần xây dựng Quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị toàn quân cần tiến hành đồng bộ các giải pháp cơ bản sau:
Trước hết, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ toàn quân về nhiệm vụ phòng, chống lãng phí. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội: lãng phí là có tội với Đảng, Nhà nước, Nhân dân và việc đấu tranh khắc phục, loại bỏ cũng quan trọng và cần kíp như đánh giặc trên mặt trận. Đây là mặt trận tư tưởng và chính trị. Để phòng, chống hiệu quả những biểu hiện lãng phí, các cơ quan, đơn vị phải tăng cường công tác giáo dục, làm rõ tính chất nguy hại của tình trạng lãng phí tiền của, tài sản của Nhà nước, Nhân dân, lãng phí công sức của bộ đội; đấu tranh với tư tưởng “cha chung không ai khóc”, “nước sông, công lính”, biểu hiện phô trương, hình thức và phải kiên quyết sửa chữa những ý nghĩ sai lầm đó. Trên cơ sở đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ coi lãng phí cũng là một loại “giặc trong lòng ta” cần kiên quyết phòng, chống, đấu tranh loại bỏ, làm cho cán bộ, chiến sĩ nhận thức sâu sắc rằng cơ sở vật chất, vũ khí trang bị... đều do mồ hôi, nước mắt, công sức, thậm chí cả máu của nhân dân làm ra và cung cấp cho Quân đội, nên không được lãng phí. Vì thế, các đơn vị cần tiếp tục đẩy mạnh việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện hiệu quả cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới; cụ thể hóa thực hiện chỉ thị, chương trình hành động về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí của Bộ Quốc phòng bằng những việc làm cụ thể gắn với từng vị trí, cương vị công tác. Đặc biệt, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tăng cường lãnh đạo đối với vấn đề này, xác định đây là nội dung quan trọng trong xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh “Mẫu mực tiêu biểu”.
Hai là, tiếp tục triển khai sâu rộng trong toàn quân phong trào thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Chống lãng phí và tiết kiệm có quan hệ khăng khít với nhau, thực hành tiết kiệm thực chất đã là chống lãng phí và ngược lại, muốn phòng, chống lãng phí có hiệu quả thì phải thực hành tiết kiệm. Trên thực tế, Quân đội ta đã và đang đẩy mạnh thực hiện các phong trào “Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”, “Xây dựng đơn vị quản lý tài chính tốt”, Cuộc vận động “Quản lý, khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông”, “Phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật”, v.v. Các phong trào, cuộc vận động trên là việc làm thiết thực góp phần vào cuộc đấu tranh phòng, chống lãng phí. Tuy nhiên, theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, lãng phí không chỉ có tiền của, tài sản của nhân dân, mà lãng phí thời gian học tập, rèn luyện của cán bộ, chiến sĩ cũng rất nguy hại. Theo Người, thời gian là vàng bạc, phải biết quý trọng, tiết kiệm và sử dụng hiệu quả thời gian làm việc, chống làm việc chiếu lệ, “sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về”, “được chăng hay chớ”. Đặc biệt, trong hoạt động quân sự, thời gian còn quý hơn vàng, bởi nó liên quan trực tiếp đến vấn đề nắm thời cơ, làm chủ trên chiến trường, xương máu, tính mạng bộ đội. Chính vì thế, cùng với xây dựng, chuẩn hóa các tiêu chuẩn, định mức kinh tế, kỹ thuật trong hoạt động quân sự, quốc phòng, thực hiện tốt các quy chế, quy định về kiểm tra, giám sát, dân chủ, công khai, minh bạch, phân cấp, phân nhiệm trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản, vật tư, vũ khí, trang bị, các cơ quan, đơn vị cần quan tâm chống lãng phí thời gian, công sức bộ đội. Để phòng, chống lãng phí nguồn lực con người trong hoạt động quân sự hiện nay, phải thực hiện đồng bộ, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng con người, có cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ có đức, có tài để tránh lãng phí nguồn nhân lực của đất nước và Quân đội. Mặt khác, các cơ quan, đơn vị đẩy mạnh thực hành tiết kiệm trong mọi lúc, mọi nơi, mọi công việc, lĩnh vực hoạt động; kiên quyết đấu tranh khắc phục những biểu hiện xa hoa, phô trương, hình thức, v.v.
Ba là, nâng cao hiệu quả đấu tranh tự phê bình và phê bình trong phòng, chống bệnh lãng phí. Một trong những biện pháp để chống lãng phí được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng và nhấn mạnh là phải “Dùng cách thật thà tự phê bình và phê bình, để tẩy trừ những thói tham ô lãng phí và bệnh quan liêu, để cùng nhau tiến bộ”3. Thực hiện vấn đề này, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị cần xây dựng chương trình, kế hoạch hành động thực hiện đợt sinh hoạt chính trị “Tự soi, tự sửa”, xác định đây là trọng tâm trong thực hiện Chỉ thị 05 gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Để đạt hiệu quả cao, việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình - “Tự soi tự sửa” phải được chuẩn bị kỹ lưỡng, tiến hành từ trên xuống dưới. Cấp trên, người chủ trì tự giác, gương mẫu kiểm điểm trước để cấp dưới học tập, làm theo. Ở từng cấp, xác định đúng trọng tâm, trọng điểm để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Nội dung tự phê bình và phê bình phải từ trong tư tưởng, nhận thức đến hành vi; có hay không nhận thức sai lệch về lãng phí, có hay không tư tưởng “nước sông, công lính”, hoặc tư tưởng quan liêu, tham ô, lãng phí, v.v. Cách phê bình phải vì mục đích giúp đỡ nhau, sửa sai cùng tiến bộ, khắc phục mọi biểu hiện của sự lãng phí; tránh lợi dụng phê bình để “hạ uy tín của nhau”,… gây mất đoàn kết nội bộ. Trên từng cương vị công tác, trong mọi hoạt động, cán bộ, đảng viên, nhất là cấp ủy, người chỉ huy phải tích cực rèn luyện đạo đức: “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, tạo thói quen quý trọng tài sản của Nhà nước, nhân dân, công sức của bộ đội; xây dựng ý thức chi tiêu có mục đích, có kế hoạch, không hoang phí; đưa việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí vào nội dung kế hoạch công tác cá nhân hằng tuần, tháng và phấn đấu thực hiện để làm gương. 
Bốn là, kết hợp chặt chẽ phòng, chống lãng phí với phòng, chống bệnh quan liêu, tham nhũng. Theo Hồ Chí Minh, bệnh quan liêu và nạn tham ô có quan hệ chặt chẽ với bệnh lãng phí. Người chỉ rõ: “Bệnh quan liêu là bệnh giấy tờ, bệnh hình thức, không thực tế, là xa cách quần chúng, không theo đường lối quần chúng, làm không đúng chính sách của Chính phủ và của Đoàn thể”4. Còn “Tham ô là lấy của công làm của tư. Là gian lận tham lam. Là không tôn trọng của công. Là không thương tiếc tiền gạo do mồ hôi nước mắt của đồng bào làm ra, do xương máu của chiến sĩ làm ra”5. Do đó, phòng, chống những biểu hiện lãng phí trong Quân đội phải kết hợp chặt chẽ với phòng, chống quan liêu, tham nhũng. Để kết hợp chặt chẽ phòng, chống lãng phí với phòng, chống quan liêu, tham nhũng, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị phải thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Trong đó, tập trung thực hiện nghiêm Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Quyết định số 166/QĐ-TTg, ngày 23/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ về “Chương trình thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2020”; Nghị quyết số 915-NQ/QUTW, ngày 25/8/2018 của Quân ủy Trung ương về “Đổi mới cơ chế tài chính Quân đội giai đoạn 2018 - 2025 và những năm tiếp theo”; Quyết định số 3500/QĐ-BQP, ngày 26/8/2018 phê duyệt Đề án “Đổi mới cơ chế quản lý tài chính Quân đội theo Luật Ngân sách nhà nước năm 2015, giai đoạn 2018 - 2025 và những năm tiếp theo”. Theo đó, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị chủ động rà soát, hoàn thiện các cơ chế, quy định về quản lý tài chính, ngân sách; thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, giảm chi phí quản lý, hạ giá thành sản phẩm, tiết kiệm ngân sách quốc phòng; công khai, minh bạch về chế độ, tiêu chuẩn, chính sách của bộ đội, trong mua sắm tài sản công, tài sản doanh nghiệp, mua sắm trang thiết bị, sử dụng đất đai. Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán việc sử dụng vốn, tài sản,... tránh mọi biểu hiện quan liêu, xa rời nguyên tắc, vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài chính, những biểu hiện tư túi, gian lận nguồn ngân sách, cơ sở vật chất của đơn vị. Nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng các nguồn lực, dự án đầu tư, công trình của Quân đội bảo đảm huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu trong toàn quân và từng đơn vị,... nhằm bảo đảm nguồn ngân sách dành cho Quân đội không bị thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả. Đồng thời, kiên quyết xử lý nghiêm minh với những cán bộ, nhân viên có hành vi quan liêu, tham ô, lãng phí, với tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không hạ cánh an toàn”.
Lãng phí là một trong những biểu hiện của suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đã được Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng chỉ ra. Thấm nhuần tư tưởng và làm theo tấm gương mẫu mực về cần, kiệm, liêm, chính của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn quân đẩy mạnh hơn nữa công tác phòng, chống lãng phí, góp phần xây dựng Quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
1, 3, 4, 5 - Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG H. 2011, tr. 297, 322, 296, 297.
2 - Sđd, Tập 9, tr.519.

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...