Chủ Nhật, 18 tháng 10, 2020

CẢNH GIÁC VỚI MƯU ĐỒ XUYÊN TẠC BẢN CHẤT KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

 


                                                                                            Tất Thắng

          Một thủ đoạn, chiêu trò quen thuộc của các thế lực thù địch, phản động chống phá cách mạng Việt Nam đó là, càng gần đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, chúng lại càng ra sức xuyên tạc, bóp méo các nội dung liên quan, trong đó chúng đặc biệt “coi trọng” xuyên tạc Dự thảo Văn kiện Đại hội. Một trong những vấn đề được chúng triệt để lợi dụng để xuyên tạc là cho rằng: Kinh kế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là “quái thai”, dị dạng, “đầu ngô mình sở”, v.v..

Thực tiễn đã chứng minh, kinh tế thị trường là một thành tựu chung của văn minh nhân loại chứ không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội đạt ở trình độ cao, phản ánh trình độ văn minh của nhân loại và là kết quả của sự phát triển của lịch sử xã hội loài người. Vì kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại nên nó có thể được áp dụng cho mọi nước, với mọi chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Theo đó, Việt Nam cần và có thể xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường không những không đối lập mà còn là một điều kiện khách quan, cần thiết của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Mặt khác, do kinh tế thị trường luôn chứa đựng hai mặt - tích cực và tiêu cực. Cho nên, chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường nhưng theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự điều tiết, quản lý của Nhà nước nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế những khuyết tật của thị trường, xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, phấn đấu đạt được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

Hơn thế nữa, trong thực tiễn, quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện ngay trong sự vận động của các thành tố kinh tế thị trường, phản ánh xu thế phát triển tất yếu của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay, chứ đâu phải là sự gán ghép, chắp vá một cách vụng về, khiên cưỡng. Điều quyết định cơ bản là, nếu như dưới chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường được xem là mục tiêu, thì dưới chủ nghĩa xã hội ở nước ta nó chỉ là công cụ, phương tiện để thực hiện mục tiêu đã xác định. Chúng ta chỉ coi kinh tế thị trường là phương tiện, cách thức để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội gắn chặt với việc không ngừng nâng cao đời sống toàn diện của nhân dân, chứ hoàn toàn không phải là vì mục đích giành lấy lợi nhuận tối đa bằng mọi giá như chủ nghĩa tư bản đã và cố sức làm. Vì thế, đối với nước ta, nếu bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa đi thì kinh tế thị trường đơn giản chỉ là thứ kinh tế thị trường hoang dã, hay kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.

Điều đó một lần nữa chứng tỏ, Việt Nam phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đòi hỏi tất yếu khách quan, là điều hết sức bình thường, rõ ràng, chứ tuyệt nhiên không phải là thứ “đầu ngô mình sở” như luận điệu xuyên tạc, đặt điều của các thế lực thù địch.

 

PHẢI CHĂNG CẦN XÁC ĐỊNH LẠI NỘI DUNG, TÍNH CHẤT CỦA THỜI ĐẠI NGÀY NAY ?

 


                                                                                      Tất Thắng

Lịch sử đã ghi nhận, vào các năm 1957 và 1960, Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế đã họp ở Matxcơva, trên cơ sở tiếp thu sáng tạo di huấn của V.I.Lênin, đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn sinh động của cách mạng thế giới, đã xác định: nội dung cơ bản của thời đại chúng ta là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại ở nước Nga. Nhận định về nội dung thời đại như vậy là sự khái quát mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, đầy tính thuyết phục, do đó đã được sự nhất trí cao trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Tuy nhiên, từ cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX cho đến nay, chúng ta đã và đang chứng kiến những biến đổi sâu sắc trên thế giới về các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật,… trong đó có nhiều biến động bất ngờ, nhiều sự kiện biến hóa khôn lường, đầy kịch tính. Đặc biệt, sau sự sụp đổi của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu, đã và đang có nhiều quan điểm hoặc vô tình không hiểu hoặc cố tình cho rằng, thời đại ngày nay không còn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, theo họ, cần phải xác định lại nội dung, tính chất của thời đại ngày nay. Khi nhân loại tiến bộ đang chuẩn bị chào mừng kỷ niệm 103 năm thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, các thế lực thù địch, phản động lại càng ra sức lợi dụng để xuyên tạc nội dung, tính chất của thời đại ngày nay.

Trên cơ sở phương pháp tiếp cận hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác, chúng ta hiểu rằng, trong một thời đại bao giờ cũng diễn ra quá trình hình thành, phát triển và thống trị của một hình thái kinh tế - xã hội mới tiến bộ, và quá trình suy tàn, tiêu vong của hình thái kinh tế - xã hội cũ lạc hậu. Hai quá trình này đan xen, đấu tranh với nhau và là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội trong thời đại đó. Theo đó, thời đại ngày nay chính là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Trong đó, thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga và việc giai cấp công nhân đóng vai trò là trung tâm của lịch sử đã quyết định diện mạo, chiều hướng phát triển và nội dung, tính chất của thời đại ngày nay.

Mặt khác, khi nói thời đại ngày nay là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới không có nghĩa là trong suốt cả thời kỳ lịch sử ấy, chủ nghĩa xã hội chỉ có phát triển đi lên, không có những bước thoái trào, thất bại, thụt lùi. Điều này, chính V.I.Lênin đã từng chỉ rõ: “Trong mỗi thời đại đều có và sẽ còn có những phong trào cá biệt, cục bộ, khi tiến, khi lùi; đều có và sẽ còn những thiên hướng khác nhau đi chệch ra khỏi phong trào chung và nhịp độ chung của phong trào”. Do vậy, hiện nay chủ nghĩa xã hội tuy bị tổn thất nặng nề, nhưng những thành tựu phát triển của nó cũng như sự thật về tiến trình quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội của thế giới là không thể phủ nhận, không thể đảo lộn. Sự đổ vỡ, tan dã của hệ thống xã hội chủ nghĩa không thể làm chấm dứt, kể cả làm gián đoạn tiến trình lịch sử quá độ lên chủ nghĩa xã hội của thế giới.

Hơn nữa, nếu xem xét nội dung cơ bản của thời đại ngày nay mà chỉ căn cứ vào những diễn biến trong một giai đoạn lịch sử nhất định (như thập kỷ 90 của thế kỷ XX vừa qua), mặc dù những diễn biến đó rất quan trọng, nhưng nếu cắt dời chúng với những thời kỳ có liên quan thì quả là một sự phiến diện, chủ quan, thiếu cơ sở khoa học. Trong khi đó, chủ nghĩa tư bản hiện đại mặc dù có khả năng điều chỉnh, thích nghi và đang tạm thời chiếm ưu thế về kinh tế, khoa học công nghệ và cả quân sự, song không phải vì thế mà nói rằng, giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản đóng vai trò trung tâm, quyết định chiều hướng vận động của thế giới, cũng như quyết định nội dung, tính chất của thời đại ngày nay.

 Với những cơ sở nói trên, chúng ta hoàn toàn khẳng định: trong điều kiện hiện nay, mặc dù tình hình thế giới đã, đang và sẽ có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp và khó lường, tuy hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đang tạm thời lâm vào thoái trào, chủ nghĩa tư bản vẫn còn khả năng điều chỉnh, thích nghi,… song điều đó không làm thay đổi hoặc mất đi bản chất, xu hướng và nội dung cơ bản của thời đại ngày nay như sự xuyên tạc của các thế lực thù địch. Trong đó, nội dung của thời đại được xác định vẫn là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới bắt đầu từ thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917. Và, tính chất của thời đại ngày nay là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt giữa chủ nghĩa xã hội đang trong quá trình hình thành, phát triển với chủ nghĩa tư bản đã hết vai trò lịch sử, đang trong quá trình suy tàn.

 

LẠI TRÒ TUNG HỎA MÙ CHỐNG PHÁ HỘI NGHỊ 13 CỦA ĐẢNG

 


Từ ngày 5 đến 9/10, Hội nghị lần thứ 13, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII diễn ra tại Hà Nội. Hội nghị đã thảo luận, xem xét nhiều nội dung: Tình hình kinh tế - xã hội năm 2020, định hướng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021, tiếp tục hoàn thiện các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng; công tác nhân sự đại hội và một số vấn đề quan trọng khác. Lợi dụng thời điểm này, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, phản động tập trung tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá Hội nghị và Đại hội XIII của Đảng.

 “Nhận định nhân sự” – mưu cũ trên áo mới

Trước, trong và ngay sau thời gian diễn ra Hội nghị 13 của Đảng, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội, phản động tung ra các luận điệu sai trái, thù địch chống phá. Trên các trang BBC, RFA, VOA cũng như trang facebook, blog cá nhân của một số đối tượng cơ hội, chống đối trong và ngoài nước đã tập trung khai thác, đăng tải hàng loạt bài viết sai lệch, suy diễn với dụng ý xấu. Những luận điệu xuyên tạc, sai trái các đối tượng tập trung chống phá đáng chú ý là:

Chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên VOA, họ đưa ra những luận điệu: “Ý thức hệ và điều cần thay đổi”, “Cung cách chuẩn bị nhân sự và đường lối xây dựng xã hội không thay đổi, vẫn là kiên trì xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vẫn coi học thuyết xây dựng xã hội của Lênin làm nền tảng tư tưởng - lý luận thì đừng mong một sự thay đổi tốt đẹp”. Từ đó xuyên tạc: “Chuyện Đảng cộng sản kiên quyết chỉ duy trì một ngôi nhà chính trị duy nhất – ngôi nhà của những người theo Mác và Lênin – khiến cho hàng chục triệu người trở thành vô gia cư về chính trị, nhân dân chẳng tha thiết gì với chủ nghĩa cộng sản và các đồng chí trong đảng cộng sản”…

Nhằm cổ suý đa nguyên, đa đảng, đả phá và hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, trên đài BBC, VOA… đăng tải các bài viết, trong đó lấy ý kiến của một số cá nhân, đối tượng vốn có “thâm niên” chống đối Đảng Cộng sản, chính quyền nhân dân, cho rằng đã đến lúc “Đảng Cộng sản Việt Nam phải dân chủ hoá, đa đảng. Phải chấp nhận và để cho chế độ đa đảng xuất hiện, tồn tại để các đảng phái chính trị cạnh tranh công khai, công bằng”. Họ viện cớ góp ý để kích động: “phải đa đảng, từ đó xem đảng nào có những quyết sách tốt nhất, được ủng hộ nhất đưa đất nước phát triển và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, cũng như ai phục vụ nhân dân tốt nhất và được nhân nhân tín nhiệm giao phó trọng trách điều hành việc nước”.

Lấy vỏ bọc bên ngoài là dân chủ, họ quy kết công tác cán bộ của Đảng rằng, cách làm nhân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay không có sự cạnh tranh công khai, minh bạch. Tất cả các quy định, thủ tục lựa chọn nhân sự chỉ để hợp thức hóa việc lựa chọn người theo phe cánh, quan hệ và việc mua quan bán tước (tiêu cực, hối lộ, đút lót). Đó là cách lựa chọn nhân sự được đúc kết: “thứ nhất hậu duệ - thứ nhì quan hệ - thứ ba tiền tệ - thứ tư trí tuệ. Trong khi đó cũng có sự cạnh tranh nhưng là cạnh tranh ngầm giữ các phe cánh”. Họ phân tích theo hướng tiêu cực “tranh giành quyền lực”, “đấu đá nội bộ”, dự đoán, sắp xếp vị trí theo kiểu “trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã thông”, phân tích, suy diễn theo chiều hướng tiêu cực, đấu đá, mất đoàn kết nội bộ, gây rối loạn thông tin, hoang mang trong dư luận xã hội.

Thủ đoạn của các đối tượng nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng, không bao giờ thay đổi là xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, hướng lái cách mạng Việt Nam chệch hướng với mục tiêu, con đường mà Đảng và Bác Hồ, nhân dân đã lựa chọn. Từ lâu, các thế lực chống phá đã ra sức xuyên tạc, bóp méo, suy diễn, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vốn là cơ sở lý luận khoa học, cách mạng, kim chỉ nam cho mọi hành động trong quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là mục tiêu tấn công, thúc đẩy “tự do hóa” chính trị. Thực hiện “đa nguyên chính trị, “đa đảng đối lập” để tạo ra cơ hội, môi trường hoạt động của các tổ chức phản động, đảng phái chính trị đối lập. Họ luôn hô hào đất nước phải “đa nguyên” mới là tự do, “đa đảng” mới có dân chủ; coi đó là tiêu chuẩn, giá trị khuôn mẫu để dẫn dắt sự tiến bộ của mọi quốc gia, dân tộc dù điều kiện, hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Do vậy, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng được quy định trong Điều 4 – Hiến pháp, cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được lịch sử dân tộc, nhân dân lựa chọn là âm mưu, thủ đoạn tinh vi, mục đích của các thế lực thù địch, phản động.

Công tác cán bộ là một trong những nội dung quan trọng nhất mỗi kỳ Đại hội Đảng. Nhằm làm suy giảm, xói mòn niềm tin của quần chúng nhân dân vào tính ưu việt của chế độ, uy tín của Đảng, chúng tinh vi khoét sâu vào công tác nhân dự Đại hội; giở trò dự đoán nhân sự, sắp xếp ghế này, ghế nọ, tung chiêu phe này đánh phia kia, người này “tranh giành, tiêu diệt, triệt hạ” người kia… Các đối tượng tự vẽ lên tình hình chính trị nội bộ với gam màu xám, an ninh chính trị “đấu đá, lâm nguy”. Nhiều người nếu thiếu tỉnh táo, khi xem các thông tin tiêu cực trên mạng có thể bị dẫn dắt theo luận điệu của chúng, tư tưởng hoang mang, dao động, mất niềm tin vào chế độ, vai trò lãnh đạo của Đảng.

Thực chất, việc xuyên tạc Hội nghị 13 nằm trong mưu đồ chống phá Đại hội XIII của Đảng, một phương thức, thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hoà bình”, xóa bỏ CNXH ở Việt Nam, thực hiện đa nguyên, đa đảng, thay đổi thể chế chính trị.

Kiên định gắn liền với đổi mới, sáng tạo

Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH được xây dựng trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là sự lựa chọn của lịch sử. Đi theo chủ nghĩa Mác – Lênin, xác định độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là mục tiêu xuyên suốt, được xây đắp, bảo vệ bằng xương máu của bao thế hệ người dân đất Việt. Sự lựa chọn và kiên định đó đã đem lại thành quả, để đất nước có “vị thế và cơ đồ” như ngày hôm nay. Bởi vì chủ nghĩa, tư tưởng, chế độ ấy bảo vệ lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân lao động, có Đảng Cộng sản là đội quân tiên phong của giai cấp công nông lãnh đạo, tổ chức cách mạng, vì lợi ích của dân tộc, nhân dân.

Chính vì vậy, trong bài viết “Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại Hội XIII của Đảng, đưa đất bước vào một giai đoạn phát triển mới”, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; kiên định đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN”. Đây là nền tảng vững chắc của Đảng ta. Thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên đổi mới không phải là “đổi màu”, “hòa tan” như các thế lực thù địch mong muốn.

http://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/Lai-tro-tung-hoa-mu-chong-pha-Hoi-nghi-13-cua-Dang-615326/

LẠI TRÒ TUNG HỎA MÙ CHỐNG PHÁ HỘI NGHỊ 13 CỦA ĐẢNG


Từ ngày 5 đến 9/10, Hội nghị lần thứ 13, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII diễn ra tại Hà Nội. Hội nghị đã thảo luận, xem xét nhiều nội dung: Tình hình kinh tế - xã hội năm 2020, định hướng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021, tiếp tục hoàn thiện các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng; công tác nhân sự đại hội và một số vấn đề quan trọng khác. Lợi dụng thời điểm này, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, phản động tập trung tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá Hội nghị và Đại hội XIII của Đảng.

“Nhận định nhân sự” – mưu cũ trên áo mới

Trước, trong và ngay sau thời gian diễn ra Hội nghị 13 của Đảng, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội, phản động tung ra các luận điệu sai trái, thù địch chống phá. Trên các trang BBC, RFA, VOA cũng như trang facebook, blog cá nhân của một số đối tượng cơ hội, chống đối trong và ngoài nước đã tập trung khai thác, đăng tải hàng loạt bài viết sai lệch, suy diễn với dụng ý xấu. Những luận điệu xuyên tạc, sai trái các đối tượng tập trung chống phá đáng chú ý là:

Chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên VOA, họ đưa ra những luận điệu: “Ý thức hệ và điều cần thay đổi”, “Cung cách chuẩn bị nhân sự và đường lối xây dựng xã hội không thay đổi, vẫn là kiên trì xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vẫn coi học thuyết xây dựng xã hội của Lênin làm nền tảng tư tưởng - lý luận thì đừng mong một sự thay đổi tốt đẹp”. Từ đó xuyên tạc: “Chuyện Đảng cộng sản kiên quyết chỉ duy trì một ngôi nhà chính trị duy nhất – ngôi nhà của những người theo Mác và Lênin – khiến cho hàng chục triệu người trở thành vô gia cư về chính trị, nhân dân chẳng tha thiết gì với chủ nghĩa cộng sản và các đồng chí trong đảng cộng sản”…

Nhằm cổ suý đa nguyên, đa đảng, đả phá và hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, trên đài BBC, VOA… đăng tải các bài viết, trong đó lấy ý kiến của một số cá nhân, đối tượng vốn có “thâm niên” chống đối Đảng Cộng sản, chính quyền nhân dân, cho rằng đã đến lúc “Đảng Cộng sản Việt Nam phải dân chủ hoá, đa đảng. Phải chấp nhận và để cho chế độ đa đảng xuất hiện, tồn tại để các đảng phái chính trị cạnh tranh công khai, công bằng”. Họ viện cớ góp ý để kích động: “phải đa đảng, từ đó xem đảng nào có những quyết sách tốt nhất, được ủng hộ nhất đưa đất nước phát triển và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, cũng như ai phục vụ nhân dân tốt nhất và được nhân nhân tín nhiệm giao phó trọng trách điều hành việc nước”.

Lấy vỏ bọc bên ngoài là dân chủ, họ quy kết công tác cán bộ của Đảng rằng, cách làm nhân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay không có sự cạnh tranh công khai, minh bạch. Tất cả các quy định, thủ tục lựa chọn nhân sự chỉ để hợp thức hóa việc lựa chọn người theo phe cánh, quan hệ và việc mua quan bán tước (tiêu cực, hối lộ, đút lót). Đó là cách lựa chọn nhân sự được đúc kết: “thứ nhất hậu duệ - thứ nhì quan hệ - thứ ba tiền tệ - thứ tư trí tuệ. Trong khi đó cũng có sự cạnh tranh nhưng là cạnh tranh ngầm giữ các phe cánh”. Họ phân tích theo hướng tiêu cực “tranh giành quyền lực”, “đấu đá nội bộ”, dự đoán, sắp xếp vị trí theo kiểu “trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã thông”, phân tích, suy diễn theo chiều hướng tiêu cực, đấu đá, mất đoàn kết nội bộ, gây rối loạn thông tin, hoang mang trong dư luận xã hội.

Thủ đoạn của các đối tượng nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng, không bao giờ thay đổi là xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, hướng lái cách mạng Việt Nam chệch hướng với mục tiêu, con đường mà Đảng và Bác Hồ, nhân dân đã lựa chọn. Từ lâu, các thế lực chống phá đã ra sức xuyên tạc, bóp méo, suy diễn, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vốn là cơ sở lý luận khoa học, cách mạng, kim chỉ nam cho mọi hành động trong quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là mục tiêu tấn công, thúc đẩy “tự do hóa” chính trị. Thực hiện “đa nguyên chính trị, “đa đảng đối lập” để tạo ra cơ hội, môi trường hoạt động của các tổ chức phản động, đảng phái chính trị đối lập. Họ luôn hô hào đất nước phải “đa nguyên” mới là tự do, “đa đảng” mới có dân chủ; coi đó là tiêu chuẩn, giá trị khuôn mẫu để dẫn dắt sự tiến bộ của mọi quốc gia, dân tộc dù điều kiện, hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Do vậy, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng được quy định trong Điều 4 – Hiến pháp, cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được lịch sử dân tộc, nhân dân lựa chọn là âm mưu, thủ đoạn tinh vi, mục đích của các thế lực thù địch, phản động.

Công tác cán bộ là một trong những nội dung quan trọng nhất mỗi kỳ Đại hội Đảng. Nhằm làm suy giảm, xói mòn niềm tin của quần chúng nhân dân vào tính ưu việt của chế độ, uy tín của Đảng, chúng tinh vi khoét sâu vào công tác nhân dự Đại hội; giở trò dự đoán nhân sự, sắp xếp ghế này, ghế nọ, tung chiêu phe này đánh phia kia, người này “tranh giành, tiêu diệt, triệt hạ” người kia… Các đối tượng tự vẽ lên tình hình chính trị nội bộ với gam màu xám, an ninh chính trị “đấu đá, lâm nguy”. Nhiều người nếu thiếu tỉnh táo, khi xem các thông tin tiêu cực trên mạng có thể bị dẫn dắt theo luận điệu của chúng, tư tưởng hoang mang, dao động, mất niềm tin vào chế độ, vai trò lãnh đạo của Đảng.

Thực chất, việc xuyên tạc Hội nghị 13 nằm trong mưu đồ chống phá Đại hội XIII của Đảng, một phương thức, thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hoà bình”, xóa bỏ CNXH ở Việt Nam, thực hiện đa nguyên, đa đảng, thay đổi thể chế chính trị.

Kiên định gắn liền với đổi mới, sáng tạo

Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH được xây dựng trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là sự lựa chọn của lịch sử. Đi theo chủ nghĩa Mác – Lênin, xác định độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là mục tiêu xuyên suốt, được xây đắp, bảo vệ bằng xương máu của bao thế hệ người dân đất Việt. Sự lựa chọn và kiên định đó đã đem lại thành quả, để đất nước có “vị thế và cơ đồ” như ngày hôm nay. Bởi vì chủ nghĩa, tư tưởng, chế độ ấy bảo vệ lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân lao động, có Đảng Cộng sản là đội quân tiên phong của giai cấp công nông lãnh đạo, tổ chức cách mạng, vì lợi ích của dân tộc, nhân dân.

Chính vì vậy, trong bài viết “Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại Hội XIII của Đảng, đưa đất bước vào một giai đoạn phát triển mới”, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; kiên định đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN”. Đây là nền tảng vững chắc của Đảng ta. Thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên đổi mới không phải là “đổi màu”, “hòa tan” như các thế lực thù địch mong muốn.

http://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/Lai-tro-tung-hoa-mu-chong-pha-Hoi-nghi-13-cua-Dang-615326/

SỰ THẬT ĐẰNG SAU NHỮNG LỜI KÊU GỌI TRẢ TỰ DO CHO PHẠM ĐOAN TRANG

 


Có thể thấy rằng, ở Việt Nam hay bất kỳ quốc gia nào khác, những kẻ vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Hoàn toàn không có chuyện bắt, xử lý những đối tượng vi phạm pháp luật lại bị coi là đàn áp người “bất đồng chính kiến”, “người hoạt động nhân quyền” như những luận điệu mà RSF, HRW, AI đưa ra.

Ngày 7/10/2020, Cơ quan An ninh điều tra Công an TP Hà Nội đã phối hợp với Công an TP Hồ Chí Minh thi hành lệnh bắt bị can để tạm giam, khám xét khẩn cấp đối với Phạm Đoan Trang (tên thật là Phạm Đoan Trang, 42 tuổi, trú quận Đống Đa, Hà Nội) về hành vi “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”. 

Ngay lập tức, một số tổ chức núp bóng nhân quyền như “Phóng viên không biên giới” (RSF), “Theo dõi nhân quyền thế giới” (HRW), “Ân xá quốc tế” (AI)... đã lớn tiếng phản đối và kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do ngay lập tức cho Phạm Đoan Trang. Vậy, sự thật đằng sau những lời kêu gọi này là gì?

Những tuyên bố, lời kêu gọi vô căn cứ

Ngày 7/10, tổ chức RSF đã ra thông cáo báo chí kêu gọi trả tự do cho Phạm Đoan Trang. Thông cáo báo chí của RSF đã cố tình xuyên tạc rằng “vụ bắt giữ Phạm Đoan Trang là ví dụ mới nhất về việc đàn áp những tiếng nói chỉ trích ở Việt Nam”. 

Không những vậy, thông cáo báo chí của RSF còn dẫn lời ông Christian Mihr - Giám đốc điều hành RSF với những lời lẽ ngang ngược, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam khi cho rằng: “Tội bị cáo buộc của bà, thật ra chỉ là phổ biến những thông tin độc lập và tạo điều kiện cho đồng bào của bà thực hiện các quyền của người dân được bảo đảm bởi Hiến pháp. Bà Trang không thể bị tù. Bà ấy phải được thả ngay lập tức”.

Cổ súy cho những luận điệu của RSF, tổ chức “Theo dõi nhân quyền quốc tế” (HRW) cũng đưa ra những lời lẽ xuyên tạc khi trích lời của ông Phil Robertson, Phó Giám đốc HRW rằng: “Phạm Đoan Trang đã dấn thân để tìm cách giải thích cho các công dân Việt Nam về những quyền hạn của chính họ, đúng theo Hiến pháp Việt Nam”. 

Không những vậy, Phó Giám đốc HRW còn tìm cách cổ vũ cho những hành vi chống Nhà nước Việt Nam của Phạm Đoan Trang bằng những giọng điệu hết sức ngang ngược: “Phản ứng như thiêu đốt của Việt Nam đối với bất đồng chính kiến được trưng bày cho tất cả mọi người xem với vụ bắt giữ blogger và tác giả nổi tiếng Phạm Đoan Trang.

Trong khi đó, với một tuyên bố mang nặng tính định kiến, thiếu khách quan có tiêu đề “Việt Nam: Nhà vô địch nhân quyền bị bắt, có nguy cơ bị tra tấn nghiêm trọng”, tổ chức “Ân xá quốc tế” (AI) đã lớn tiếng xuyên tạc rằng: “Việc Phạm Đoan Trang bị bắt là một hành động đáng chê trách. Bà là một nhân vật hàng đầu cho cuộc đấu tranh cho nhân quyền ở Việt Nam. Bà đã truyền cảm hứng cho rất nhiều nhà hoạt động trẻ lên tiếng vì một nước Việt Nam công bằng, hội nhập và tự do hơn”.

Phạm Đoan Trang có phải “nhà bất đồng chính kiến” hay “nhà hoạt động nhân quyền”?

Phạm Đoan Trang, 42 tuổi, trú tại quận Đống Đa, Hà Nội. Sinh ra trong một gia đình cơ bản, Phạm Đoan Trang từng tốt nghiệp trường Hà Nội - Amsterdam và Khoa Kinh tế, Đại học Ngoại thương Hà Nội. Sau khi ra trường, Phạm Đoan Trang làm phóng viên cho báo điện tử Vnexpress trong 2 năm, sau đó làm nhân viên Công ty quảng cáo HAKI, nhân viên Công ty Truyền hình kỹ thuật số VTC, cộng tác viên báo Vietnamnet và có gần 3 năm làm phóng viên báo Pháp luật TP Hồ Chí Minh. Năm 2013, do xuất cảnh đi nước ngoài không xin phép nên Phạm Đoan Trang đã bị cơ quan chủ quản kỷ luật buộc thôi việc.

Trong chuyến xuất cảnh trái phép này, Phạm Đoan Trang đã được một số đối tượng chống đối chính quyền dẫn dắt, móc nối, lôi kéo và đưa Phạm Đoan Trang bắt đầu hành trình trượt dài trên con đường tội lỗi. Trở về nước, Phạm Đoan Trang trực tiếp thành lập và tham gia điều hành nhiều hội, nhóm bất hợp pháp, đồng thời đứng sau lôi kéo lập nhóm “Du ca Sài Gòn”, “Tuổi trẻ làm đẹp quê hương”, lợi dụng danh nghĩa biểu diễn ca nhạc, bảo vệ môi trường để tụ tập, trình diễn ca khúc thời Việt Nam cộng hòa, khuếch trương lực lượng chống đối trong nước, tập hợp lực lượng chống đối trong giới văn nghệ sĩ, trí thức trẻ.

Phạm Đoan Trang cũng lập và điều hành các trang mạng “Luật khoa tạp chí”, “Phamdoantrang.com”, “The Vietnamese”, viết, tán phát nhiều bài viết, cuốn sách có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, kích động lật đổ chế độ. 

Đặc biệt, trong thời gian gần đây, Phạm Đoan Trang đã viết, tán phát bất hợp pháp nhiều cuốn sách có nội dung chính trị xấu như: “Cẩm nang truyền thông”, “Từ Facebook xuống đường”, “Bầu cử phi dân chủ ở Việt Nam”, “Chính trị bình dân”, “Toàn cảnh thảm họa môi trường Formosa ở Việt Nam”, “Phản kháng phi bạo lực”, “Cẩm nang nuôi tù”... Đây là những cuốn sách có nội dung bôi nhọ, xuyên tạc thể chế chính trị Việt Nam, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam; hướng dẫn cách thức hoạt động chống chính quyền, “bất bạo động”, cách thức đối phó với các cơ quan thực thi pháp luật; kêu gọi biểu tình, lật đổ chế độ ở Việt Nam.

Phạm Đoan Trang cũng là thành viên cốt cán của tổ chức “VOICE” (một tổ chức ngoại vi của tổ chức khủng bố Việt Tân). Phạm Đoan Trang được số đối tượng cầm đầu tổ chức “VOICE” giao phụ trách nhân sự, trực tiếp tuyển lựa, duyệt người trước khi đưa ra nước ngoài để huấn luyện, đào tạo cách thức hoạt động chống phá chính quyền. Phạm Đoan Trang cũng là một trong những người sáng lập và duy trì hoạt động của “Nhà xuất bản tự do” - một tổ chức dân sự trá hình, hoạt động “chui”, chuyên xuất bản, in ấn và phát hành các ấn phẩm có nội dung tiêu cực, xuyên tạc, kích động bạo lực, chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Một người được sinh ra trong gia đình cơ bản, thế nhưng đã không biết sử dụng trí tuệ của mình vào việc chính đáng, lại thường xuyên viết, tán phát các bài viết, cuốn sách có nội dung tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước, kêu gọi biểu tình lật đổ chế độ. Vậy, thử hỏi đó là một “nhà bất đồng chính kiến”, “nhà hoạt động nhân quyền”, hay là một kẻ phạm tội, vi phạm pháp luật đúng nghĩa?

Ý đồ đằng sau những lời kêu gọi trả tự do cho Phạm Đoan Trang

Phạm Đoan Trang đã có những hành vi đi ngược lại với lợi ích của đất nước, của nhân dân. Những hành vi trên của Phạm Đoan Trang vi phạm pháp luật như thế nào, đến đâu sẽ được các cơ quan bảo vệ pháp luật làm rõ. Việc cơ quan chức năng thi hành lệnh khởi tố, bắt bị can để tạm giam, khám xét nơi ở đối với Phạm Đoan Trang là việc làm cần thiết nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội. Có thể thấy rằng, ở Việt Nam hay bất kỳ quốc gia nào khác, những kẻ vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Hoàn toàn không có chuyện bắt, xử lý những đối tượng vi phạm pháp luật lại bị coi là đàn áp người “bất đồng chính kiến”, “người hoạt động nhân quyền” như những luận điệu mà RSF, HRW, AI đưa ra.

Một lần nữa, những “con rối” đội lốt nhân quyền như RSF, HRW, AI lại núp bóng “nhân quyền” đưa ra những luận điệu xuyên tạc, thiếu khách quan và định kiến, thù địch về Việt Nam. Việc đưa ra những tuyên bố sai sự thật trên thực chất là một sự can thiệp trắng trợn vào công việc nội bộ của Việt Nam. 

Không những vậy, việc làm này còn thể hiện ý đồ của các tổ chức đội lốt “nhân quyền”, đó là cố tình bảo vệ, hà hơi, tiếp sức cho Phạm Đoan Trang cũng như các đối tượng chống đối chính quyền khác. Họ cố tình xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, đàn áp những người “bất đồng chính kiến” nhằm làm cho các quốc gia, tổ chức, cộng đồng thế giới hiểu sai về quan điểm, chính sách của Việt Nam, hạ uy tín của Việt Nam đối với bạn bè thế giới.

http://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/Su-that-dang-sau-nhung-loi-keu-goi-tra-tu-do-cho-Pham-Doan-Trang-615616/

LẠI DIỄN TẤU HÀI “ĐỀ CỬ GIẢI THƯỞNG NHÂN QUYỀN VIỆT NAM 2020”


Để tiến tới “vinh danh” cá nhân nào đó cho giải thưởng “Nhân quyền Việt Nam”, như thường lệ, tổ chức “Mạng lưới nhân quyền Việt Nam” (MLNQVN) lại ráo riết tổ chức các hoạt động quảng bá, vận động các ứng viên nộp hồ sơ đề nghị xét tặng giải thưởng.

Năm nay, nhân danh “đấu tranh nhân quyền” để chống phá, tổ chức MLNQVN đã lên hẳn một chiến dịch khá dày công. Tuy nhiên, cũng như nhiều hoạt động trước đó, chiến dịch đề cử “Giải thưởng Nhân quyền Việt Nam năm 2020” không có nhiều điểm mới, chỉ là trò bổn cũ soạn lại. Sự lặp lại thường niên khiến cho “Giải thưởng nhân quyền Việt Nam” chỉ là một trò “tấu hài”, nơi tụ tập làm “màu” của những đối tượng phụ bạc với quê nhà.

Trong cái gọi là “Thông báo kêu gọi đề cử ứng viên giải thưởng nhân quyền Việt Nam năm 2020” được phát đi ngày 7/7/2020 của tổ chức này nói rằng, giải nhân quyền Việt Nam do MLNQVN thành lập từ năm 2002 và được trao hàng năm, nhằm tuyên dương thành tích tranh đấu bất bạo động cho lý tưởng nhân quyền tại Việt Nam. Giải nhân quyền Việt Nam còn nhằm bày tỏ tính liên đới của người Việt khắp nơi đối với những người đã và đang dấn thân bảo vệ quyền làm người và công lý cho mọi người dân Việt Nam.

Từ ngày thành lập đến nay, MLNQVN đã “tuyên dương” 47 cá nhân và 4 tổ chức có “những thành tích đấu tranh xuất sắc, trải qua nhiều hy sinh gian khổ và gây được nhiều ảnh hưởng trong công cuộc vận động nhân quyền và dân chủ cho toàn dân”.

Tổ chức này thông báo: “Giải Nhân quyền Việt Nam năm 2019 đã được trao cho Mục sư Nguyễn Trung Tôn, cô Nguyễn Đặng Minh Mẫn và Luật sư Lê Công Định trong một buổi lễ long trọng tại trụ sở Thượng viện Canada nhân Ngày Quốc tế nhân quyền lần thứ 71”.

Đồng thời, cho biết: “Giải Nhân quyền Việt Nam năm nay sẽ được tổ chức nhân dịp Ngày Quốc tế nhân quyền lần thứ 72 vào tháng 12 năm 2020. MLNQVN  mong ước đón nhận được nhiều hồ sơ đề cử ứng viên xứng đáng từ các đoàn thể và cá nhân trong cũng như ngoài nước. Kết quả việc tuyển chọn sẽ được chính thức công bố vào trung tuần tháng 11 năm 2020”. 

Ngoài ra, bản thông báo còn đưa ra những tiêu chuẩn có tính tổng quát cho các ứng viên được đề cử như: phải là một cá nhân hoặc tổ chức đang hoạt động tại Việt Nam; đã có thành tích đấu tranh bất bạo động vì nhân quyền cho người dân Việt Nam và việc đấu tranh của họ đã tạo được “ảnh hưởng tích cực” tại quốc nội cũng như ở hải ngoại.

Từ nội dung của bản thông báo có thể thấy, không có nhiều sự khác biệt với các giải thưởng có tính chất tương tự được các tổ chức chống phá Việt Nam thực hiện trong nhiều năm qua. Có thể kể đến như “giải thưởng Hellman/Hammet” của tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW), “giải thưởng Stephanus” của Hiệp hội Quốc tế nhân quyền tại Ðức; “giải thưởng quốc tế Gruber” của Nghiệp đoàn Luật sư quốc tế, rồi “giải nhân quyền Gwangju”... Ngoài ra, còn có một số giải thưởng và danh hiệu như “công dân mạng” của Tổ chức phóng viên không biên giới (RSF), “Phụ nữ tiêu biểu về bảo vệ quyền tự do ngôn luận” của tổ chức Tự do ngôn luận quốc tế (IFEX) có trụ sở tại Canada, giải “Phụ nữ can đảm nhất thế giới” của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ...

Trên các diễn đàn, các tổ chức này rêu rao việc trao giải thưởng với những mục đích, ý nghĩa hết sức cao đẹp như: nhân danh, đề cao vấn đề quyền con người; xem việc ngợi ca những cá nhân tranh đấu cho lý tưởng nhân quyền là cách để thúc đẩy, làm cho quyền con người được thực hiện một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất. Đó cũng là những thứ tiêu chuẩn có tính phổ quát, được công nhận trên toàn thế giới chứ không riêng gì ở Việt Nam.

Do đó, những ứng viên, rồi chủ nhân các giải thưởng này khi “vinh danh” đều được tung hô với những ngôn từ hết sức mĩ miều, như: “nhà tranh đấu bất bạo động cho lý tưởng nhân quyền tại Việt Nam”; “tự nguyện dành toàn thời gian dấn thân vào con đường tranh đấu vì quyền lợi của giới lao động”; “một nhà tranh đấu dũng cảm cho nhân quyền và dân chủ tự do cho Việt Nam, giữ vững lập trường, không bao giờ từ bỏ lý tưởng, và phấn đấu không ngừng cho công lý, nhân phẩm và tự do”...

Tuy nhiên, ngay sau lớp câu từ mỹ miều đó là sự thật khôi hài. Cái phần quan trọng nhất, cần quan tâm nhất trong mọi giải thưởng là đối tượng xét giải phải đạt tiêu chuẩn gì thì bản danh sách trình lên đã phơi bày tất cả: đó là những cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật, đang bị điều tra hoặc chịu án tù thuộc nhóm tội danh xâm phạm an ninh quốc gia.

Lẽ ra cá nhân tôn vinh giải thưởng nhân quyền phải là những người có thành tích, cống hiến, đem lại thành quả vì quyền con người thì ngược lại, những cá nhân trong các giải thưởng dạng này lại là đối tượng vi phạm nhân quyền, thậm chí vi phạm nghiêm trọng, chà đạp nhân phẩm, quyền con người, bị dư luận đấu tranh, lên án. Với một thực tế như vậy, khi nêu ra, dư luận sẽ nhận diện được đâu là bản chất, mục đích của những giải thưởng kiểu này! 

Trong thông báo của mạng lưới nhân quyền Việt Nam cho thấy, đã có 3 cá nhân được tổ chức này vinh danh năm 2019 là Nguyễn Trung Tôn, Nguyễn Đặng Minh Mẫn và Lê Công Định. Mặc dù bản thông báo cho biết buổi lễ “vinh danh” 3 cá nhân này được tổ chức long trọng tại trụ sở Thượng viện Canada nhân Ngày Quốc tế nhân quyền lần thứ 71, song nó vẫn không khiến người ta quên rằng, 3 cá nhân đó đều đã từng chịu những bản án tù với các tội danh như “Tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam”, “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, quy định tại Bộ luật Hình sự Việt Nam. Và chỉ cần nhắc tới điều này thôi, một người bình thường, ít tham gia, bình luận những vấn đề chính trị, thể chế cũng sẽ đặt ra câu hỏi: Tại sao mạng lưới nhân quyền Việt Nam lại công khai vinh danh những đối tượng chống chính quyền nhân dân, chống lại quê hương đất nước mình? Điều đó lật tẩy việc họ đưa ra giải thưởng, tung hô với những ngôn từ mỹ miều chỉ là trò lừa bịp, nhằm che đậy động cơ chống phá. 

Bất chấp thực tế những ứng viên, rồi chủ nhân của giải thưởng nhân quyền Việt Nam hàng năm là những cá nhân có hoạt động chống Đảng, nhà nước, nhân dân, vi phạm pháp luật, xâm phạm nhân quyền và chịu tù đày, song các tổ chức nói trên đã dùng chiêu thức đánh lận bản chất, cố tình “vinh danh” và kêu gọi cộng đồng, dư luận ủng hộ. Tổ chức MLNQVN đã cố tình đổi trắng thay đen, làm đảo ngược mọi giá trị, biến những tên tội phạm, những kẻ chống phá nguy hiểm thành những “anh hùng”, những “nhà hoạt động dân chủ, nhân quyền”…

Thực tế, nhiều người đã lên tiếng phản đối chiêu bài được đội lốt, nhân danh, núp bóng nhân quyền. Âm mưu của các tổ chức sử dụng chiêu trò này không gì khác là thúc đẩy những hành vi từ chỗ bị xã hội lên án, pháp luật trừng trị thành “lí tưởng”, nhen nhóm tiến tới những cuộc cách mạng màu, những cuộc bạo loạn từ bên trong đất nước như đã từng diễn ra tại một số quốc gia trên thế giới như ở khu vực Trung Đông, Đông Âu...

Ngoài ra, xuất phát từ những tiêu chuẩn được đề cập trong các bản thông báo có thể thấy thêm sự khác biệt trong quan niệm, đánh giá về nhân quyền. Lẽ ra khi đánh giá nhân quyền, phải xem xét từ những thành tựu mà mỗi Nhà nước đã mang lại cho người dân.

Trong khi đó, tiêu chuẩn của “giải thưởng nhân quyền Việt Nam” và nhiều giải thưởng tương tự chỉ là “đã có thành tích đấu tranh bất bạo động vì nhân quyền cho người dân Việt Nam” và “việc đấu tranh của họ đã tạo được ảnh hưởng tích cực tại quốc nội cũng như ở hải ngoại”. Nghĩa là, trong tiêu chuẩn kép được nói đến, họ quá đề cao vai trò, tiếng nói của người dân trong khẳng định, thực thi quyền con người mà quên mất rằng, nhà nước với vai trò, địa vị pháp lý của mình đã nỗ lực để bảo vệ, bảo hộ cho nhân quyền, quyền con người được thực hiện đầy đủ trên thực tế. Quá đề cao tiếng nói, lại là tiếng nói một chiều của những đối tượng phạm tội, chống phá đất nước mà xem nhẹ, thậm chí bỏ qua những đóng góp của nhà nước đối với vấn đề nhân quyền, thực thi nhân quyền chính là lí do chính yếu khiến các quốc gia bảo hộ cho các giải thưởng kiểu này khó tìm được tiếng nói đồng thuận.

Như vậy, có thể thấy, ngay việc nhận thức, khái niệm về nhân quyền của MLNQVN là sai lệch, phiến diện. Điều họ hướng đến là thông qua giải thưởng này để “lên dây cót” tinh thần, vừa giúp đỡ về vật chất cho các đối tượng chống phá trong nước, đồng thời tạo ra cớ để khuếch trương thanh thế, nhận sự hà hơi tiếp sức - đặc biệt là về tài chính, từ các thế lực thù địch bên ngoài. Họ đã cố gắng tô vẽ, dựng các cá nhân chống đối dưới những danh xưng hão huyền như “nhà báo tự do”, “nhà hoạt động dân chủ”, “tù nhân lương tâm”... nhưng họ không thể che đậy được bản chất đằng sau những chiến dịch tuyên truyền, quảng bá và “vinh danh” này. “Giải thưởng nhân quyền Việt Nam năm 2020” cũng như các năm trước là hoạt động trong âm mưu “diễn biến hòa bình”, tạo đà cho hành động can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam của chính giới, các tổ chức thù địch.

http://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/Lai-dien-tau-hai-De-cu-giai-thuong-nhan-quyen-Viet-Nam-2020-614236/

CHUYẾN THĂM CỦA THỦ TƯỚNG SUGA YOSHIHIDE GÓP PHẦN THÚC ĐẨY QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC SÂU RỘNG VIỆT NAM - NHẬT BẢN

 


Việt Nam hoan nghênh việc Thủ tướng Nhật Bản Suga Yoshihide chọn Việt Nam là nước công du đầu tiên sau khi nhậm chức. Đây là minh chứng rõ ràng cho sự phát triển tốt đẹp, mạnh mẽ và thực chất trên nhiều lĩnh vực của quan hệ Đối tác chiến lược sâu rộng Việt Nam – Nhật Bản. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng đã nhấn mạnh như vậy tại cuộc họp báo thường kỳ diễn ra chiều 15/10.

Theo đó, khi trả lời câu hỏi đề nghị cho biết bình luận của Việt Nam khi là nước đầu tiên được Thủ tướng Nhật Bản Suga Yoshihide chọn đến thăm sau khi nhậm chức, người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng khẳng định, Việt Nam hoan nghênh việc Thủ tướng Nhật Bản Suga Yoshihide chọn Việt Nam là nước công du đầu tiên sau khi nhậm chức. Đây là minh chứng rõ ràng cho sự phát triển tốt đẹp, mạnh mẽ và thực chất trên nhiều lĩnh vực của quan hệ Đối tác chiến lược sâu rộng Việt Nam – Nhật Bản.

“Chúng tôi tin tưởng chuyến thăm sẽ diễn ra tốt đẹp, đóng góp tích cực vào việc thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng Việt Nam - Nhật Bản cũng như góp phần vào quá trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của hai nước sau đại dịch Covid-19”, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng nhấn mạnh.

http://uploads.tapchiqptd.vn/Article/anhdoan/2020/10/16/1102753311.png

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng tại buổi họp báo chiều 15/10.

* Liên quan đến bình luận của Việt Nam trước thông tin nhóm các nước đối tác gồm: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia mong muốn tăng cường quan hệ với các nước ASEAN trong lĩnh vực tự do trên biển, người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng nêu rõ: “ASEAN luôn hoan nghênh các ý tưởng, sáng kiến đóng góp cho hòa bình, ổn định và phồn vinh chung.

Là Chủ tịch ASEAN 2020, Việt Nam đặt nhiệm vụ chính trong năm là xây dựng ASEAN gắn kết và chủ động thích ứng. Trên cơ sở đó, Việt Nam đã và đang phát huy vai trò Chủ tịch của mình, đẩy mạnh xây dựng Cộng đồng, khẳng định vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực và mở rộng quan hệ đối ngoại của ASEAN.

 

CHUYẾN THĂM CỦA THỦ TƯỚNG SUGA YOSHIHIDE GÓP PHẦN THÚC ĐẨY QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC SÂU RỘNG VIỆT NAM - NHẬT BẢN

Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 ảnh hưởng trực tiếp, lâu dài và sâu sắc tới đời sống kinh tế-xã hội toàn cầu và khu vực, Việt Nam mong muốn và sẵn sàng cùng ASEAN và các nước đối tác, cũng là đối tác của ASEAN chung tay khôi phục kinh tế, ổn định đời sống người dân vì một khu vực châu Á – Thái Bình Dương hòa bình, ổn định và phát triển thịnh vượng. Trong quá trình này, luật pháp quốc tế, tinh thần đối thoại và hợp tác cần luôn được đề cao”.

Cũng tại buổi họp báo, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết bình luận của Việt Nam về thông tin Trung Quốc có 400 doanh nghiệp ở cái gọi là thành phố Tam Sa trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng cho biết, Việt Nam đã nhiều lần mạnh mẽ khẳng định có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

“Lập trường nhất quán của Việt Nam là phản đối mạnh mẽ việc thành lập cái gọi là thành phố Tam Sa và các hành vi có liên quan vì đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, không có giá trị và không được công nhận, không có lợi cho quan hệ hữu nghị cho các quốc gia và gây thêm phức tạp tình hình ở Biển Đông, khu vực và thế giới”.

http://tapchiqptd.vn/vi/tin-tuc-thoi-su/chuyen-tham-cua-thu-tuong-suga-yoshihide-gop-phan-thuc-day-quan-he-doi-tac-chien-luoc-sau-/16144.html

 

PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG 90 NĂM, TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 


Tháng 10/1999, nhân kỷ niệm 50 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo “Dân vận” (ngày 15/10/1949)theo đề nghị của Ban Dân vận Trung ương, Bộ Chính trị (khóa VIII) đã đồng ý chọn ngày 15/10/1930 là Ngày truyền thống công tác Dân vận của Đảng và là Ngày Dân vận của cả nước để đẩy mạnh việc học tập và thực hiện những lời dạy của Bác1.

Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và những trải nghiệm trong hành trình đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cho cách mạng Việt Nam với vai trò lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính. Nguồn gốc sức mạnh của Đảng là từ sức mạnh to lớn của Nhân dân, sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với Nhân dân, niềm tin của Nhân dân đối với Đảng. Thực hiện quan điểm, tư tưởng đó, Nguyễn Ái Quốc bắt tay vào công việc vận động quần chúng yêu nước; thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Châu, Trung Quốc (năm 1925). Người trực tiếp huấn luyện những chiến sĩ trung kiên làm hạt nhân tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, gieo niềm tin cách mạng và tinh thần đoàn kết trong các giai tầng xã hội qua tác phẩm Đường Cách mệnh (năm 1927), tạo nên bước ngoặt lịch sử bằng việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 03/02/1930. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã xác định những nội dung cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam và đề ra sách lược thu hút, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân thành lực lượng cách mạng đi theo lá cờ tiên phong của Đảng. Thời kỳ này, xác định tập hợp lực lượng quần chúng là nhiệm vụ chính trị cấp thiết để đối phó với “khủng bố trắng” và chính sách mị dân của chính quyền thuộc địa, Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (từ ngày 14 - 31/10/1930 tại Hồng Kông) đã thông qua các Án nghị quyết về công nhân vận động, nông dân vận động, cộng sản thanh niên vận động, phụ nữ vận động, quân đội vận động, vấn đề cứu tế và đồng minh phản đế. Nghị quyết xác định rõ: “Trong các Đảng bộ thượng cấp (từ thành và tỉnh ủy trở lên) phải tổ chức ra các Ban chuyên môn về các giới vận động2, đặt nền tảng cho sự ra đời nhanh chóng hệ thống Ban chuyên môn và đội ngũ cán bộ về các giới vận động của Đảng, gồm: Công vận, Nông vận, Thanh vận, Phụ vận, Quân đội vận, Mặt trận phản đế làm nhiệm vụ tổ chức, tập hợp lực lượng, giáo dục, vận động quần chúng nhân dân tham gia các phong trào đấu tranh chống áp bức, bóc lột, đòi dân sinh, dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Những cán bộ, đảng viên lớp đầu tiên đã thực hiện “vô sản hóa”, “ba cùng” với nhân dân, tuyên truyền, giác ngộ và thành lập các tổ chức quần chúng đoàn kết xung quanh Đảng, tạo sức mạnh, động lực cho cách mạng theo đường lối “Đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Cao trào cách mạng 1930 - 1931, đỉnh cao là phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh là mốc son sáng chói đánh dấu việc lần đầu tiên một đảng cách mạng dù còn rất non trẻ đã thể hiện vai trò, bản lĩnh, uy tín, sức chiến đấu và khả năng to lớn trong việc lãnh đạo, đoàn kết, huy động quần chúng nhân dân. Chỉ với vài nghìn đảng viên, Đảng đặt niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh to lớn của nhân dân, gắn bó máu thịt, thấu hiểu nguyện vọng của nhân dân, dựa vào sự ủng hộ của nhân dân; tuyên truyền giác ngộ nhân dân hiểu rõ con đường giành độc lập, tự do, mưu cầu hạnh phúc; tổ chức tập hợp nhân dân vào mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội với hình thức linh hoạt; hướng dẫn quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao, đồng tâm hợp lực Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, làm nên thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm 1945, khai sinh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 02/9/1945, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (giai đoạn 1945 - 1954), nhận rõ nguy cơ kẻ thù phá hoại mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và Nhân dân, Chỉ thị về công tác dân vận của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngày 01/9/1947 nhấn mạnh: “Quân địch đang dùng những thủ đoạn tàn bạo, xảo trá, hòng chia rẽ lừa dối nhân dân và làm cho nhân dân hoang mang. Vậy công việc dân vận trong lúc này là một công tác quan trọng của Hội”3. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu “Ta phải liên lạc mật thiết với dân chúng. Không được rời xa dân chúng. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại”4. Đặc biệt, ngày 15/10/1949, Người viết bài “Dân vận” đăng trên báo Sự thật, cơ quan Trung ương của Đảng. Có thể nói đây là cương lĩnh hoàn chỉnh của Đảng về công tác Dân vận, làm nền tảng cho việc phát huy công tác vận động quần chúng để thực hiện nhiệm vụ cách mạng trên cơ sở “lãnh đạo nhân dân bằng cách tuyên truyền, giải thích, cổ động, giáo dục, tổ chức nhân dân, dựa vào dân để thực hiện nguyện vọng chính đáng của nhân dân”5. Với sự thống nhất và mở rộng Mặt trận Liên Việt, sự phát triển rộng khắp của các đoàn thể nhân dân, ta đã xây dựng lực lượng chính trị hùng hậu thực hiện toàn dân đánh giặc. Phong trào Thi đua ái quốc do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động, được mọi tầng lớp nhân dân hưởng ứng sâu rộng, khơi dậy ý chí cách mạng, nhiệt huyết phấn đấu, hy sinh, thi đua lao động, sản xuất vì Tổ quốc; đồng thời, tăng cường công tác địch vận, làm tan rã hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền, v.v. Nhờ đó, tạo sức mạnh cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc thắng lợi, đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Giai đoạn 1954 - 1975, đất nước tạm thời bị chia cắt hai miền, miền Bắc trở thành hậu phương lớn chi viện sức người, sức của cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam. Ngày 10/9/1955, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời, tăng cường đoàn kết mọi lực lượng, động viên đồng bào, chiến sĩ nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tất cả vì miền Nam ruột thịt. Tại miền Nam, ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Công tác dân vận được triển khai sâu rộng trong các cấp, ngành, lĩnh vực, tầng lớp nhân dân trong nước và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới; phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp “đánh cho Mỹ cút - Ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào ngày 30/4/1975.

Bước vào thời kỳ đổi mới, Báo cáo chính trị tại Đại hội VI của Đảng (năm 1986), nhấn mạnh bài học đầu tiên trong 04 bài học lớn được rút ra qua thực tiễn cách mạng, đó là: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”; “phải đặc biệt chăm lo củng cố sự liên hệ giữa Đảng và Nhân dân”6. Tư tưởng này tiếp tục được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), bổ sung, phát triển (năm 2011) khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”. Các Báo cáo chính trị của các Đại hội Đảng toàn quốc luôn chú trọng kiểm điểm, đánh giá về xây dựng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, từ đó đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp đối với công tác vận động quần chúng phù hợp từng giai đoạn cụ thể. Nhằm tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác dân vận, Đảng đã ban hành nhiều văn bản, nổi bật là: Nghị quyết số 08B-NQ/HNTW, ngày 27/3/1990 về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân”; Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18/02/1998 về “Xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở”; Quyết định số 290-QĐ/TW, ngày 25/02/2010 về “Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị”; Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 03/6/2013 về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”, khẳng định 05 quan điểm, 07 nhiệm vụ thực hiện công tác dân vận trong tình hình mới. Các văn bản tạo điều kiện cho nhân dân, các tổ chức quần chúng tham gia góp ý, giám sát, phản biện góp phần xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, như: Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 về việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 ban hành quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; Quyết định số 124-QĐ/TW, ngày 02/02/2018 về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên. Qua đó, nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị đối với công tác dân vận trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và nỗ lực của cả hệ thống chính trị, công tác dân vận tiếp tục được tăng cường, đổi mới, đạt nhiều kết quả tích cực. Công tác dân vận của cơ quan nhà nước được chú trọng đẩy mạnh, việc thực hiện “Năm dân vận chính quyền” với 06 nội dung trọng tâm được triển khai đồng bộ ở các cấp chính quyền theo hướng “thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân”. Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội hướng về cơ sở, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, mở rộng hoạt động giám sát, phản biện, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền. Các phong trào thi đua yêu nước được đẩy mạnh gắn với việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và phong trào Thi đua “Dân vận khéo” với hàng vạn mô hình, điển hình tiêu biểu,… làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Dân vận” lan tỏa mạnh mẽ vào thực tiễn cuộc sống. Đội ngũ cán bộ dân vận được kiện toàn, nâng cao năng lực tham mưu cho Đảng lãnh đạo, đổi mới công tác dân vận, góp phần tạo đồng thuận xã hội, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Kết quả đó góp phần củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, tiếp tục khẳng định cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” trong thực tiễn. Ghi nhận những đóng góp của ngành Dân vận, tập thể Ban Dân vận Trung ương được Đảng, Nhà nước trao tặng danh hiệu: Huân chương Sao vàng (năm 2002), Huân chương Hồ Chí Minh (năm 2015), Huân chương Lao động hạng Nhất (năm: 2010, 2015, 2019) và nhiều phần thưởng cao quý khác.

Phát huy truyền thống, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận trong tình hình mới

Trải qua 90 năm xây dựng và trưởng thành, công tác dân vận luôn là một bộ phận quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng, góp phần bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Một trong những bài học kinh nghiệm được rút ra, đó là: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, luôn xác định “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện đúng nguyên tắc: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Đảng phải chăm lo đầy đủ và sâu sắc đến đời sống, lợi ích của nhân dân; xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên. Để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, phải kiên quyết, tích cực làm trong sạch đội ngũ cán bộ của Đảng, khắc phục các hiện tượng sa sút, thoái hóa về phẩm chất, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, củng cố và xây dựng các tổ chức đảng thật trong sạch, vững mạnh, làm cho Đảng thật sự là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân7.

Thời gian tới, tình hình quốc tế, khu vực có nhiều thay đổi phức tạp, nhanh chóng, khó lường; tình hình trong nước vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức về kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, đời sống nhân dân; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, kiểm soát quyền lực còn một số hạn chế phải nhanh chóng khắc phục.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII tiếp tục xây dựng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, đối ngoại, phát triển đất nước ở mức độ cao hơn. Động lực phát triển của đất nước giai đoạn tới chính là tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, văn hóa và con người Việt Nam, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là năng lực lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trên cơ sở đó, công tác dân vận của Đảng phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng đáp ứng yêu cầu đặt ra, tập trung vào những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:

Một là, tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động về công tác dân vận của các cấp ủy đảng và của cả hệ thống chính trị; phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Đổi mới công tác dân vận theo hướng thiết thực, sáng tạo; lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên; tạo đồng thuận, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, phát huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Hai là, tập trung làm tốt công tác dân vận của các cơ quan nhà nước các cấp, trọng tâm là: (1). Phát huy vai trò tham gia của nhân dân trong quá trình xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật; bảo đảm hài hòa lợi ích hợp pháp, chính đáng giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân gắn với lợi ích quốc gia - dân tộc, quan tâm địa bàn khó khăn, đối tượng yếu thế trong xã hội. Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Nâng cao chất lượng, khắc phục tính hình thức trong hoạt động tiếp xúc cử tri, hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tiếp dân, đối thoại, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của nhân dân. (2). Nâng cao đạo đức công vụ, tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực thi công vụ; phát huy vai trò gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ quản lý, lãnh đạo, người đứng đầu trước nhân dân. Kiên quyết phê phán, đấu tranh biểu hiện thờ ơ, vô cảm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu, thiếu trách nhiệm với nhân dân; đồng thời, nâng cao trách nhiệm công dân, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật. (3). Thực hiện tốt Quy chế Dân chủ cơ sở, sâu sát cơ sở, lắng nghe tâm tư, kịp thời giải quyết nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của nhân dân; khắc phục tình trạng chậm hoặc không nắm được tình hình nhân dân. Tập trung xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề bức xúc liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân, các vụ khiếu kiện đông người, vượt cấp, kéo dài, tránh để hình thành và lan rộng các điểm nóng về an ninh, trật tự xã hội.

Ba là, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện tốt phong trào Thi đua “Dân vận khéo”, tích cực tuyên truyền, biểu dương, nhân rộng các mô hình, điển hình về công tác dân vận. Phát huy vai trò, tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và tổ chức của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng theo hướng có trọng tâm, thực chất, hiệu quả hơn; nâng cao hiệu quả giám sát và phản biện xã hội. Quan tâm lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và có cơ chế, chính sách động viên đội ngũ cán bộ làm công tác mặt trận, dân vận, đoàn thể; kiên quyết không bố trí cán bộ thiếu gương mẫu, đạo đức kém, vi phạm kỷ luật làm công tác dân vận.

Bốn là, tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác phòng, chống tham nhũng; nâng cao vai trò, trách nhiệm và tính gương mẫu của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, các cơ quan, tổ chức; kiên quyết đấu tranh với những quan điểm, luận điệu sai trái.

Năm là, phối hợp, thực hiện có hiệu quả Quy chế công tác Dân vận của hệ thống chính trị; tích cực đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về công tác dân vận.

Trong chặng đường phát triển tiếp theo của đất nước với mục tiêu trở thành nước đang phát triển, công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào dịp kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng; trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào dịp kỷ niệm 100 năm thành lập Nước, đòi hỏi công tác dân vận phải không ngừng phát huy truyền thống, nâng cao năng lực vận động quần chúng, làm tốt vai trò là cầu nối quan trọng giữa Đảng với nhân dân, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

http://tapchiqptd.vn/vi/nhung-chu-truong-cong-tac-lon/phat-huy-truyen-thong-90-nam-tiep-tuc-doi-moi-nang-cao-hieu-qua-cong-tac-dan-van-cua-dang-/16129.html____________________

1 - Thông báo ý kiến của Bộ Chính trị số 293-CV/TW, ngày 14/10/1999.

2 - ĐCSVN – Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, tr. 119.

3 - ĐCSVN – Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8, tr. 285.

4 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 278.

5 - Sđd, Tập 5, tr. 88.

6 - ĐCSVN – Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 47, tr. 710.

7 - Bài viết “Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới” của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhân dịp kỷ niệm 75 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 02/9/2020.

 

 

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...