Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong xây dựng Đảng nhằm giữ vững bản chất cách
mạng và khoa học của Đảng và luôn luôn gắn liền với xây dựng Đảng về chính trị,
tổ chức và đạo đức, gắn liền với nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng. Thực tiễn lịch sử của quá trình đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng đã để lại nhiều kinh nghiệm quý, hữu ích cho hiện nay.
1. Thực tiễn lịch sử quá trình đấu tranh bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc-Hồ Chí Minh sáng lập năm 1930, có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng giành độc lập cho dân tộc và phát triển đất nước theo con đường XHCN. Từ
khi thành lập, Đảng đã được xây dựng và hoạt động dựa trên nền tảng tư tưởng,
lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng cách mạng sáng tạo của Nguyễn Ái
Quốc-Hồ Chí Minh. Nền tảng tư tưởng mang giá trị khoa học và hiện thực đó bảo
đảm cho Đảng hoạch định Cương lĩnh, đường lối đúng đắn và hiện thực hóa thành công
những mục tiêu chiến lược, nhiệm vụ chính trị, đưa cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Sớm xác định nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong xây dựng Đảng,
ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các Tổng Bí thư
Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ đã kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa Tờrốtxky và
những phần tử tơrốtxkít phá hoại phong trào cách mạng các nước, trong đó có
cách mạng Việt Nam. Vào những năm 50, 60 của thế kỷ XX, xuất hiện chủ nghĩa xét
lại tiến công vào giá trị khoa học cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trung
ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên quyết và kiên trì đấu tranh, phê phán
chủ nghĩa xét lại và mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế và ở các nước XHCN. NQTƯ 9 khóa III (12-1963) của
Đảng “Về tình hình thế giới và nhiệm vụ quốc tế của Đảng” là đóng góp quan
trọng trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, lý luận.
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên cường đấu
tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, củng cố vững chắc nền tảng
tư tưởng của Đảng với lập trường rõ ràng và với phương pháp đấu tranh, phê phán
thích hợp. Ở trong Đảng khi đó cũng có một số cán bộ, đảng viên đã nhận thức và
hành động trái với quan điểm trong NQTƯ 9 khóa III của Đảng; có người rời bỏ
Đảng, được cử đi học và tìm cách ở lại nước ngoài. Số đó là rất ít. Đảng đã tạo
được sự thống nhất vững chắc về tư tưởng, lý luận, đẩy mạnh cách mạng XHCN ở
miền Bắc, hoàn thành giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Nửa cuối thập niên 80, chủ nghĩa xét lại và
cơ hội một lần nữa gây ảnh hưởng xấu, tổn thất lớn trong các nước XHCN. Những
người xét lại đã nắm quyền lãnh đạo ở các nước XHCN và dẫn các nước XHCN tới sự
khủng hoảng toàn diện, sâu sắc chưa từng có và làm tan rã chế độ XHCN ở các
nước Đông Âu và Liên Xô vào những năm 1989-1991. Vẫn thủ đoạn phủ định và coi
chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời để xóa bỏ con đường XHCN, phá tan những thành
quả to lớn của CNXH đã được xây dựng. Từ phá hoại nền tảng tư tưởng, lý luận
của Đảng để phủ nhận vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, truyền bá
chủ nghĩa đa nguyên chính trị và chế độ đa đảng. Đề cao dân chủ tư sản với
chiêu bài dân chủ hóa, công khai hóa. Phủ nhận những thành quả cách mạng do Đảng
Cộng sản lãnh đạo và chế độ XHCN mang lại.
Với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, Trung
ương Đảng, Bộ Chính trị và Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã sớm nhận thấy những
diễn biến tiêu cực của các Đảng và các nước XHCN, nên đã chủ động phòng ngừa
những ảnh hưởng xấu từ bên ngoài, nhất là trong và sau dịp kỷ niệm 70 năm Cách
mạng Tháng Mười Nga (7-11-1987). Cũng cần thấy rõ một sự thật khi hệ thống CNXH
thế giới lâm vào khủng hoảng đã có một số cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh
đạo cao cấp hoang mang, dao động muốn ngả theo hướng đi khác. Các thế lực phản
động ở trong nước ra sức phá hoại và chờ thời cơ thực hiện hành động lật đổ.
Thế lực thù địch lưu vong ra sách, báo, lập đài phát thanh chống cộng, thực
hiện chiến dịch “chuyển lửa về quê nhà” hy vọng “diễn biến hòa bình” sẽ diễn ra
ở Việt Nam.
Sự chủ động trong đấu tranh và phòng ngừa thể
hiện rõ trong NQTƯ 6 khóa VI (3-1989) của Đảng đề ra những nguyên tắc chỉ đạo
công cuộc đổi mới, bảo đảm cho đổi mới đúng hướng, đúng mục tiêu và có hiệu
quả. Nguyên tắc hàng đầu là khẳng định đi lên CNXH là con đường tất yếu, là mục
tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân Việt Nam. “Đổi mới không phải là thay đổi
mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả
bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và
biện pháp thích hợp”. “Chủ nghĩa Mác-Lênin luôn luôn là nền tảng tư tưởng của
Đảng ta, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta” (1).
Đảng nhấn mạnh nguyên tắc về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, “Phê phán những khuynh hướng
phủ nhận hoặc hạ thấp sự lãnh đạo của Đảng”. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
trên mọi lĩnh vực, nhưng “Dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật, pháp
luật, với ý thức trách nhiệm công dân. Dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo để
phát huy dân chủ đúng hướng, mặt khác phải lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ,
trên cơ sở phát huy dân chủ”. Những nguyên tắc đó đã bảo đảm sự thống nhất nhận
thức và hành động trong toàn Đảng trước những diễn biến phức tạp của quốc tế và
trong nước. Đó cũng là định hướng rất quan trọng và là vũ khí đấu tranh để bảo
vệ nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, phê phán những quan điểm
sai trái, thù địch, chỉnh đốn những nhận thức lệch lạc của một số cán bộ, đảng viên.
Những nguyên tắc đó đến nay vẫn nguyên giá trị và để lại kinh nghiệm quý báu
cho cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng hiện nay.
Tháng 8-1989, HNTƯ 7 khóa VI của Đảng ban
hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình
trong nước và quốc tế hiện nay”. Trung ương đã nhận định 6 điểm về những sai
lầm trong cải tổ, cải cách của một số đảng về thực hiện đa nguyên chính trị, đa
đảng, dân chủ hóa không giới hạn, hạ thấp sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phủ
nhận thành tựu của lịch sử, của CNXH. “Không lãnh đạo chặt chẽ các phương tiện
thông tin đại chúng, để cho báo, đài tùy tiện thông tin và phát biểu những quan
điểm sai trái, tạo ra sự hỗn loạn về tư tưởng” (2). Từ những vấn đề sai lầm của
các Đảng, các nước XHCN mà Đảng Cộng sản Việt Nam kịp thời chỉnh đốn nhận thức
và biện pháp. Đó cũng là kinh nghiệm thật sự có ý nghĩa cho các năm tháng tiếp
theo và hiện tại. NQTƯ 7 khóa VI của Đảng nhấn mạnh: “Giáo dục trong Đảng và
trong nhân dân kiên trì mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở quán
triệt năm nguyên tắc và những chính sách đổi mới của Đảng” (3).
Đảng giữ nghiêm kỷ luật, kiên quyết xử lý cán
bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo cao cấp làm trái nguyên tắc và định hướng
tư tưởng của Đảng. Vượt qua thách thức hiểm nghèo, Đảng giữ vững nền tảng tư
tưởng và kiên định đường lối đổi mới với những thành tựu bước đầu quan trọng đã
bảo đảm ổn định chính trị và cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển theo con
đường đã lựa chọn. Đảng Cộng sản Việt Nam và đất nước Việt Nam trong những năm
1989-1991 không có bất cứ một sự rối loạn, biến động nào.
Đại hội VII (6-1991) của Đảng thông qua Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định
dứt khoát con đường XHCN và Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Toàn bộ mặt trận tư tưởng,
lý luận của Đảng hướng vào làm sáng tỏ và sâu sắc hơn bản chất cách mạng, khoa
học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định tính tất yếu của
con đường XHCN và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời kiên
quyết đấu tranh chống những luận điệu thù địch. Sự khẳng định nền tảng tư tưởng
của Đảng trong Cương lĩnh bảo đảm sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng đồng
thời nêu rõ ý chí đấu tranh đối với những gì đi ngược lại tư tưởng cách mạng và
khoa học đó.
Thập niên 90 chứng kiến nhiều biến động lớn
trên thế giới. Không còn tồn tại phe XHCN nhưng vẫn có những nước kiên định con
đường XHCN, trong đó có Việt Nam và tiếp tục phát triển với những thành tựu
quan trọng. Chiến tranh lạnh chấm dứt năm 1991, từ thế giới 2 cực (Mỹ và Liên
Xô) chuyển sang thế giới đa cực, từ đối đầu sang đối thoại, toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế. Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ. Nhiều vấn
đề mới đặt ra trong nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH với những đặc
điểm mới của thời đại. Với Cương lĩnh năm 1991 thể hiện rõ sự đổi mới tư duy lý
luận, phát triển nhận thức, song vẫn còn nhiều vấn đề phải tổng kết từ thực
tiễn làm rõ cơ sở khoa học có tính thuyết phục. Các thế lực thù địch lợi dụng
sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Đông Âu, Liên Xô tuyên bố sự cáo chung của CNXH,
của lý luận Mác-Lênin và đòi Đảng Cộng sản từ bỏ vai trò lãnh đạo, đẩy mạnh
chiến lược và thủ đoạn “diễn biến hòa bình”.
Ngày 28-3-1992, Bộ Chính trị khóa VII đã ban
hành Nghị quyết số 01-NQ/TW “Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay”.
Nhìn lại hơn 5 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI, Bộ Chính trị nêu
rõ: “Nét nổi bật là đã bước đầu đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế,
khắc phục được một phần những biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều và bệnh chủ
quan duy ý chí, đồng thời tỉnh táo phòng ngừa và ngăn chặn những ảnh hưởng nguy
hại của chủ nghĩa cơ hội, xét lại”. Đã tiến hành cuộc đấu tranh trên mặt trận
tư tưởng-lý luận “nhằm uốn nắn những quan niệm lệch lạc, phê phán những khuynh
hướng sai lầm, chống lại các quan điểm phản động mưu toan phủ định chủ nghĩa
Mác-Lênin, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng. Những
hoạt động trên đã góp phần vào việc giữ vững ổn định về chính trị” (4).
Bộ Chính trị nêu rõ những phương hướng, nhiệm
vụ cơ bản và biện pháp đẩy mạnh công tác lý luận, đồng thời nhấn mạnh: “Cần
tiến hành thường xuyên cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận theo yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới. Khắc phục chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm, đồng
thời chống chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh và xét lại” (5).
Các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước
vẫn đẩy mạnh thực hiện chiến lược và thủ đoạn “diễn biến hòa bình” hòng xóa bỏ
sự lãnh đạo của Đảng, thủ tiêu chế độ XHCN ở Việt Nam. Hội nghị đại biểu toàn
quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1-1994) đã coi “diễn biến hòa bình” là một trong 4
nguy cơ lớn đối với con đường phát triển của cách mạng Việt Nam.
Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị được
ban hành ngày 18-2-1995 “Về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện
nay”, đề ra 6 định hướng lớn của công tác tư tưởng, trong đó đặc biệt nhấn
mạnh: “Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động của Đảng ta và của cách mạng Việt Nam”. “Độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn”. Đó là những vấn đề
có tính nguyên tắc để thống nhất nhận thức và hành động trong toàn Đảng đồng
thời kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm đi ngược lại quan điểm đó. Phải
tăng cường lãnh đạo công tác tư tưởng. Về biện pháp, Bộ Chính trị nêu rõ: “Có
kế hoạch mở các lớp ngắn ngày bồi dưỡng các quan điểm của Đảng cho cán bộ lãnh
đạo chủ chốt các cấp, cán bộ lãnh đạo các cơ quan tư tưởng, văn hóa, giảng viên
lý luận chính trị các trường của Đảng, của Nhà nước và hệ thống giáo dục quốc
dân”. “Rút kinh nghiệm công tác đấu tranh chống những luận điệu tuyên truyền
xuyên tạc của địch, nhất là trên báo, đài, có kế hoạch chủ động kịp thời chống
âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” về tư tưởng, văn hóa của chúng” (6).
Tổng kết 10 năm (1996), 20 năm (2006) và 30
năm đổi mới (2016), Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử cả về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, quốc phòng,
an ninh, đối ngoại. Những thành tựu đó được toàn dân và bạn bè quốc tế thừa
nhận. Đó cũng chính là thước đo tính đúng đắn của Cương lĩnh và đường lối đổi
mới của Đảng và Cương lĩnh, đường lối lại dựa trên nền tảng tư tưởng, lý luận
được vận dụng và phát triển sáng tạo từ thực tiễn Việt Nam. Trong các thành tựu
của đổi mới có thành tựu của công tác tư tưởng, lý luận, khắc phục bệnh giáo
điều, chủ quan duy ý chí, phát triển tư duy sáng tạo. Đại hội XII (1-2016) của
Đảng đánh giá: “Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận có bước được
nâng lên. Công tác tư tưởng được coi trọng và tăng cường, góp phần tạo sự thống
nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Tích cực đấu tranh phòng, chống
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động phòng ngừa, đấu tranh
phê phán, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ” (7).
Đại hội XII của Đảng cũng thẳng thắn chỉ rõ
những hạn chế, khuyết điểm: “Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận
chưa cao. Chậm khắc phục có hiệu quả những hạn chế của công tác tư tưởng như
thiếu sắc bén, chưa thuyết phục. Đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” còn bị động, hiệu quả chưa cao” (8).
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và NQTƯ 4
khóa XII của Đảng đã chỉ rõ thực trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ. Các thế lực thù địch đã lợi dụng tình hình đó để đẩy mạnh vu
cáo, đả kích Đảng và sự lãnh đạo của Đảng. Yêu cầu khách quan phải tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái trong Đảng để nâng cao
sức chiến đấu và khả năng tự bảo vệ. Ở đây có mối liên hệ trực tiếp giữa khắc
phục sự suy thoái trong nội bộ với đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái,
thù địch. NQTƯ 4 khóa XII (10-2016) của Đảng cảnh báo: “Sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ
là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp
tay hoặc câu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc” (9).
2. Những kinh nghiệm từ quá trình đấu tranh
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, sự
nghiệp đấu tranh của Đảng và dân tộc phải chống lại kẻ thù xâm lược hung bạo để
giành độc lập, tự do, đồng thời lại phải chống lại sự phá hoại về tư tưởng, lý
luận của các thế lực thù địch bằng “diễn biến hòa bình” hòng đưa cách mạng đi
chệch hướng dẫn tới thất bại. Chống kẻ thù xâm lược, phải tiến hành chiến tranh
cách mạng với sức mạnh tổng hợp của khoa học, nghệ thuật quân sự Việt Nam để
chiến thắng. Chống kẻ địch trên mặt trận tư tưởng, lý luận cũng vô cùng khó
khăn, phức tạp, không thể xem thường. Cách mạng Việt Nam không ngừng phát
triển, nhất là trong công cuộc đổi mới đã để lại những kinh nghiệm quý báu
trong đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, thù địch.
Một là, trong bất kể hoàn cảnh và tình thế nào cũng kiên định
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh-nền tảng tư tưởng quyết định bản chất
cách mạng, khoa học của Đảng. Trung thành với hệ tư tưởng, học thuyết lý luận
gắn liền với đổi mới tư duy, vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực
tiễn Việt Nam. Hồ Chí Minh nhấn mạnh học tập, trung thành với chủ nghĩa
Mác-Lênin không phải là thuộc lòng câu chữ mà nắm vững bản chất, phương pháp
khoa học của học thuyết đó. Không ngừng nghiên cứu lý luận và tổng kết thực
tiễn để nhận thức rõ những giá trị bền vững phổ biến về tư tưởng, lý luận đồng
thời nhận thức rõ những quy luật riêng của cách mạng Việt Nam như Hồ Chí Minh
đã tìm tòi và luôn luôn đặt ra. Sáng tạo trong lãnh đạo chiến tranh cách mạng
với tư tưởng, quan điểm đặc sắc của chiến tranh nhân dân. Sáng tạo trong cách
mạng XHCN, đổi mới, phát triển đất nước: nhận thức về CNXH và con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Sáng rõ về mô hình CNXH; về những vấn đề
của thời kỳ quá độ lên CNXH; về hình thức tổ chức kinh tế, xã hội, chính trị,
bước đi; về khả năng và nội dung bỏ qua CNTB và kế thừa thành quả của nhân
loại.
Không thể làm sáng tỏ những vấn đề tư tưởng,
lý luận nếu không quyết tâm khắc phục chủ nghĩa giáo điều, bệnh chủ quan duy ý
chí, quan niệm giản đơn, hời hợt về những quy luật khách quan của lịch sử và
quá trình cách mạng. Đổi mới và sáng tạo trong nhận thức tư tưởng, lý luận,
trong tư duy là sự bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn. Sự phát triển sáng tạo có tính
thuyết phục về tư tưởng, lý luận về con đường phát triển hợp quy luật của đất
nước là cơ sở vững chắc để đấu tranh phê phán những nhận thức lệch lạc, sai
trái, thù địch. Khẳng định cái đúng cũng chính là phê phán cái sai, phản động.
Hai là, chú trọng công tác chính trị tư tưởng, nâng cao nhận
thức và trình độ lý luận, bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên, nhất là đối
với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng
bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động, sự đoàn kết vững chắc trong Đảng.
Đảng coi trọng giáo dục tư tưởng, lý luận trong Đảng đồng thời cán bộ, đảng
viên ra sức học tập lý luận, rèn luyện, nâng cao lập trường tư tưởng, nắm vững
Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng. Đó là yêu cầu cần thiết nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, khả năng “tự bảo vệ” của mỗi cán
bộ, đảng viên trước những tác động và ảnh hưởng xấu từ bên ngoài. Đảng vững
vàng vượt qua được thử thách vì có đội ngũ cán bộ, đảng viên được giáo dục, rèn
luyện tốt có bản lĩnh chính trị vững vàng.
Cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa sự giáo
dục nghiêm túc của Đảng với tự tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên. Hồ
Chí Minh lưu ý tự tu dưỡng của cán bộ, đảng viên cả về phẩm chất đạo đức, cả về
tư tưởng lý luận và nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng. Khi có một bộ phận
cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị thì các thế lực thù địch,
phản động càng đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Sự suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên
trước hết là do những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện, lập
trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ
bên ngoài. Nhưng thực trạng đó cũng còn do “Công tác giáo dục chính trị tư
tưởng cho cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng
dạy và học tập nghị quyết của Đảng chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả”
như NQTƯ 4 khóa XII của Đảng đã nhận định. Biểu hiện phai nhạt lý tưởng cách
mạng, xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng, lười học tập, sợ học lý luận, lười suy
nghĩ, tình trạng “nhạt đảng, nhạt đoàn, nhạt chính trị” phải được khắc phục,
mới có thể bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Ba là, luôn luôn tỉnh táo phòng ngừa, chủ động và kiên quyết
đấu tranh phê phán mọi nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái và thù địch. Điều
quan trọng nhất là không bao giờ được nhân nhượng, thỏa hiệp về tư tưởng, lý
luận; càng không được rút lui, hạ vũ khí trên mặt trận tư tưởng. Những người
theo chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội, chống CNXH luôn luôn tìm mọi cách phủ
nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, coi học thuyết đó đã lỗi thời, không còn phù hợp với
thời đại ngày nay, phủ nhận con đường XHCN nhất là khi mô hình CNXH tan rã ở
các nước Đông Âu và Liên Xô. Với những thế lực này cần đấu tranh, phê phán dựa
trên những luận cứ khoa học đúng đắn, nhất là những giá trị, thành tựu trong
quá trình hiện thực hóa học thuyết lý luận. Điều này đòi hỏi cán bộ lý luận
cũng như cán bộ lãnh đạo, quản lý phải nắm vững, thấu hiểu sâu sắc giá trị khoa
học, hiện thực, bản chất, linh hồn sống và phương pháp luận khoa học của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để đấu tranh phê phán có chiều sâu,
thuyết phục và có hiệu quả. Từ thực tiễn, thành tựu của cách mạng Việt Nam mà
làm sáng tỏ, chứng minh tính đúng đắn của hệ tư tưởng, lý luận và khẳng định sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng, kết hợp lý luận và thực tiễn quyết định thắng lợi
của cách mạng.
Sự chủ động, tỉnh táo ở tầm nhìn, tầm tư duy
chiến lược của cơ quan lãnh đạo, người lãnh đạo cao nhất và của các cơ quan
tham mưu, chuyên môn trên lĩnh vực tư tưởng lý luận. Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng trên mặt trận tư tưởng, lý luận nói chung và trong đấu tranh phê phán
những quan điểm sai trái, thù địch có ý nghĩa quyết định thành công. Trung
ương, Bộ Chính trị luôn luôn có định hướng đúng đắn về công tác tư tưởng. Định
hướng cho thời kỳ dài và phương hướng cụ thể của từng giai đoạn. Đó là cơ sở
rất quan trọng để các cơ quan chuyên môn, cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận
kịp thời đề xuất bước đi, giải pháp cần thực hiện.
Bốn là, hoàn thiện và thực hiện tốt các chính sách, pháp luật
liên quan đến bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, quản lý tốt và nâng cao vai
trò của báo chí, truyền thông. Các thế lực thù địch lợi dụng những vấn đề dân
chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo,… để vu cáo, xuyên tạc, đả kích sự lãnh đạo
của Đảng, Nhà nước, nói xấu chế độ. Trên thực tế, Đảng và Nhà nước đã hoàn
thiện nền dân chủ XHCN, thực hiện tốt hơn quy chế, pháp lệnh dân chủ ở cơ sở,
tăng cường dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. Thực hiện đúng đắn quyền con
người theo công ước quốc tế và theo Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam. Chính
sách tôn giáo và chính sách dân tộc được hoàn thiện góp phần quan trọng đoàn
kết các tôn giáo, các dân tộc trong khối đại đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Vai trò của thế hệ trẻ, của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ được phát
huy với những chính sách và điều kiện cần thiết để phát triển và cống hiến. Đó
là cơ sở xã hội, lực lượng rất quan trọng. Liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong điều kiện mới tiếp tục được
củng cố tạo hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh tư tưởng chống các thế lực thù địch,
phản động. Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng gắn liền với sự đoàn kết toàn dân
tộc, đồng thuận xã hội bảo đảm cho thành công. Xử lý các thế lực chống đối về
tư tưởng cũng theo quy định của pháp luật.
Các thời điểm đấu tranh tư tưởng quyết liệt
trước đây, vai trò của báo chí và các phương tiện truyền thống là vô cùng quan
trọng nhằm định hướng đúng đắn nhận thức trong Đảng và trong xã hội, phê phán
những quan điểm sai trái, thù địch, những nhận thức mơ hồ, lệch lạc. Đúng như
V.I.Lênin xác định báo chí là người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ
chức tập thể. Ngày nay, báo chí, truyền thông càng có vai trò quan trọng trong
truyền bá hệ tư tưởng, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, định
hướng đúng đắn công tác tư tưởng của Đảng và dư luận xã hội, phản bác những
quan điểm sai trái, thù địch. Công việc quản lý báo chí, truyền thông là rất
quan trọng bảo đảm định hướng tư tưởng đúng đắn, nhất là trong điều kiện công
nghệ truyền thông, internet, các loại hình báo viết, báo hình, báo nói, báo
điện tử phát triển. Trong điều kiện Nhà nước pháp quyền, quản lý báo chí, hoạt
động của báo chí, truyền thông tuân thủ pháp luật có ý nghĩa quan trọng bảo đảm
sự đóng góp tích cực và lành mạnh của báo chí.
Những kinh nghiệm lãnh đạo đấu tranh phản bác
những quan điểm sai trái, thù địch được Đảng tổng kết kịp thời trên mặt trận tư
tưởng. Điều đó có ý nghĩa rất quan trọng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và
bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Đó cũng
là vấn đề rất quan trọng đặt ra trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, không
chỉ chống các thế lực thù địch về tư tưởng, ý thức hệ mà còn góp phần ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng
viên và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ.
--------------------------------------------
(1),
(2), (3). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2007, T.
49, tr. 591, 731, 742
(4), (5). Sđd, T. 52, tr. 19, 25
(6). Sđd, T. 54, tr. 233-234
(7), (8), (9). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H,
2016, tr. 186, 192-193, 23.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét