NHỮNG CÁI NHÌN SAI TRÁI VỀ NỀN
GIÁO DỤC VIỆT NAM
Cùng với sự phát triển về kinh tế, văn hóa, xã
hội, những năm qua, giáo dục Việt Nam có những chuyển động tích cực và chuyển
biến tiến bộ về nhiều mặt. Chính những thành tựu to lớn về giáo dục không chỉ
là một trong những động lực thúc đẩy đất nước đi lên, mà góp phần làm cho diện
mạo đời sống xã hội ngày càng khởi sắc.
Tuy nhiên, thời gian gần đây, lợi dụng một số
vụ việc đơn lẻ xảy ra trong ngành giáo dục, một số người có cái nhìn chưa khách
quan, toàn diện, thậm chí phủ nhận những thành tựu của nền giáo dục Việt Nam.
Những
liên tưởng sai trái và sự xuyên tạc trơ trẽn
Những ngày gần đây, xã hội nói chung, những
người tâm huyết với sự nghiệp “trồng người” nói riêng không khỏi băn khoăn,
chạnh lòng khi nghe thông tin về trường hợp một nữ giáo viên bậc tiểu học ở
tỉnh Long An bị phụ huynh tạo áp lực phải quỳ gối trước học sinh trong vòng 40
phút. Đây là một vụ việc hi hữu, rất đáng lên án vì nó làm tổn thương nghiêm
trọng đến danh dự, uy tín, phẩm giá của các thầy, cô giáo. Sau khi vụ việc xảy
ra, các cơ quan chức năng sớm vào cuộc làm rõ tính chất, mức độ, hậu quả vụ
việc để có hướng xử lý phù hợp. Người gây áp lực bắt nữ giáo viên phải quỳ đã
bị khai trừ ra khỏi Đảng.
Trong khi nhiều cơ quan báo chí, nhiều luật
sư, nhiều nhà giáo lên tiếng kịp thời, phân tích thấu đáo, bình luận có lý, có
tình nhằm giúp công luận có một cái nhìn đúng đắn, khách quan về vụ việc, thì
đáng tiếc vẫn có những ý kiến nhìn nhận vấn đề mang nặng tính áp đặt chủ quan,
thiếu thiện chí, thiếu nhân văn, thậm chí đánh đồng hiện tượng với bản chất
theo kiểu “vơ đũa cả nắm”, từ đó có những liên tưởng, suy diễn không đúng mực
về nhà giáo, về ngành giáo dục Việt Nam. Cá biệt có trường hợp lợi dụng vài ba
vụ việc đơn lẻ xảy ra trong hoạt động giáo dục để xuyên tạc mục tiêu, bản chất
tốt đẹp của nền giáo dục cách mạng Việt Nam. Ví như họ coi ngành giáo dục là
“ngành ăn mày xã hội”, viễn cảnh giáo dục Việt Nam như một bức màn “màu đen xám
xịt”, đó là “nền giáo dục ngu dân do độc đảng cai trị” (!).
Viết về giáo dục mà bằng những lời lẽ vô văn
hóa, phản giáo dục như vậy đã bộc lộ rõ “tim đen” của những người bình luận.
Mặt khác, cách nhìn nhận, đánh giá về giáo dục Việt Nam kiểu đó chẳng khác nào
cách liên tưởng bằng con mắt “mù màu”, bằng những lời xuyên tạc trơ trẽn. Vì
thế, không những không được hầu hết người dân Việt Nam chấp thuận, mà cũng khó
có thể làm lung lay nền tảng vững chắc của nền giáo dục cách mạng Việt Nam đã
được vun trồng, bồi đắp bền bỉ hơn 7 thập niên qua dưới chế độ giáo dục XHCN
đầy tính nhân văn, ưu việt.
Những
gam màu tươi sáng của giáo dục Việt Nam
Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, suốt 73 năm qua kể từ khi nước Việt Nam
giành được độc lập, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam ngày càng quan tâm đến
lĩnh vực giáo dục, vì giáo dục liên quan đến sức mạnh, sự trường tồn, hưng
thịnh của quốc gia. Đảng ta nhiều lần khẳng định, giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển. Vì vậy,
trong từng thời kỳ cách mạng, giáo dục Việt Nam luôn có sự cải cách, đổi mới để
theo kịp sự phát triển của thời đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ giữa thế kỷ 20 đến nay, Việt Nam đã tiến
hành nhiều cuộc cải cách giáo dục. Năm 1950, trong hoàn cảnh nước nhà còn muôn
vàn khó khăn, nhưng cuộc cải cách giáo dục lần đầu tiên đã nhằm mục tiêu xây
dựng một nền giáo dục của dân, do dân và vì dân; đến năm 1956, cải cách giáo
dục lần thứ hai hướng tới đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những công dân
tốt, có đức có tài; đến lần thứ ba năm 1981, cuộc cải cách giáo dục toàn diện
hơn, đồng bộ hơn nhằm tạo bước chuyển biến mới về hệ thống giáo dục, nội dung
và phương pháp dạy học. Hiện nay, chúng ta đang khẩn trương tiến hành một “cuộc
cách mạng” về giáo dục với việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo
tinh thần Nghị quyết 29-NQ/TW khóa XI của Đảng, bảo đảm cho giáo dục Việt Nam
phát triển theo định hướng XHCN, hội nhập quốc tế, thích ứng với cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0. Theo lộ trình, còn khoảng một năm rưỡi nữa, tức là bắt đầu từ
năm học mới 2019-2020, chính thức triển khai áp dụng chương trình giáo dục phổ
thông mới ở bậc tiểu học.
Một trong những thành tựu lớn nhất trong hơn
30 năm đổi mới được cộng đồng quốc tế ghi nhận là nền giáo dục Việt Nam có sự
phát triển cả về lượng và chất. Chúng ta không chỉ hoàn thành mục tiêu đưa hầu
hết trẻ em đúng độ tuổi được đến trường học tập và đến nay cơ bản hoàn thành
phổ cập THCS ở khắp các địa phương trong cả nước, mà chất lượng giáo dục cũng
ngày càng có nhiều chuyển biến tích cực ở tất cả đối tượng học sinh và các cấp
học, bậc học. Điều này được bà Irina Bokova, Tổng giám đốc Tổ chức Giáo dục,
Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) nhìn nhận trong chuyến thăm Việt
Nam vào dịp tháng 8-2017: “Trong lần thứ ba đến Việt Nam, tôi thấy Việt Nam có
nhiều thay đổi, nhất là sự phát triển tích cực về kinh tế cũng như chất lượng
giáo dục, trong đó có thành tựu về đào tạo giáo viên và thúc đẩy sự công bằng,
bình đẳng về giáo dục”.
Không ngẫu nhiên mà người đứng đầu UNESCO ghi
nhận về thành tựu giáo dục Việt Nam như vậy. Vài dẫn chứng sau đây phần nào
minh chứng điều đó. Đến nay, các trường đại học ở Việt Nam đã có hơn 500 chương
trình đào tạo quốc tế với các trường đại học ở nhiều nước trên thế giới; chưa
kể hàng chục chương trình đào tạo kỹ sư chất lượng cao, cử nhân tài năng,
chương trình tiên tiến theo chuẩn quốc tế, chương trình đào tạo theo định hướng
nghề nghiệp ứng dụng (POHE)… Những năm gần đây, Việt Nam cũng trở thành một
trong những điểm sáng trên bản đồ giáo dục thế giới khi đăng cai và tổ chức
thành công nhiều kỳ thi quốc tế, như: Olympic Vật lý châu Á 2004, Olympic Toán
học quốc tế 2007, Olympic Vật lý quốc tế 2008, Olympic Hóa học quốc tế 2012,
Olympic Sinh học quốc tế 2016. Đặc biệt, thành tích của các đội tuyển học sinh
Việt Nam tham dự các kỳ thi Olympic quốc tế cũng rất nổi bật, được bạn bè quốc
tế ngưỡng mộ. Năm 2017, đội tuyển Olympic quốc tế các môn Toán, Vật lý, Hóa học
của Việt Nam được đánh giá là giành thành tích cao nhất trong lịch sử tham dự
Olympic bởi cả số lượng, chất lượng huy chương mang về cho Tổ quốc. 4/4 thí
sinh dự thi Olympic Hóa học đều giành huy chương (gồm 3 Huy chương Vàng, 1 Huy
chương Bạc). Đội tuyển Olympic Vật lý Việt Nam đoạt 4 Huy chương Vàng, 1 Huy
chương Bạc, đứng thứ 5/86 quốc gia và vùng lãnh thổ tham dự, sau Trung Quốc,
Hàn Quốc, Nga và Singapore. 6/6 thí sinh Việt Nam đều giành huy chương (4 Huy
chương Vàng, 1 Huy chương Bạc, 1 Huy chương Đồng) cuộc thi Olympic Toán học
quốc tế, xếp thứ 3/112 quốc gia và vùng lãnh thổ tham dự, chỉ sau Hàn Quốc và
Trung Quốc. Đó là minh chứng sinh động thể hiện giáo dục Việt Nam đang chủ
động hội nhập thế giới, không ngừng tiếp cận chuẩn mực giáo dục quốc tế để làm
mới, làm giàu cho nền giáo dục của quốc gia mình. Đó cũng là gam màu tươi sáng
thể hiện bức tranh giáo dục Việt Nam đang trên đà khởi sắc.
Đối với nhà giáo, từ lâu dân tộc Việt Nam đã
có truyền thống tôn sư trọng đạo, mọi người, mọi nhà luôn trân trọng những
người làm nghề dạy học. Đảng, Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chính sách hợp lý
để bảo đảm cho đội ngũ nhà giáo yên tâm gắn bó với nghiệp “trồng người”, góp
phần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục nước nhà phát triển. Hầu hết các thầy, cô giáo
đều yêu nghề, yêu người, không ngừng rèn luyện, phấn đấu hoàn thành tốt sứ mệnh
cao cả của mình, xứng đáng với lòng tin của toàn xã hội. Những thành tựu của
giáo dục Việt Nam thời gian qua có một phần đóng góp quyết định của đội ngũ nhà
giáo trên khắp mọi miền đất nước.
Tất nhiên, nói như thế không có nghĩa nền
giáo dục Việt Nam chỉ toàn “màu hồng”, mà Việt Nam cũng đang gặp những khó
khăn, thách thức phải vượt qua. Điều này đã được Đảng Cộng sản Việt Nam nhận
định sâu sắc tại Nghị quyết 29-NQ/TW khóa XI, từ đó đưa ra những giải pháp căn
cơ, đồng bộ để đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục nước nhà trong thời gian
tới.
THIỆN
VĂN
Nguồn:http://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/nhung-cai-nhin-sai-trai-ve-nen-giao-duc-viet-nam-534023
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét