Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước là thành quả tổng hợp của một loạt nhân tố tạo nên sức mạnh vô
địch của cách mạng Việt Nam. Nguồn gốc của mọi nhân tố ấy
chính là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng -
một Đảng Mác - Lênin kiên cường cường, giàu kinh nghiệm, đầy trí
tuệ, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, trung thành với những lợi ích sống
Từ cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, chúng ta có thể nhận thấy những bài học lịch sử vô cùng quý giá trong
công tác xây dựng Đảng Mác - Lênin. Đó là quá trình xây
dựng Đảng thống nhất giữa các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đặt
đúng vị trí của mỗi mặt ấy, đồng thời kết hợp chặt chẽ các mặt ấy với
nhau, “tạo nên sức mạnh vô song về sự
toàn thắng của trí tuệ con người đối với máy móc”[1]. XÂY
DỰNG ĐẢNG MÁC - LÊ NIN VỮNG MẠNH VỀ CHÍNH TRỊ
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) đứng trước
những nhu cầu lịch sử mới mà trong kho tàng lý luận Mác - Lênin, cũng như trong
kho tàng kinh nghiệm cách mạng Việt Nam đều chưa có sẵn. Những kinh nghiệm
trong phong trào khởi nghĩa và kháng chiến chống thực dân Pháp, chưa thể
đủ đáp ứng yêu cầu đánh bại một cuộc chiến tranh có quy mô lớn, hiện đại và mức
độ tàn bạo gấp hàng chục lần so với chiến tranh chống thực dân cũ Pháp mà chủ
nghĩa đế quốc kiểu mới Mỹ muốn áp đặt vào miền Nam Việt Nam.
Làm thế nào để đánh thắng Mỹ? vừa là yêu cầu
cấp thiết của cách mạng vừa là thử thách khốc liệt đối với Đảng và nhân dân ta.
Nhu cầu lịch sử đòi hỏi Đảng ta phải rất công phu, phải đầu tư trí tuệ và thử
nghiệm sáng tạo gấp bội lần. Xuất phát từ hai nguyên tắc cơ bản trong đường lối
cách mạng Việt Nam, Đảng đã có những lựa chọn đúng đắn để giải “bài toán” hóc
búa đó:
Thứ nhất, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa
Mác - Lênin, đề ra đường lối
chính trị độc lập, tự chủ và sáng tạo. Trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác -
Lênin, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo, chính xác các
nguyên lý cơ bản vào hoàn cảnh cụ thể nước ta; xác định đúng đối tượng, tính
chất và đặc điểm của cuộc các mạng. Từ đó, xây dựng lực lượng cách mạng, nhiệm
vụ cách mạng và phương pháp cách mạng phù hợp cho mỗi miền Nam - Bắc trong từng
giai đoạn cụ thể. Nét nổi bật và xuyên suốt trong toàn bộ đường lối ấy là Đảng
luôn luôn nắm vững hai ngọn cờ: Độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, gắn liền hai mục tiêu phấn đấu: Vì độc lập dân
tộc và vì chủ nghĩa xã hội để động viên rộng rãi mọi lực lượng của
giai cấp và của dân tộc, kết hợp chặt chẽ sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của
thời đại, tạo nên những dòng thác cách mạng “nhấn chìm lũ cướp nước và bán
nước”.
Thứ hai, tuyệt đối trung
thành những lợi ích thiêng liêng của dân tộc, kết hợp đúng đắn với
lợi ích của phong trào cách mạng thế giới. Trong hoàn cảnh khó khăn,
ác liệt, Đảng càng tỏ rõ mục tiêu phấn
đấu, phương hướng chiến lược để đạt mục tiêu đó: “Đảng đoàn kết lãnh đạo toàn
dân kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, tranh lại thống nhất và độc lập
hoàn toàn; lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến
đến CNXH”[2]. Ngoài ra, Đảng không có lợi ích nào khác. Cũng:
“Có nghĩa là Đảng đã trở thành người lãnh đạo thực tế của toàn xã hội, người
đại biểu trung thành lợi ích thiêng liêng của dân tộc” [3].
Với tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo, nắm vững quy
luật của chiến tranh nhân dân từ khởi nghĩa đến chiến tranh cách mạng, Đảng
ta biết mở đầu chiến tranh và biết kết thúc chiến tranh đúng lúc. Từ đó, giải quyết
thành công các vấn đề đường lối và phương pháp cách mạng, đánh bại hoàn
toàn cả 5 loại chiến lược chiến
tranh và hàng chục, hàng trăm cách đánh của Mỹ qua 5 đời Tổng thống kể từ năm 1954-1975. Trong
một cuộc chiến tranh không có tiền lệ trong lịch sử như
vậy, việc biết địch cũng như hiểu ta. Không thể chỉ căn
cứ từ những kinh nghiệm có sẵn, mà
phải trải qua thực trên chiến trường để nhận thức và đánh giá sâu
sát, rõ ràng thế và lực của mỗi bên để tiếp cận ngày càng gần
với quy luật của cuộc chiến tranh.
Có đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng mới có nội dung, phương
hướng chính xác để đưa cách mạng đến thắng lợi. Nghị quyết 15-NQ/TW (1959) của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng về cách mạng miền Nam chính là sự tìm tòi, kiểm nghiệm để tìm
ra đáp số đúng của bài toán được thể hiện ngay từ trong Cương lĩnh chính trị
đầu tiên khi Đảng mới ra đời: Độc lập dân tộc là trên hết.
Trong 5 thời kỳ của cuộc kháng chiến, mỗi thời kỳ là một lần
chuyển hướng lớn về nhiệm vụ chính trị của Đảng. Mỗi lần như vậy, là một lần
Đảng ta cọ sát với thực tiễn, đấu trí ngoan cường, khôn khéo và sáng tạo với
một cuộc chiến tranh không phải chỉ là một cuộc chiến tranh có quy ước, sử dụng một vài loại chiến tranh và một số cách
đánh sẵn có. Dựa trên đường
lối, phương hướng đúng, vừa đánh vừa học, vừa làm vừa học, vừa chiến đấu vừa xây dựng, đánh đến đâu,
làm đến đấy và xây dựng đến đâu tổng kết kinh nghiệm đến
đấy để nâng dần trình độ của Đảng lên ngang tầm đòi hỏi
của của nhiệm vụ lịch sử.
XÂY DỰNG ĐẢNG MÁC - LÊNIN VỮNG MẠNH VỀ TƯ
TƯỞNG
Dựa trên đường lối chính trị đúng đắn, Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn coi trọng việc tăng cường xây dựng Đảng
về tư tưởng. Trong quá trình xây dựng và phát triển, Đảng luôn
coi công tác tư tưởng là nền tảng quan trọng, chi phối trong toàn bộ hoạt động
của Đảng, như Hồ Chí minh đã từng chỉ ra: “Lãnh đạo quan trọng nhất là
lãnh đạo tư tưởng, phải hiểu tư tưởng của mỗi cán bộ để giúp đỡ thiết thực
trong công tác; vì tư tưởng thông suốt thì làm tốt, tư tưởng nhùng nhằng thì
không làm được việc” [5].
Người chỉ rõ: “Trong Đảng và ngoài Đảng có nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ nhiệm
vụ mới, thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động mới
thống nhất. Nếu trong Đảng và ngoài Đảng từ trên xuống dưới, từ trong đến ngoài
đều tư tưởng thống nhất và hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công
việc tuy khó khăn phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi” [6].
Điều đó, phù hợp với những luận thuyết của Lênin: “Cách mạng
phải bắt đầu từ công tác tư tưởng - văn hóa”, Lênin coi tư tưởng - văn hóa mặt
trận, là vũ khí sắc bén của Đảng và: “Chỉ đảng nào được một nền tảng lý luận,
tư tưởng tiên phong thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”[7].
Làm tốt công tác tư tưởng bao gồm giáo dục, nghiên cứu lý luận, tổng kết, phát
triển, truyền bá lý luận vào quần chúng công nhân; bổ sung, hoàn thiện và bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng theo sát với thực tiễn cách mạng là một phương
thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện cầm quyền. Khi tư tưởng tích cực được mở
rộng, nó sẽ là xu hướng chủ đạo, “đi trước, mở đường” tạo nên sức mạnh tinh
thần to lớn của dân tộc.
Thưc tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cho thấy đây là thời
kỳ sinh hoạt tư tưởng của Đảng có nội dung phong phú, sôi nổi và hiệu
quả nhất. Theo lời hiệu triệu của Đảng và Bác Hồ “Quyết tâm đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược”, tư tưởng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trở thành một
ý chí thống nhất. Qua 5 lần diễn ra những thay đổi trong chiến lược
chiến tranh của đế quốc Mỹ, Đảng ta đã có những chuyển hướng lớn kịp
thời về phương hướng nhiệm vụ chính trị. Thông qua sinh
hoạt tư tưởng, Đảng đã xây dựng vững chắc lập trường, quan
điểm đối với cán bộ, đảng viên; giáo dục cán bộ, đảng viên, quân và
dân thích nghi với nhiệm vụ mới, hoàn cảnh mới, trên cơ sở đường lối cách
mạng của Đảng.
Công tác tư tưởng không chỉ tạo nên sự thống nhất hành động mà còn
khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí căm thù giặc sâu sắc, ngăn
chặn kịp thời mọi khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa “hữu” và
"tả" trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Đó cũng chính là thành công của Đảng trong công tác
chính trị và xây dựng tổ chức, giúp cho Đảng thực hiện thắng lợi đường lối
chính trị; đồng thời, rèn luyện cán bộ, đảng viên trở thành lực
lượng tiên phong nhất, kiên định nhất về lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính
trị, khả năng giải đáp những vấn đề hóc búa về đường lối, phương pháp và tổ
chức cách mạng trong chiến tranh. Trong toàn bộ cuộc kháng chiến, truyền thống lịch sử "Vua tôi đồng lòng, anh
em hòa thuận, cả nước chung sức"[8] được phát huy ở tầm cao mới. Công tác tư tưởng đã động viên
cao độ nghị lực và lòng dũng cảm, tài năng và trí sáng tạo của cán bộ, đảng
viên và của nhân dân, đưa sự nghiệp cách mạng đi từ thắng lợi này đến tháng lợi
khác. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhờ đó đã huy động trùng trùng, điệp
điệp lớp lớp thanh niên ra trận hòa cùng nhịp đập với chiến thắng của đoàn quân
cách mạng: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
Trải qua quá trình rèn luyện, chiến đấu và hy
sinh gian khổ dưới nhiều hình thức khác nhau: Đấu tranh hợp pháp
và không hợp pháp, quân sự và chính trị, khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng,
cải tạo và xây dựng hoà bình... thấm nhuần công tác tư tưởng của Đảng,
tinh thần “đảng viên đi trước, làng
nước đi sau”luôn được phát huy cao độ và trở thành hành động thiết thực. Đảng ta
ngày càng xứng đáng là lực lượng lãnh đạo, bộ tham mưu chính trị, vừa là lực
lượng chiến đấu, là đội quân xung kích dẫn đầu và là người tổ chức các phong
trào cách mạng của quần chúng; xứng đáng
là danh hiệu chiến sĩ tiên phong, đại biểu trung thành lời ích của giai cấp,
của nhân dân và của dân tộc Việt Nam.
XÂY DỰNG ĐẢNG MÁC - LÊNIN VỮNG MẠNH VỀ TỔ CHỨC
Có thể nói, qua tôi luyện trong lò lửa cách mạng của cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng ta trở thành “một Đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc
chắn, trong sạch, cách mạng triệt để”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nêu:
“Đảng ta là con nòi của dân tộc”. Sự lãnh đạo kiên cường của Đảng, sự chấp nhận
hy sinh vô điều kiện của hàng vạn đảng viên trung kiên để giữ vững tổ chức, cơ
sở cách mạng đã tô thắm thêm ngọn cờ tiên phong của Đảng. Trong kháng chiến, từ
hậu phương đến chiến trường, mọi đảng viên, tổ chức của Đảng đều nhận thấy
rõ, mình đang ở đâu, mình đang và phải là gì? Được chăm lo và rèn luyện ở mức
cao nhất, mọi tổ chức đảng và đảng viên đều tuân thủ mệnh lênh, đưa khả
năng tổ chức lên ngang tầm với nhu cầu chính trị, đảm bảo thi hành trọn vẹn
đường lối, chính sách của Đảng. Điều đó cũng thể hiện rõ tư tưởng của chủ nghĩa
Mác - Lênin: “Trong cuộc đấu tranh để giành
chính quyền, giai cấp vô sản không có vũ khí nào khác hơn là sự tổ chức”[9].
Trong 21 năm kháng chiến kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đảng viên
và tổ chức cơ sở Đảng liên tục được phát triển, mở rộng. Năm 1954, cả nước có
chưa đầy 20 ngàn chi bộ, 10 ngàn đảng bộ cơ sở và 65 vạn đảng viên nhưng đến
năm 1975 đã có 95.486 chi bộ, 34.545 đảng bộ cơ sở ở khắp các địa phương,
các ngành cùng với hơn 1,55 triệu đảng viên (chiếm 3,13% dân số)
tăng gấp hai lần số đảng viên năm 1966 (76 vạn người). Qua đấu tranh cách
mạng ở cả hai miền, số đông đảng viên biểu lộ phẩm chất, đạo đức và tinh thần
cách mạng cao cả. Hàng chục vạn đảng viên cùng với nhân dân hai miền
Nam – Bắc sẵn sàng chấp nhận sự hy sinh
cần thiết[10] để xóa bỏ nỗi đau mất nước,
xóa bỏ tai họa chia cắt, để có được quyền làm chủ toàn bộ đất nước
của mình. Sau chiến tranh, họ đều là những người gương mẫu, luôn
nêu cao tinh thần cách mạng, tận tuỵ phấn đấu trong công cuộc hàn gắn vết
thương chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới.
Có thể nói, đây là một thời kỳ chói sáng của Đảng ta về tổ
chức. Trong đó, sự nhất trí cao về tư tưởng, tổ chức đảm
bỏa cho thắng lợi của đường lối chính trị. Sự đảm bảo đó, được tăng
cường bằng nguyên tắc của Đảng, bằng kỷ luật thống nhất trong trong toàn
Đảng theo mệnh lệnh thời chiến. Trong Đảng, không có chia rẽ chính trị;
không có biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống; chủ nghĩa cá nhân
được hạn chế thấp nhất; tinh thần cộng sản và quốc tế vô sản được đề cao. Khối
đoàn kết, thống nhất của Đảng được củng cố là một yếu tố quan trọng
tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng, làm nên sức mạnh vũ bão của dân tộc. Trong
chiến đấu gian khổ, toàn Đảng luôn luôn vững vàng, đoàn kết chặt chẽ chung
quanh Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, hình
thành phong cách lãnh đạo chiến tranh rất sáng tạo và cách mạng. Phương
châm ba bám: du kích bám địch, cán bộ bám dân, dân
bám đất là truyền thống của Đảng và cách mạng từ thời
kỳ chống Pháp, được phát triển lên trình độ mới cao hơn và phổ biến hơn trong
thời kỳ chống Mỹ. Có một thực tế, những đảng viên, những tổ chức không làm được
theo phương châm đó thì sớm muộn cũng bị phong trào cách mạng đào thải. Cuộc
vận động “nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí
Minh" được Bộ Chính trị ra Nghị quyết triển khai từ tháng 4-1970 nhằm thực
hiên Di chúc của Chủ tịch Hồ CHí Minh, đã củng cố mạnh mẽ tổ chức của Đảng. Qua
cuộc vận động đã đưa ra khỏi Đảng hàng vạn người không đủ tư cách đảng
viên, góp phần làm cho hàng ngũ Đảng thêm trong sạch, vững mạnh và sức
chiến đấu của Đảng được nâng cao.
Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của
nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước “mãi mãi được
ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu
tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ
con người, và đi vào lịch sứ thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ
XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tinh thời đại sâu sắc”[11].
Sự phát triển của công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đã
và đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, phức tạp đòi hỏi công
tác xây dựng Đảng Mác - Lênin phải được nâng lên ở tầm cao mới
- tầm cao của lịch sử và thời đại. Dù vậy, những bài học từ
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) về xây dựng Đảng vẫn còn
nguyên giá trị, vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự, nóng hổi. Đấy là bài học quý báu về xây dựng Đảng Mác - Lênin
chân chính ở Việt Nam. Có một Đảng tiên phong, thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có
mối liên hệ mật thiết với nhân dân, luôn đặt lợi ích của giai cấp,
của nhân dân và của dân tộc lên trên hết, trước hết, thì không có lý do gì vị thế
cầm quyền, năng lực và sức chiến đấu của Đảng bị suy giảm. Đảng ấy, vẫn sẽ là
đại biểu trung thành, đội tiên phong dẫn dắt nhân dân Việt Nam đi đến những
thắng lợi mới, huy hoàng trong công cuộc đổi mới đất nước. Và chắc chắn,
sẽ không một thế lực cường bạo nào có
thể khuất phục được./.
[1] Giáo sư Nâv Sihan - Đại học Goócneạ Mỹ. Trích theo:
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam 1954-1975, Nxb. Chính trị quốc gia, H,
1995, tr. 731.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn
tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2004, t. 12, tr.37.
[3] Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì
độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi
mới; Nxb. Sự thật, H,1960, tr.156.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia , H, 2011, t. 15, tr. 623.
[5], [6] Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia , H, 2011, t. 8,
tr. 280, 133
[7] V.I.Lênin, Toàn
tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva,
1978, tr.32
[8] Theo: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam 1954-1975: "Quân thần
đồng tâm, huynh đệ hòa mục, quốc gia tính lực, bỉ
tự tựu cầm, thiên sử nhiên dã". Hai câu cuối tạm
dịch là: địch tự chịu bị bắt, đó là do trời xui nên vậy. Sđd,
tr. 675.
[9] V.I.Lênin, Toàn
tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978, tr.171,
[10] Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), theo thống kệ
của Bộ Lao động, Thương và Xã hội tháng 10-1993, con số hy sinh và thiệt hại
của nhân dân ta như sau: 1,1 triệu liệt sĩ; 600.000 thương, bệnh binh; 300.000 người mất tích; gần 2.000.000 dân bị địch giết hại;
2.000.000 người dân tàn tật; 2.000.000 người bị nhiễm hóa chất độc (khoảng
50.000 trẻ em dị dạng). Số người bị Mỹ và Việt Nam cộng hòa bắt và cầm tù, chưa
tổng hợp đầy đủ. Nguồn: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
1954-1975: Sđd, tr.736.
[11] Đảng Cộng sán Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn
tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2004, t. 37, tr.471.
http://www.tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/xay-dung-dang-mac-lenin-vung-manh-bai-hoc-tu-cuoc-khang-chien-chong-my-cuu-nuoc-127873
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét