Thứ Năm, 24 tháng 5, 2018


 THỰC HIỆN CÔNG TÁC TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO THEO QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH, GIẢI PHÁP QUAN TRỌNG NGĂN CHẶN “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”
AN NHIÊN
         
Hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc là một trong những âm mưu, phương thức, thủ đoạn của các thế lực thù địch để thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ đối với cách mạng Việt Nam. Âm mưu xuyên suốt của các thế lực thù địch trong việc lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc là lợi dụng các tổ chức tôn giáo, dân tộc, chức sắc cực đoan chống đối trong tôn giáo và các đối tượng có tư tưởng ly khai, tự trị trong các dân tộc thiểu số để tập hợp lực lượng chống phá cách mạng Việt Nam, phá hoại khối đại đoàn kết  toàn dân, chia rẽ đoàn kết giữa đồng bào tôn giáo, dân tộc với Đảng, Nhà nước; khuyến khích, tài trợ cho các tổ chức tôn giáo, dân tộc ly khai tập hợp lực lượng trở thành lực lượng chính trị, xã hội đối trọng với Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Do đó, thực hiện tốt công tác tín ngưỡng, tôn giáo theo quan điểm của Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là việc làm hết sức cần thiết, quan trọng, thường xuyên và liên tục để ngăn chặn “Diễn biến hòa bình”.
Một là, đoàn kết tôn giáo.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Có những tôn giáo được hình thành từ nước ngoài rồi du nhập vào Việt Nam và cũng có những tôn giáo được hình thành ngay ở trong nước. Nhìn chung các tôn giáo ở Việt Nam có truyền thống đoàn kết, hòa đồng, gắn bó với dân tộc, góp phần làm phong phú bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, đại đoàn kết toàn dân, trong đó có đoàn kết dân tộc và đoàn kết tôn giáo là yếu tố cơ bản đưa cách mạng Việt Nam giành thắng lợi trong mọi giai đoạn. Tư tưởng đó nằm trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc được thể hiện rõ qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Hồ Chí Minh luôn nêu cao và giáo dục ý thức trong cộng đồng: “Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. không ai chiến thắng được lực lượng đó”[1]. Để tập hợp và đoàn kết lương- giáo, Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở đồng bào và chiến sĩ cả nước phải quan tâm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần  cho đồng bào các tôn giáo. Năm 1962, khi nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ Mặt trận, Hồ Chí Minh căn dặn: “phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc. Phải chấp hành đúng chính sách tôn trọng tự do, tín ngưỡng đối với tất cả các tôn giáo”[2]. Tôn trọng tự do, tín ngưỡng cần đi đôi với việc phân biệt rõ nhu cầu tín ngưỡng chân chính của quần chúng với âm mưu lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, xâm hại đến độc lập dân tộc. Chia rẽ dân tộc là thủ đoạn xảo quyệt của các thế lực thù địch, Hồ Chí Minh từng nói: “Địch âm mưu chia rẽ thì ta nêu lên khẩu hiệu: đoàn kết toàn dân”[3]. Nhờ nêu cao tinh thần đoàn kết lương- giáo, hòa hợp dân tộc mà Hồ Chí Minh đã tập hợp được nhiều chức sắc, tín đồ các tôn giáo và họ cũng hết lòng phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng. Từ đó, những định kiến, mặc cảm về vấn đề tôn giáo do lịch sử để lại được xóa dần và âm mưu chia rẽ tôn giáo của các thế lực thù địch bị thất bại.
Hai là, tự do tín ngưỡng
Quyền tựu do tín ngưỡng và tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người và quyền đó đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận
Trong bản Tuyên ngôn độc lập được Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”[4]. Chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên sáu vấn đề cấp bách cần làm ngay, trong đó , vấn đề thứ sáu là: “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: TÍN NGƯỠNG TỰ DO và lương giáo đoàn kết”[5]. Ngày 9-11-1946, Quốc Hội khóa I đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó ghi nhận: Nhân dân có quyền tự do tín ngưỡng. Tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng là một trong những quan điểm quan trọng nhất trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo. Tư tưởng đó của Người được thể hiện nhất quán cả trong lý luận và các hoạt động thực tiễn, trong cách mạng dân tộc cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa và đã trở thành nguyên tắc xuyên suốt chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
Ba là, Giải quyết hài hòa vấn đề tôn giáo với lợi ích quốc gia, dân tộc
Hồ Chí Minh coi trọng việc vận động mọi người tôn trọng niềm tin; giáo dục những người theo đạo và không theo đạo đoàn kết để đạt mục đích giải phóng dân tộc và cùng nhau xây dựng cuộc sống hạnh phúc.
Năm 1958, trong buổi tiếp xúc cử tri tại Hà Nội, khi trả lời câu hỏi: “Tiến lên chủ nghĩa xã hội thì tôn giáo có bị hạn chế không?”, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa nhắc lại và khẳng định thái độ của người cộng sản đối với tôn giáo ở Việt Nam: “Không. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, tín ngưỡng hoàn toàn tự do. Ở Việt Nam cuãng vậy”[6]
Hồ Chí Minh khuyên mọi người giữ gìn và phát huy cái tốt, đồng thời hạn chế và loại bỏ cái xấu có trong tôn giáo, Hồ Chí minh nêu ra những giá trị đạo đức và văn hóa vốn có của tôn giáo để những người theo đạo và không theo đạo biết và làm theo. Hồ Chí Minh nói: “Chúa Giê su dạy: đạo đức là bác ái; Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi; Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa”[7]. Hồ Chí Minh coi tôn giáo là di sản văn hóa của nhân loại. Do đó, phải tôn trọng, chấp nhận sự khác nhau về nhận thức; phải biết khai thác sự tương đồng để tìm ra mẫu số chung về mục tiêu để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ cao cả là độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh. Theo Hồ Chí Minh, một người chân chính yêu nước đồng thời cũng là những tín dồ trung thành của Chúa Giêsu. Bởi Chúa Giêsu hy sinh vì mong muốn cho loài người được tự do, hạnh phúc. Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào cả lương lẫn giáo vì tự do, hạnh phúc của toàn dân mà hy sinh, phấn đấu. Hồ Chí Minh nêu lên mối quan hệ chặt chẽ giữa tôn giáo với dân tộc:  Kính chúa gắn liền với yêu nước, nước có vinh thì đạo mới sáng, nước có độc lập thì đạo mới có tự do. Bởi vì, đối với người theo đạo, đức tin tôn giáo và lòng yêu nước không hề mâu thuẫn. Kẻ chống lại Tổ quốc cũng chính là kẻ phản Chúa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, tín ngưỡng là cơ sở lý luận quan trọng và là bài học quý báu cho chúng ta học tập và làm theo; là giải pháp quan trọng để ngăn chặn và làm thất bại âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta.


[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.19.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 13, tr.454
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 13, tr.454
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.1
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.8 
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 11, tr.405
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 7, tr.95


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...