Lý luận và thực tiễn là hai phạm trù có mối
quan hệ hữu cơ với nhau. Trên lĩnh vực cách mạng xã hội, V.I. Lê-nin từng
nói không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng. Lý luận mang
tính tiên phong, định hướng, dẫn tới những thắng lợi của thực tiễn phong trào
cách mạng. Ngược lại, thực tiễn là minh chứng rõ ràng nhất tính đúng đắn, khoa
học của lý luận, bổ sung và phát triển lý luận, cho thấy lý luận đó có phải là
cội nguồn, là cơ sở của những thắng lợi trong thực tiễn hay không.
Trong 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
Đảng đã đạt được những thành tựu về lý luận dẫn tới những thắng lợi vẻ vang
trong thực tiễn phong trào cách mạng. Có thể kể đến một số thành tựu về lý luận
sau đây:
Trước hết, đó là thành tựu về lý luận
cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa và phong kiến. Trong
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, Đảng đã xây dựng được một nền tảng lý
luận vững chắc, đúng đắn, sáng tạo về con đường đấu tranh giải phóng dân tộc.
Lý luận về con đường cách mạng giải phóng do Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ nghĩa
Mác - Lê-nin,vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh một nước thuộc địa và phong kiến
như Việt Nam. Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc bao hàm một số nội dung
chính yếu sau: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt
Nam từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, với câu
nói nổi tiếng, chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Cương lĩnh đầu tiên
của Đảng đã xác định làm tư sản dân quyền cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
Từ đây, cách mạng Việt Nam có đường lối đúng đắn với tư tưởng cốt lõi là độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc gắn với giải
phóng giai cấp và giải phóng con người. Trên cơ sở đó, Đảng đã phát triển lý
luận về xây dựng lực lượng cách mạng và đại đoàn kết toàn dân tộc. Khác với chủ
trương của Quốc tế Cộng sản về lực lượng cách mạng ở một nước thuộc địa và
phong kiến, Đảng đã chủ trương xây dựng lực lượng cách mạng rộng rãi, từ Hội
Phản đế đồng minh tháng 11-1930, qua các hình thức mặt trận dân chủ giai đoạn
cách mạng 1936-1939, đến thành lập mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi là Mặt
trận Việt Minh. Cùng với đoàn kết dân tộc, Đảng đề cao đoàn kết quốc tế, tranh
thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế đối với cách mạng Việt Nam. Trên
cơ sở đường lối cách mạng, Đảng xác định phương pháp cách mạng trong cách mạng
giải phóng dân tộc đó là phươg pháp sử dụng bạo lực quần chúng cách mạng chống
lại bạo lực phản cách mạng, dùng sức mạnh của đông đảo quần chúng đấu tranh
giành chính quyền về tay nhân dân.
Với lý luận đúng đắn về con đường cách mạng
giải phóng dân tộc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam làm nên cuộc Cách mạng
Tháng Tám thành công, sáng lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó chính là
thành tựu thực tiễn minh chứng rõ nét nhất thành công của Đảng về mặt lý luận
khi lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc trong bối cảnh phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế có sự tả khuynh về đường lối cách mạng, trong bối cảnh nhiều
phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân Việt Nam đã không giành được thắng
lợi.
Thứ hai, là lý luận về chiến tranh nhân
dân, chiến tranh giải phóng gắn liền với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Phải đối diện với kẻ thù mạnh hơn rất nhiều,
Đảng đã từng bước xây dựng và phát triển lý luận về cuộc chiến tranh giải
phóng. Trước cuộc xâm lăng của thực dân Pháp lần thứ hai, Đảng đề ra đường lối
kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính. Trong
hoàn cảnh phải lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, chỉ có dựa vào sự đoàn kết
của nhân dân mới có thể chiến thắng kẻ thù hung bạo. Qua hai cuộc kháng chiến,
lý luận về cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam dần được bổ sung và phát triển,
bao gồm một số luận điểm chính như vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân làm nòng cốt, tiến hành đấu tranh toàn diện trên tất cả các mặt
kinh tế, chính trị, quân sự ngoại giao, khoa học kỹ thuật quân sự, giành thắng
lợi từng bước, đánh thắng từng chiến lược chiến tranh của kẻ thù, biết mở đầu
và kết thúc chiến tranh một cách chủ động, sáng tạo; thấu suốt quan điểm bạo
lực cách mạng, coi tư tưởng tiến công là quy luật giành chiến thắng; kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự giúp đỡ và ủng hộ quốc tế.
Với lý luận về chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân, Đảng đã lãnh đạo
thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thực hiện thống
nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, là lý luận về cách mạng xã hội chủ
nghĩa trong quá trình đổi mới đất nước, thể hiện qua các Cương lĩnh
của Đảng năm 1991, năm 2001 và năm 2011. Khi những hạn chế của mô hình chủ
nghĩa xã hội thời chiến đã lộ rõ, trở thành vật cản trên con đường phát triển,
Đảng đã tập trung tìm tòi, nghiên cứu lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Qua các cương lĩnh, lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam ngày càng rõ nét. Đảng đã xác định những vấn đề cốt lõi, đó là mục tiêu, là
động lực, là phương hướng, là giải pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên tất cả
các lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội. Đảng đã xác định rõ từ cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa phải trải qua một
thời kỳ quá độ với những chặng đường, bước đi phù hợp, lâu dài. Từ một nước
nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa, cần bỏ qua điều gì, tiếp thu điều gì. Qua ba cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ đổi mới, lý luận về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam đã từng bước được xây dựng, bổ sung, phát triển. Đến Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và
phát triển năm 2011), Đảng đã chỉ rõ những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
mà Đảng, nhân dân ta xây dựng là dân giàu, nước mạnh dân chủ công bằng văn
minh, do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan
hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”1. Trên cơ sở
những đặc trưng đó, đường lối của Đảng đã xác lập được hệ thống lý luận về con
đường và những giải pháp cơ bản nhằm hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội. Trước hết
là phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng xác định mục
tiêu, nội dung, con đường mô hình, phương thức và nguồn lực của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Tiếp đó là lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Lý luận về xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Lý luận về giải quyết những vấn đề xã hội. Lý luận về chiến tranh nhân
dân, quốc phòng toàn dân trong điều kiện mới. Lý luận về đường lối và chính
sách đối ngoại của Đảng, ngoại của Nhà nước. Lý luận về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, lý luận về phát huy dân chủ, xây dựng hệ thống chính
trị. Lý luận về xây dựng Đảng trong điều kiện mới. Có thể nói, qua ba cương
lĩnh xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới, lý luận
về con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày càng được bổ sung hoàn
thiện sáng tỏ hơn cụ thể hơn, khoa học hơn và như chúng ta đã biết đó là cơ sở
vững chắc để Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đạt được thành tựu thực tiễn trên
tất cả các lĩnh vực đó. Cụ thể là kinh tế phát triển cao và ổn định, quan hệ
đối ngoại được mở rộng, chính sách xã hội được thực hiện tốt, quốc phòng an
ninh được giữ vững… vị thế kinh tế và chính trị của Việt Nam trên trường quốc
tế được xác lập vững chắc, Việt Nam ngày càng hội nhập quốc tế sâu rộng. Thành
tựu kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng, đối ngoại của Việt Nam trong gần 35
năm đổi mới đã chứng tỏ lý luận về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam đã được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng đắn, sáng tạo, là khoa học mặc dù còn
nhiều vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển. Thực tế mô hình
chủ nghĩa xã hội hoặc đã sụp đổ ở Liên Xô, Đông Âu, hoặc đang lạc bước với sự
phát triển chung của thế giới (Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cu Ba,
Venezuela), mới thấy hết sức sáng tạo lớn lao của Đảng về mặt lý luận trong xây
dựng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Như vậy, qua 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, dựa trên nền tảng tư tưởng vững chắc của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã từng bước xây dựng và phát triển lý luận về cách mạng giải
phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đó, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân Việt Nam đạt được những thành tựu vẻ vang trong thực tiễn mà không thế
lực nào có thể phủ nhận. Đó là những thành tựu có ý nghĩa dân tộc và thời đại
của Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ XX và những thập niên đầu thế kỷ XXI, là
hành trang của dân tộc Việt Nam có thể tiếp tục tiến xa hơn, vững chắc hơn trên
con đường đã chọn.
_________________
1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 70.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét