Ngay từ khi mới ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
là mục tiêu chống phá hàng đầu của các thế lực thù địch; chúng dùng nhiều thủ
đoạn tinh vi, thâm độc, tiến hành tác động, phá hoại nội bộ Đảng, làm giảm uy
tín, đi đến xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước
và xã hội. Các thế lực thù địch, phản động sử dụng mọi thủ đoạn để phá hoại nền
tảng tư tưởng của đảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phá
hoại nguyên tắc tập trung dân chủ, kích động chia rẽ nội bộ Đảng, phá hoại mối
liên hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân, v.v. Đó là sự chống phá toàn diện, bài
bản, rất quyết liệt và thâm độc. Tuy nhiên, các thế lực thù địch dù có sử dụng
“trăm phương nghìn kế”, cũng không thể phủ nhận được sự thật hiển nhiên về niềm
tin của toàn dân ta đồng lòng đi theo Đảng trong công cuộc xây dựng đất nước,
với những thành tựu được cộng đồng quốc tế thừa nhận cả trên phương diện lý
luận, thực tiễn và lịch sử.
Về phương diện lý luận, vấn đề Đảng
Cộng sản cầm quyền là một trong những nội dung quan trọng được các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đề cập. Nghiên cứu lịch sử đương đại, C.Mác và
ph.Ăngghen chỉ ra rằng, trong các xã hội có giai cấp và đấu tranh giai, giai
cấp nào giành được quyền lực nhà nước sẽ trở thành giai cấp thống trị và thực
hiện vai trò lãnh đạo đối với xã hội. Kế thừa những di sản tư tưởng, quan điểm
cơ bản đó trong điều kiện mới, V.I.Lê-nin đã phát triển và có những luận điểm
sâu sắc về vấn đề cầm quyền của Đảng Cộng sản. Ngay sau cách mạng Tháng Mười,
V.I.Lê-nin khẳng định, ở nước Nga chỉ có một đảng cầm quyền duy nhất đang lãnh
đạo, đó là Đảng Bôn-sê-vích của giai cấp công nhân Nga: “Về nguyên tắc, Đảng
Cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều không còn phải nghi ngờ gì nữa”1.
Bởi Đảng Cộng sản là đội tiên phong giác ngộ có tổ chức, và là tổ chức chặt chẽ
nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, chỉ có Đảng Cộng sản mới có
đủ phẩm chất chính trị và năng lực, xứng đáng là người lãnh đạo xã hội mới sau
giai đoạn tồn tại của chủ nghĩa tư bản. V.I.Lê-nin cũng chỉ rõ: “Đảng Cộng
sản Nga cầm quyền tức là Đảng không chỉ lãnh đạo Nhà nước mà là lãnh đạo cả xã
hội”2. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công. Buông lỏng hoặc hạ
thấp vai trò lãnh đạo của Đảng là sai lầm từ nguyên tắc, là thủ tiêu sức mạnh
của nhà nước và hệ thống chính trị, để cho chủ nghĩa cơ hội nổi dậy “cướp chính
quyền”.
Về phương diện thực tiễn, trong giai
đoạn Đảng Bôn-sê-vích Nga (tiếp sau đó là Đảng Cộng sản Liên Xô) giữ vai trò
lãnh đạo nhà nước và xã hội, đã có những đóng góp rất to lớn cho sự nghiệp cách
mạng của nhân dân Liên Xô và nhân dân thế giới. Tuy nhiên, vào những năm 80 của
thế kỷ XX, khi Đảng Cộng sản Liên Xô chủ trương tiến hành cải tổ, ban lãnh đạo
của Đảng lại xa rời các nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về xây dựng Đảng,
mơ hồ, mất cảnh giác, mắc phải âm mưu của các thế lực chống chủ nghĩa xã hội.
Với việc xóa bỏ Điều 6 trong Hiến pháp Liên Xô (điều khẳng định sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Liên Xô đối với toàn xã hội), họ từng bước xóa bỏ luôn vai trò
lãnh đạo của Đảng, biến Đảng Cộng sản thành một “câu lạc bộ”. Thực hiện chủ
trương “đa nguyên chính trị”, họ khuyến khích lập các đảng phái, tổ chức chính
trị đối lập với Đảng Cộng sản. Mặt khác, họ thực hiện “phi đảng hóa”, “phi
chính trị hóa” Quân đội, Công an, thực chất là vô hiệu hóa luôn sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản đối với các công cụ trọng yếu này. Và hậu quả tất yếu là chế độ
xã hội chủ nghĩa và Liên bang Xô-viết bị tan rã sau hơn 70 năm cầm quyền.
Trong bối cảnh ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam với truyền thống đoàn
kết, thống nhất, được tổ chức và hoạt động chặt chẽ theo tư tưởng, nguyên tắc
của chủ nghĩa Mác-Lê-nin đã lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, giải
quyết thành công cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, đưa đất nước vững bước trên
con đường đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng. Uy tín quốc tế của Việt Nam không
ngừng được củng cố, tăng cường dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi
ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn “là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động và của dân tộc”3. Ngoài lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc, Đảng ta không còn lợi ích nào khác.
Mục tiêu, lý tưởng, lợi ích của Đảng luôn thống nhất với mục tiêu, lý tưởng,
lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc và toàn thể nhân dân Việt Nam. Đó
cũng chính là “sứ mệnh” của Đảng trước lịch sử và dân tộc - lãnh đạo nhân dân
ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, tiến tới chủ nghĩa cộng sản “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Chính vì vậy, Đảng luôn gắn bó mật
thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đảng được
nhân dân tin yêu, giúp đỡ, thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình, là
Đảng của chính mình.
Về phương diện lịch sử, kể từ khi
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, ở Việt Nam cũng có thời kỳ tồn tại đa đảng. Tuy
nhiên, có những đảng dựa vào thế lực bên ngoài, họ muốn chiếm đoạt vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng cuối cùng cũng chạy theo các thế lực
ngoại quốc, để lại những hậu quả xấu về chính trị, kinh tế, xã hội. Cũng có
những đảng, sau một thời kỳ tồn tại (và đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam), đã tuyên bố tự giải tán do hết vai trò lịch sử và không còn
cơ sở xã hội. Vai trò duy nhất lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một sản
phẩm của sự lựa chọn tự nhiên mang tính khách quan của lịch sử của dân tộc Việt
Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định: “Đảng ta là đảng cầm
quyền”. Điều đó không phải tự nhiên mà có; đây là thành quả của bao năm đấu
tranh cách mạng của toàn Đảng, toàn dân Việt Nam. Được thành lập năm 1930, phải
15 năm sau, trải qua biết bao hy sinh, thử thách, hàng loạt cán bộ, đảng viên,
nhân dân, trong đó có những nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng đã hy sinh, Đảng
Cộng sản Việt Nam mới giành được chính quyền. Rồi tiếp sau đó, ròng rã suốt 30
năm kháng chiến gian khổ và anh dũng, Việt Nam mới giải phóng được toàn bộ đất
nước và Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền trong cả nước thống
nhất, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Những thành quả vĩ đại mà nhân dân
ta đạt được, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chứng tỏ ở Việt Nam chỉ có Đảng Cộng
sản Việt Nam mới có khả năng lãnh đạo nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc. Ngày nay, với tư cách là Đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận
rõ trách nhiệm của mình trước đất nước và dân tộc để lãnh đạo xây dựng, phát
triển đất nước.
Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy, trong quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng cũng gặp không ít khó khăn, trở ngại, có lúc do nóng vội, giáo điều,
chủ quan, cũng có những lúc Đảng phạm sai lầm, khuyết điểm. Điều quan trọng là
ở chỗ, mỗi khi phạm phải sai lầm, khuyết điểm, Đảng không bảo thủ, bàng quan,
trái lại đều kiên quyết sửa chữa, thể hiện tinh thần cầu thị, trách nhiệm chính
trị trước nhân dân, dân tộc. Nhưng, một số kẻ thù địch, cơ hội chính trị lại
không thấy hoặc cố tình lờ đi điều ấy, hơn thế họ còn thổi phồng những khuyết
điểm, sai lầm đó và quy kết Đảng ta không đủ năng lực lãnh đạo cách mạng, lãnh
đạo Nhà nước và xã hội trong điều kiện mới của đất nước.
Đảng ta không né tránh và phủ nhận là hiện nay vẫn còn “tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên”, “tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm
trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”; “mâu
thuẫn, mất đoàn kết nội bộ”… và cả “những biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ”, làm ảnh hưởng đến uy
tín, niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về
“Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,“tự chuyển
hóa” trong nội bộ” đã thẳng thắn chỉ ra tình trạng trên và đề ra hệ thống
các giải pháp cấp bách để tiếp tục đổi mới, xây dựng Đảng về “chính trị, tư
tưởng, tổ chức và đạo đức”. Việc kiên quyết và nghiêm khắc trong chỉ đạo xử lý
những sai phạm; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ cũng như việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình trong Đảng đã tạo sự
chuyển biến bước đầu, có tác dụng cảnh báo, răn đe, phòng ngừa những hành vi
tham nhũng, tiêu cực, góp phần ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, củng cố lòng tin của nhân dân
đối với Đảng. Vì vậy, không thể vin vào những khuyết điểm, hạn chế, yếu kém như
trên để phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng; cũng không thể đồng nhất toàn bộ
Đảng Cộng sản với một số cán bộ, đảng viên tham nhũng, thoái hóa, biến chất,
quy chụp mọi khuyết điểm, sai lầm, tiêu cực trong xã hội về cho Đảng. Phủ nhận
vai trò lãnh đạo của Đảng là phủ nhận lịch sử, phủ nhận lòng tin của nhân dân,
đi ngược lại quyền lợi của dân tộc; là sự xúc phạm đến tình cảm và điều thiêng
liêng nhất của người dân Việt Nam.
Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới, một lần nữa bác bỏ những luận điệu
vu cáo, xuyên tạc cùng những âm mưu đen tối của các thế lực thù địch phủ nhận
hoặc hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong quá trình tiến
hành công cuộc đổi mới, phải luôn kiên định vai trò lãnh đạo của Đảng; đồng
thời, làm tốt công tác xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn Đảng; đây
là vấn đề có tính quy luật, tính nguyên tắc, là nhân tố bảo đảm cho công cuộc
đổi mới thành công, đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Càng đổi mới, đi vào kinh tế thị trường, mở cửa, càng phải giữ vững, tăng cường
và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng. Tuyệt đối không được mơ hồ, dao động về vấn đề
này.
Vấn đề cơ bản, quan trọng giai đoạn hiện nay là phải không ngừng
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, không ngừng đổi mới, chỉnh đốn Đảng,
để Đảng có luôn luôn có đủ uy tín chính trị và khả năng hoàn thành nhiệm vụ do
lịch sử giao phó. Do đó, để bảo vệ Đảng, bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng trong
bối cảnh hiện nay cần đặc biệt chú ý làm tốt một số nội dung cơ bản sau:
Một là, không ngừng
nâng cao uy tín chính trị của Đảng. Nâng cao uy tín chính trị của Đảng
là yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng nhất nhằm đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng. Uy
tín chính trị của Đảng được hình thành, củng cố, được khẳng định trước hết qua
năng lực lãnh đạo chính trị của Đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên. Năng lực
lãnh đạo chính trị thể hiện trước hết Đảng có khả năng vạch ra Cương lĩnh,
đường lối chính trị đúng đắn để lãnh đạo đất nước, dẫn dắt cả dân tộc đi lên,
tránh được nguy cơ sai lầm về đường lối. Mặt khác, Đảng phải làm tốt công tác
tư tưởng, chính trị, tạo sự nhất trí cao và sự vững vàng về tư tưởng, chính trị
trong Đảng và sự đồng thuận trong nhân dân. Tổ chức thực hiện tốt các nghị
quyết của Đảng, nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn, bao gồm cả việc cụ thể
hoá, thể chế hoá đường lối, chính sách, nghị quyết, công tác cán bộ, công tác
quản lý, kiểm tra, giám sát, v.v.
Đi đôi với việc nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ,
năng lực lãnh đạo, Đảng ta cần đặc biệt coi trọng việc rèn luyện đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, chống sự suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức,
lối sống trong cán bộ, đảng viên; xây dựng, củng cố Đảng về tổ chức, bảo đảm có
sức chiến đấu cao. Trong đó đặc biệt chú ý thực hiện đúng nguyên tắc tập trung
dân chủ và củng cố hệ thống tổ chức của Đảng vững mạnh từ Trung ương đến cơ sở;
thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình; chăm lo củng cố đoàn kết
thống nhất trong Đảng, trên cơ sở đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức và
tình thương yêu đồng chí.
Hai là, kiên quyết
đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Trong
điều kiện Đảng cầm quyền, dưới tác động mặt trái của cơ chế thị trường, mở cửa,
hội nhập quốc tế, nhiều cán bộ, đảng viên có chức, có quyền, hằng ngày, hằng
giờ tiếp xúc với biết bao sự cám dỗ về danh và lợi. Nếu không chăm lo giáo dục,
rèn luyện, giữ vững và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản chất cách mạng của
Đảng thì rất dễ bị biến chất. Dó đó, nhiệm vụ trọng tâm trong công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng giai đoạn hiện nay là cần kiên quyết đấu tranh ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái trong nội bộ, kiên quyết tấn công mạnh mẽ vào tệ nạn tham
nhũng, quan liêu, đảm bảo sự trong sạch, vững mạnh của nội bộ. Một mặt, cần làm
tốt việc giáo dục chính trị tư tưởng, mặt khác phải hoàn thiện cơ chế, chính
sách quản lý hoạt động của các tổ chức, cán bộ, đảng viên, loại trừ những sơ hở
thiếu sót trong quá trình này. Đặc biệt coi trọng việc xóa bỏ nguyên nhân, môi
trường làm phát sinh, phát triển sự suy thoái, tệ quan liêu, tham nhũng; phát
huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong cuộc đấu tranh phòng, chống suy
thoái, nhất là phát huy sự tham gia của nhân dân, các đoàn thể, tổ chức xã hội,
các phương tiện thông tin đại chúng; kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi
trường hợp vi phạm.
Ba là, trong công tác xây
dựng Đảng phải chú trọng tăng cường liên hệ chặt chẽ với nhân dân, phát huy vai
trò của nhân dân trong công tác xây dựng và bảo vệ Đảng. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân là một trong những nhân tố quyết
định tạo ra sức mạnh của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Đảng phải
không ngừng tăng cường mối quan hệ máu thịt với nhân dân”4. Nhân
dân tin Đảng, ủng hộ Đảng, theo Đảng làm cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa. Đảng làm hết sức mình để phục vụ nhân dân, phát huy vai trò
và sức mạnh to lớn của nhân dân. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, vấn đề này lại
càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi vì như V.I.Lê-nin chỉ rõ, một trong
những nguy cơ lớn nhất và đáng sợ nhất đối với một đảng cầm quyền là Đảng tự
cắt đứt mối liên hệ với quần chúng nhân dân.
Để không ngừng mở rộng và tăng cường mối liên hệ với nhân dân,
Đảng cần chú ý ngăn ngừa, khắc phục những khuyết điểm chủ quan, như: tình trạng
quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền; những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, những hiện
tượng tham nhũng, sách nhiễu dân, trù dập, ức hiếp quần chúng, v.v. Uy tín của
Đảng được khẳng định, niềm tin của nhân dân được nâng cao là cơ sở quan trọng
vững chắc bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng.
Để phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong công tác xây
dựng và bảo vệ Đảng, cần xây dựng cơ chế, các quy định cụ thể, tạo điều kiện
thuận lợi để nhân dân và các đoàn thể nhân dân thường xuyên tham gia các công
việc của Đảng, đóng góp ý kiến xây dựng các chủ trương, chính sách của Đảng,
qua đó, góp phần bảo vệ Đảng, là một yêu cầu đặc biệt quan trọng trong xây dựng
Đảng. Nhân dân tham gia giám sát các hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước là
một nhu cầu bức thiết của quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội, vừa nâng cao vai
trò và vị thế làm chủ của nhân dân, vừa củng cố mối liên hệ giữa Đảng với nhân
dân. Đặc biệt, yêu cầu này càng trở nên bức thiết trong điều kiện hiện nay, khi
một bộ phận không nhỏ đảng viên thiếu tu dưỡng và rèn luyện, giảm sút ý chí
chiến đấu, thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống, làm giảm lòng tin của
nhân dân, gây bất bình trong dư luận xã hội.
Bốn là, đấu tranh có
hiệu quả với các luận điệu, với âm mưu và hoạt động của các thế lực thù địch,
cơ hội chống phá Đảng. Đấu tranh với các hoạt động của các thế lực thù
địch chống phá Đảng trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị là nhiệm vụ to lớn, phức
tạp và khó khăn; quan hệ đến sinh mệnh chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Từ nhiều năm qua, các thế lực thù địch, cơ hội ráo riết thực hiện chiến lược “diễn
biến hòa bình” nhằm chống phá Đảng ta, trong đó, có hoạt động tác động thúc đẩy
“tự diễn biến” trong nội bộ ta dưới nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi, thâm
độc.
Nhiệm vụ chủ yếu của cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng,
chính trị là tăng cường giáo dục một cách sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước cho
toàn Đảng và trong toàn xã hội; trang bị cho cán bộ, đảng viên thế giới quan
khoa học, có nhận thức chính trị nhạy bén, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
kiên định. Giáo dục lòng yêu nước, tinh thần cảnh giác cách mạng, tạo sức đề
kháng cao trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, chủ động đối phó với âm mưu, thủ
đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu
lý luận để tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhằm cung cấp vũ khí lý luận sắc bén, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền,
giáo dục tư tưởng, chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, đồng thời, phản
bác có hiệu quả các các luận điệu sai trái, thù địch.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã vượt qua những thử thách của lịch sử,
gắn bó máu thịt với nhân dân, luôn biết tự đổi mới; Đảng chứ không phải một lực
lượng nào khác có thể đề ra đường lối đáp ứng yêu cầu lịch sử, nguyện vọng và
lợi ích của nhân dân, phù hợp với quy luật khách quan của sự phát triển trong
xã hội ngày nay. Một đảng như thế có đủ uy tín chính trị đảm đương vai trò là
lãnh đạo chính trị của đất nước, mà không cần có một lực lượng chính trị nào
khác. Những thế lực, những ai nói ngược lại với điều đó là luận điệu sai trái,
thù địch, là xúc phạm đối với lịch sử và những điều thiêng liêng nhất của dân
tộc Việt Nam.
______________
1 - V.I.Lê-nin - Toàn tập, Tập 31, Nxb Tiến bộ, M.
1974, tr.53.
2 - Sđd, Tập 43, tr. 17.
3 - ĐCSVN - Điều lệ Đảng, Nxb CTQG, H. 2011.
4 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, H.
2001, tr.14.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét