Tư
tưởng, đạo đức, phong cách và sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài
sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của dân tộc ta, đã, đang và sẽ mãi là
ngọn cờ soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, trực tiếp hiện nay là sự nghiệp
đổi mới và công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Là
sản phẩm của sự kết hợp khoa học, nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính,
truyền thống lịch sử, tinh hoa văn hóa của dân tộc, thực tiễn sinh động của
cách mạng Việt Nam với tinh hoa văn hóa nhân loại, trí tuệ của thời đại, đặc
biệt là chủ nghĩa Mác - Lênin, “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam… ”(1).
ĐỔI
MỚI, KHÔNG NGỪNG ĐỔI MỚI VÌ LỢI ÍCH CỦA ĐẤT NƯỚC, DÂN TỘC
Tinh thần ấy là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt cuộc đời hy sinh, phấn đấu vô cùng cao đẹp và sự nghiệp vĩ đại của
Hồ Chí Minh. Cuộc đời của Hồ Chí Minh là cuộc đời một con người trọn đời vì
dân, vì nước. Người chỉ có một ham muốn tột bậc “là làm sao cho nước ta hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc,
ai cũng được học hành”(2).
Chính lòng yêu nước nồng nàn, ý
thức trách nhiệm trước vận mệnh đất nước, dân tộc là động lực thôi thúc Người
nung nấu tinh thần đổi mới từ rất sớm, đổi mới không ngừng.
Quyết
định đi tìm chân lý cứu nước với một hướng đi mới, một phương pháp tiếp cận
mới, phương thức hành động mới: đi về phương Tây, tiếp thu những trào lưu tư
tưởng mới, khảo nghiệm những cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, tắm mình
trong phong trào cách mạng của giai cấp vô sản và cuộc đấu tranh của các dân
tộc bị áp bức, bóc lột để tìm kiếm con đường giải phóng cho dân tộc - đó là
cuộc đổi mới vĩ đại đầu tiên của Hồ Chí Minh, cuộc đổi mới mang ý nghĩa quyết
định vận mệnh của đất nước, dân tộc.
Trở về nước, Hồ Chí Minh vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế
giới, đặc biệt là Cách mạng tháng Mười Nga; đổi mới tư duy trong xây dựng,
không ngừng hoàn thiện đường lối chiến lược, sách lược cách mạng; đổi mới phương
thức lãnh đạo, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, dẫn dắt toàn
Đảng, toàn dân giành độc lập tự do, xây dựng Nhà nước cách mạng, tiến hành sự
nghiệp kháng chiến, kiến quốc, đánh bại các cuộc chiến tranh xâm lược, giữ vững
độc lập, chủ quyền, thống nhất đất nước, từng bước đưa miền Bắc đi lên chủ
nghĩa xã hội, khắc phục đói nghèo, lạc hậu... Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ
1941 khi Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng đến 1969 khi Người từ
trần là một công cuộc đổi mới liên tục của Đảng, của nhân dân ta theo ngọn cờ
và sự dẫn dắt của “Tổng công trình sư đổi mới” - Hồ Chí Minh.
Trước khi về với thế giới người
hiền, Hồ Chí Minh dự báo, tiên liệu bối cảnh thế giới, tình hình đất nước, phác
thảo những đường nét cơ bản của công cuộc kiến thiết toàn diện đất nước sau
chiến tranh theo tinh thần đổi mới thể hiện trong bản Di chúc bất
hủ. Đó là sự đúc kết kinh nghiệm, bài học lịch sử và định hướng tiếp tục đổi
mới, tạo nền tảng trực tiếp của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh
đạo từ Đại hội lần thứ VI của Đảng đến nay.
TƯ
TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH ĐỔI MỚI HỒ CHÍ MINH
Thuật ngữ và tư tưởng “đổi mới”
được Hồ Chí Minh đề cập từ sớm trong tác phẩm “Đường kách mệnh” (1927),
sau đó được Người nhắc lại, làm rõ thêm trong nhiều bài viết, bài nói, nổi bật
là: “Sửa đổi lối làm việc” (1947), “Đời sống mới” (1947), “Dân
vận” (1949), đặc biệt trong bản “Di chúc” thiêng liêng
(1965 - 1969) để lại cho toàn Đảng, toàn dân trước lúc Người đi xa. Từ các các
bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh toát lên một hệ thống luận điểm có giá trị
nền tảng và định hướng về đổi mới.
Trước
hết, theo Hồ Chí Minh, đổi mới là bản chất của cách mạng, của phát
triển. Trong “Đường kách mệnh”, Người chỉ rõ: “Cách mệnh là
phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”(3).
Nói về công cuộc kiến thiết đất nước sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
thắng lợi, Người nhấn mạnh đó “là cuộc chiến đấu chống lại những cái gì đã cũ
kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”(4).
Thứ
hai, triết lý đổi mới, chân lý đổi mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh là
ích nước, lợi dân. “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì
trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý(5);
“Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức
tránh”(6).
Thứ ba, đổi mới là sự nghiệp lâu
dài, phức tạp, gian khổ, phải kiên định, kiên quyết, kiên trì, lựa chọn những
bước đi thích hợp. Hồ Chí Minh luôn căn dặn: thắng đế quốc, phong kiến là tương
đối dễ, thắng bần cùng, lạc hậu còn khó hơn nhiều; đấu tranh xóa bỏ cái cũ, xây
dựng cái mới là công việc cực kỳ to lớn, nặng nề, phức tạp và khó khăn, do vậy
phải có kế hoạch tỉ mỉ, chuẩn bị chu đáo, thực hiện chắc chắn.
Thứ tư, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đổi
mới không phải là phủ định sạch trơn, mà là sự kế thừa và phát triển; cái gì cũ
mà xấu thì phải bỏ, cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi
cho hợp lý, cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm, cái gì mới mà hay thì phải
làm.
Thứ năm, sức mạnh của đổi mới là nhân
dân. Hồ Chí Minh luôn căn dặn: “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của
dân”(7); để giành thắng lợi “cần phải động viên toàn dân,
tổ chức và giáo dục nhân dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của nhân dân(8);
phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo tinh thần: cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, Việt Nam sẵn sàng là bạn của
các nước dân chủ.
Thứ sáu, Đảng là linh hồn của đổi mới.
Đảng phải vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, căn cứ vào thực tiễn của
Việt Nam và thế giới, bổ sung những tư liệu, vấn đề mà các nhà kinh điển “ở
thời mình không thể có được”(9) để đề ra và thực
hiện đường lối, chủ trương đúng đắn. Hồ Chí Minh chỉ dạy: Thế giới ngày ngày
đổi mới, xã hội ngày một phát triển, nhân dân ngày càng tiến bộ, do vậy, cán
bộ, đảng viên không thể “giữ cái kẹp giấy cũ không thay đổi”, “tư tưởng, hành
động cũng phải phát triển”, “phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”(10).
Hệ thống luận điểm về đổi mới
của Hồ Chí Minh được diễn đạt giản dị, dễ hiểu nhưng hàm chứa chiều sâu, tầm
cao về tư tưởng và đúc kết tinh túy đạo đức đổi mới, phong cách đổi mới của
Người.
TƯ
TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH SOI SÁNG CON ĐƯỜNG ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG, CỦA
NHÂN DÂN TA
Vào
giữa thập niên 80 của thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân khách
quan, chủ quan, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội sâu sắc, đời sống
nhân dân vô cùng khó khăn. Đảng quyết tâm phát động, lãnh đạo công cuộc đổi
mới. Trong quá trình trăn trở, tìm tòi con đường đổi mới, trước hết là đổi mới
tư duy phát triển đất nước, Đảng ta nhận thức sâu sắc: Muốn đổi mới tư duy,
Đảng phải nắm vững bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, kế thừa di sản quí báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Đúc kết những bài học từ thực tiễn cách mạng nước
ta, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, năm 1986 - Đại hội khai
phóng con đường đổi mới, trên cơ sở quán triệt những luận điểm cốt lõi của Hồ
Chí Minh, đã nhấn mạnh các bài học: “lấy dân làm gốc”; xuất phát từ thực tiễn,
tôn trọng quy luật khách quan; kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại; xây dựng
Đảng ngang tầm nhiệm vụ(11).
Trải qua hơn 30 năm tiến hành
sự nghiệp đổi mới, đồng thời với việc kiên định, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, Đảng ta đặc biệt chú trọng kế thừa, cụ thể hóa tư tưởng, đạo đức,
phong cách đổi mới Hồ Chí Minh, đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, năm 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và
văn kiện các đại hội Đảng, các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương các nhiệm kỳ
từ năm 1986 đến nay. Đường lối đổi mới của Đảng thấm nhuần sâu sắc tư tưởng,
đạo đức, phong cách đổi mới Hồ Chí Minh đã làm sáng tỏ những nhận thức cơ bản
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trở thành
ngọn cờ dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách,
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, mở rộng
hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, tạo
nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới đã
minh chứng hùng hồn, nếu muốn thích ứng và đối phó mạnh mẽ với những vấn đề mà
chủ nghĩa xã hội đang gặp phải, chúng ta phải học ở Hồ Chí Minh bằng cách phát
triển những phẩm chất đã thể hiện trong suốt cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài
của Người(12).
VẬN
DỤNG SÁNG TẠO, PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ TO LỚN TRONG TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG
CÁCH ĐỔI MỚI CỦA NGƯỜI
Hiện nay đất nước ta chuẩn bị
bước vào thập niên thứ ba của thế kỷ XXI với thời cơ, vận hội lớn đan xen với
không ít khó khăn, thách thức. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển đất nước nhanh, bền
vững, giữ vững hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, toàn Đảng, toàn dân ta phải tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới. Với giá trị bền vững và sức sống mãnh liệt, tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh tiếp tục soi đường, chỉ lối cho Đảng và dân tộc ta trên
con đường đổi mới. Chúng ta cần quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo và phát
huy những giá trị to lớn trong tư tưởng, đạo đức, phong cách đổi mới của Người.
Thứ
nhất, kiên định, vững vàng và không ngừng sáng tạo xây dựng đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa với mục tiêu đân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Muốn đổi mới thắng lợi, phải kiên định lý tưởng độc lập
dân tộc, chủ nghĩa xã hội; kiên định nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng; kiên định đường lối đổi mới.
Kiên định, vững vàng, không dao động, đổi mới không đổi mầu, nhưng không giáo
điều, bảo thủ mà phải không ngừng sáng tạo. Kết hợp tổng kết sâu sắc, toàn diện
thực tiễn đổi mới của đất nước với nắm bắt, dự báo chính xác những chuyển biến
mau lẹ của thời cuộc, những xu hướng phát triển mới của thế giới, cập nhật
những tri thức mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, nhất là những bài học
thành công của các nước phù hợp với điều kiện nước ta, không ngừng hoàn thiện
đường lối đổi mới, làm cho đường lối đổi mới phản ánh, giải quyết đúng những
đòi hỏi khách quan của thực tiễn đất nước, đồng thời phù hợp với xu thế thời
đại. Đổi mới không ngừng, đổi mới sáng tạo, đổi mới vững chắc - đó chính là kế
thừa, phát triển tư tưởng đổi mới, biện chứng đổi mới Hồ Chí Minh trong bối
cảnh lịch sử mới.
Thứ hai, nền tảng đạo đức của đổi mới là
lợi ích tối cao của dân tộc, của nhân dân, hạnh phúc của con người. Lấy độc lập
dân tộc, chủ quyền, thống nhất và sự giàu mạnh của quốc gia làm mục đích trên
hết, trước hết; lấy quyền làm chủ và lợi ích của nhân dân, sự phát triển toàn
diện và hạnh phúc của con người Việt Nam làm đạo lý đổi mới. Nhân dân là chủ
thể của đổi mới và là người thụ hưởng thành quả của đổi mới; con người là mục
tiêu và động lực của đổi mới. Đó chính là bản chất nhân đạo, nhân văn của đổi
mới theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đó cũng là giá trị bền vững
và sức sống mãnh liệt của đổi mới. Thoát ly nền tảng đạo đức thì đổi mới không
còn ý nghĩa gì.
Thứ
ba, đổi mới, phát triển là một quy luật vận động khách quan của lịch
sử, là nhu cầu, khát vọng của nhân loại. Toàn cầu hóa và sự phát
triển bùng nổ công nghệ thông tin cùng hệ thống kết cấu hạ tầng toàn cầu làm
cho các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau, tùy thuộc lẫn nhau; hợp tác và
hội nhập quốc tế trở thành một xu thế lớn không thể đảo ngược. Tư tưởng và sự
chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về sự gắn bó chặt chẽ cách mạng Việt Nam với cách mạng
thế giới, về việc tăng cường hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trên cơ sở hòa bình, hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, cùng
có lợi… còn nguyên vẹn giá trị định hướng con đường đổi mới.
Tranh
thủ nguồn lực bên ngoài là rất quan trọng, song Hồ Chí Minh luôn căn dặn, nguồn
lực nội sinh là quyết định, ngoại lực phải kết hợp với nội lực để nhân lên sức
mạnh tổng hợp quốc gia; hợp tác, hội nhập nhưng phải giữ vững độc lập, tự chủ,
phát huy tinh thần tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính.
Thứ
tư, đổi mới là một quá trình cách mạng lâu dài, gian khổ, muốn giành
thắng lợi, Đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng với tư cách là lực lượng
lãnh đạo phải tự đổi mới, nêu gương đổi mới, trước hết là đổi mới phong cách tư
duy, phong cách lãnh đạo để phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của toàn Đảng,
toàn dân. Hồ Chí Minh là tấm gương lớn, truyền lại bài học lớn về phong cách
đổi mới: nhạy bén nắm bắt diễn biến lịch sử, chủ động tranh thủ thời cơ, giữ
vững nguyên tắc và mạnh dạn sáng tạo, kịp thời đổi mới, gắn liền lý luận với
thực tiễn(13).
Tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh thống nhất với nhau, kết tinh thành lý luận - thực hành đổi mới.
“Cống hiến lý luận của Hồ Chí Minh vừa có tính thời sự thiết thực, đáp ứng nhu
cầu đương thời của cách mạng, vừa có giá trị lâu dài, là những gợi ý quan trọng
và nguồn cảm hứng cho các thế hệ cách mạng về sau. Được hiểu và vận dụng một
cách sáng tạo hệ thống luận điểm lý luận của Hồ Chí Minh có khả năng thích hợp
với những diễn biến mới hiện nay của lịch sử, sống và phát huy tác dụng lâu dài
trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới”(14)./.
__________________________
(1) Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.
Chính trị quốc gia, H, 2001, tr. 84.
(2) (8) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.15, tr.627, 617.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Sđd, t.2, tr.284.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Sđd, t.12, tr.505.
(5) (10) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Sđd, t.10, tr.378, 337.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Sđd, t.4, tr. 65.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Sđd, t.6, tr.232.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Sđd, t.1, tr.509.
(11) Đảng Cộng sản Việt
Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự
thật, H, 1987.
(12)
Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia - Uỷ ban quốc gia UNESCO của
Việt Nam, Hội thảo quốc tế: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng
dân tộc, nhà văn hóa lớn, Nxb. Khoa học Xã hội, H, 1991, tr. 183.
(13) (14) Phạm Văn Đồng: Hồ
Chí Minh - tinh hoa và khí phách của dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia, H,
2009, tr. 219; 180-181.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét