Chủ Nhật, 13 tháng 5, 2018

CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM PHẢI CHĂNG LÀ ẢO TƯỞNG?

Khánh Anh
Hiện nay, có một số người phủ định con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, họ cho rằng CNXH chỉ là "bóng ma", đi theo con đường CNXH là "mơ hồ", "ảo tưởng" về một chế độ xã hội. Có thể khẳng định, đó chỉ là luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam.
Tổng kết 30 năm đổi mới, Đại hội XII của Đảng khẳng định: "đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử"[1].
Con đường đi lên CNXH chính thức đã được Đảng Cộng sản Việt
Nam – người lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam nhất quán và xác định ngay từ khi ra đời (1930) và kiên định thực hiện bằng cả trí tuệ và tình cảm, cùng với sự đồng thuận của cả dân tộc trong suốt tiến trình cách mạng. Đó hoàn toàn không phải là sự lựa chọn ngẫu hứng của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, của Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng tuyệt nhiên không là ảo tưởng, mà là hiện thực của con đường cách mạng Việt Nam.
Lịch sử Việt Nam chứng minh, toàn dân tộc đã vùng lên chống thực dân Pháp xâm lược ngay từ năm 1858, với khát vọng độc lập dân tộc. Tuy nhiên các cuộc đấu tranh đều thất bại do chưa có đường lối cách mạng đúng đắn. Có thể thấy rất rõ, toàn bộ trí lực, tình cảm của dân tộc hướng vào tìm kiếm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc lúc này. Và Nguyễn Ái Quốc đã xác định được con đường cách mạng giải phóng dân tộc trên cơ sở lý luận của học thuyết Mác – Lênin để vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Lựa chọn con đường cách mạng vô sản, đi lên CNXH của cách mạng Việt Nam hoàn toàn không là ảo tưởng hay cảm tính mà là kết quả của nhiều năm Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu thực tiễn cách mạng thế giới, các học thuyết từ cổ chí kim bằng cả tình cảm và lí trí. Người đã hiểu rõ và nhận thức đúng đắn từ khát vọng của dân tộc Việt Nam, từ quy luật vận động của sự thay đổi, phát triển của các chế độ xã hội lịch sử nhân loại và tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu để nhận thức ngày càng sâu sắc hơn và vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, đó là: tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, gắn phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trong nước với phong trào cách mạng thế giới. Người khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"[2]. Khi thành lập, Chánh cương vắn tắt của Đảng đã xác định: "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"[3]. Và, thành lập chính đảng là điều trước hết, nhân tố hàng đầu để sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người đi đến thành công. "Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản"[4].
Tại Đại hội  II (tháng 2- 1951) tiếp tục cụ thể hóa Chánh cương vắn tắt của Đảng, nêu rõ: "Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội"[5].
Đến Đại hội III (tháng 9-1960), đường lối chung của miền Bắc bước vào thời kì quá độ được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định là "đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội"[6], là hậu phương vững mạnh cho công cuộc đấu tranh giải phóng miền nam, thống nhất nước nhà.
Sau Đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất, mặc dù hai miền Nam, Bắc còn có những nhiệm vụ cụ thể riêng, khác nhau, song trên cơ sở nhận định về nội dung cơ bản của thời đại, Đại hội IV của Đảng (1976) xác định: "trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và CNXH không thể tách rời nhau, và ở nước ta, khi giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội"[7]. Với nhận thức sâu sắc này, Đảng đã quyết định con đường lựa chọn cả nước cùng đi lên CNXH với phương thức "bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội"[8]. Lựa chọn này vừa mang tính khoa học sâu sắc, vừa phù hợp với thực tiễn phát triển của cách mạng Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại. Tuy nhiên, Đảng ta cũng nhận thức rất rõ hoàn cảnh điều kiện thực tại của nước mình "vẫn đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ"[9] rất lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, trình độ lao động vẫn thủ công là chính…
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện con đường đó, chúng ta lại mắc không ít sai lầm, khuyết điểm như "chủ quan, nóng vội, bảo thủ, trì trệ", chưa nắm vững những quy luật của quá trình phát triển từ sản xuất nhỏ lên đến sản xuất lớn, còn thiếu kiến thức về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội… đã để đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội... Tình hình đó làm cho niềm tin vào con đường đi lên CNXH ở không ít người giảm sút, thậm chí có ý kiến cho rằng, việc lựa chọn con đường đó là sai lầm, ảo tưởng! Với nhận thức khách quan, khoa học, Đảng ta tiếp tục khẳng định: Không phải sai lầm dẫn tới khủng hoảng kinh tế - xã hội là do lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, mà là ở việc chúng ta đã thiết kế mô hình phát triển kinh tế không phù hợp với thực tiễn đất nước và cách thức tiến hành không thích hợp, đòi hỏi chúng ta phải thiết kế lại, đổi mới nhận thức và triển khai các bước đi lên CNXH cho phù hợp.
Đại hội VI (1986) mở đầu cho công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta khẳng định: "do tiến thẳng lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng… Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa"[10]. Phương thức phát triển kinh tế nhiều thành phần để huy động sức mạnh của toàn xã hội, trong và ngoài nước được triển khai để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối đó được cụ thể hóa hơn tại Đại hội VII (1991). Giữa lúc tình hình thế giới biến đổi sâu sắc, đặc biệt là hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã, tại Hội nghị giữa nhiệm kì, Đảng ta vẫn nhất quán xác định: "CNXH biện chứng đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử"[11]. Đảng tiếp tục khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là quá độ lên chủ nghĩa xã hội; "nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội" là bài học xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Quá độ lên CNXH là "quá trình lâu dài; trải qua nhiều chặng đường: Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau"[12].
Đổi mới nhưng không xa rời mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được Đại hội VIII, IX, X, XI chứng minh tính đúng đắn trong thực tiễn của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng tiếp tục khẳng định sự nhận thức ngày càng rõ hơn về các bước quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Đại hội XI (2011) đã khẳng định: "Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, tăng cường. Độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường xã hội chủ nghĩa"[13]. "Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử"[14].
Đại hội XII (2016) đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI (2011-2015) và tổng kết chặng đường 30 năm đổi mới, Đảng ta đã khẳng định: "Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa"[15]. Đồng thời, Đại hội cũng khẳng định "…con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với … xu thế phát triển của lịch sử".
Nhìn lại một cách xuyên suốt, từ khi Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tìm thấy con đường cách mạng vô sản (7- 1920) trong sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin đến Chánh cương vắn tắt ở Hội nghị thành lập Đảng, với 88 năm lãnh đạo, qua 12 lỳ đại hội, con đường đi lên CNXH luôn được Đảng xác định là sợi chỉ đỏ dẫn dắt cách mạng Việt Nam. Đó là sự trung thành, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng xã hội chủ nghĩa vào hoàn cảnh, điều kiện Việt Nam.
Sự lựa chọn, kiên định và luôn luôn bổ sung, phát triển một cách sáng tạo làm cho con đường đi lên CNXH của Việt Nam ngày càng sáng tỏ, cụ thể hơn, với những phương cách phù hợp, hiệu quả, thiết thực hơn với trách nhiệm của toàn Đảng và toàn dân là quá trình với cả lý trí, trên cơ sở khách quan, khoa học, đúng đắn, phù hợp với điều kiện và khát vọng chân chính của dân tộc Việt Nam và xu thế phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người. Đó là con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, để mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho mỗi người và tất cả mọi người, chứ tuyệt nhiên không giành riêng cho một nhóm người nào đó. Cả phương diện lí luận lẫn thực tiễn từ cách mạng Việt Nam 88 năm qua dưới ngọn cờ của Đảng đã và đang minh chứng cho sự lựa chọn và kiên định con đường đi lên CNXH hiện thực này.
Trước hết về mặt lý luận, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nhận thức rõ tính khoa học và cách mạng của con đường đi lên CNXH trong học thuyết Mác – Lênin. Đó sự nhận thức thế giới và giải thích thế giới một cách khoa học, duy vật, biện chứng đúng đắn và là cơ sở khoa học, cách mạng để cải tạo thế giới theo chiều hướng phát triển, văn minh, nhân văn. Học thuyết đó cũng đã chứng minh một cách khoa học, biện chứng về sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự quá độ sang một xã hội mới, vạch ra những nguyên lý cơ bản nhất, chung nhất về con đường, về hình thức, phương pháp, lực lượng đấu tranh cách mạng. Chỉ có CNXH – chủ nghĩa cộng sản mới triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, đem lại vị trí làm chủ chân chính cho mỗi người và mọi người.
Về thực tiễn, lịch sử nhân loại đã lần lượt trải qua các chế độ xã hội khác nhau từ thấp đến cao, từ mông muội tới văn minh mà các nhà lý luận đã khái quát thành sự thay đổi các hình thái kinh tế - xã hội là một tất yếu. Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng mười Nga năm 1917 thắng lợi mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới, đã tạo khả năng và điều kiện để hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới và hàng chục nước trong dòng thác giải phóng dân tộc ở thế kỷ XX đã giành được độc lập dân tộc. Hơn 7 thập kỷ xây dựng, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã đạt được những thành tựu to lớn. Nhưng hệ thống xã hội chủ nghĩa hiện thực thế giới đã vấp phải những sai lầm dẫn tới sụp đổ. Song, đó không phải là sự sụp đổ của học thuyết Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội, không phải là sự sụp đổ của phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới, bởi vẫn trên cơ sở lý luận của học thuyết ấy, một số nước xã hội chủ nghĩa đã vận dụng sáng tạo, với những bước đi phù hợp với hoàn cảnh nước mình nên đang tiếp tục đứng vững và từng bước phát triển dẫu trong bão giông, thử thách.
Là một dân tộc đã từng là nạn nhân của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc xâm lược, mỗi người dân Việt Nam, hơn ai hết thấu hiểu bản chất thực sự của chế độ tư bản chủ nghĩa là bất công, nô dịch, bần cùng hóa đối với nhân dân lao động. Từ đầu thế kỷ XX, khi có các đảng phái, tổ chức, cá nhân hướng lái đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa nhưng cả dân tộc vẫn kiên định đi theo con đường cách mạng đã chọn. Chủ nghĩa tư bản là mới đối với Việt Nam, nhưng người Việt Nam không xa lạ với bản chất bóc lột, bất công của chủ nghĩa tư bản, mà điển hình là sự nô dịch, thống trị của thực dân Pháp ở Việt Nam. Vì thế, khước từ con đường phát triển của chủ nghĩa tư bản và kiên định con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn là yếu tố tất yếu đối với dân tộc Việt Nam. Dẫu con đường xây dựng CNXH còn nhiều gian nan, thử thách, song, với nhận thức khoa học và cách mạng, với những thành quả trong thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc, nhất là những thành tựu qua hơn 30 năm đổi mới, con đường đi lên CNXH là quy luật tiến hóa của lịch sử nhân loại, là hiện thực ở Việt Nam.



[1]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr.66
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, tr. 30.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, tr. 1.
[4]Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, tr. 5.
[5]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, 2001, t.12, tr.434.
[6]Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, tr. 604.
[7]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, 2004, t.37, tr.499.
[8]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, 2004, t.37, tr.146.
[9]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, 2005, t.37, tr.505.
10.ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kì đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Sđd, phần I, tr. 38.
[11]ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kì đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Sđd, phần I, tr. 410.
[12]ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kì đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Sđd, phần I, tr. 414.
13 ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần tứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 20-21.
[14] ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần tứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 70.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần tứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr. 65.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân hội đàm với Thủ tướng Vương Quốc Thụy Điển

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thụy Điển Ulf Kristersson, từ ngày 10 đến 13-11, Phó chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân thăm chính thức Vươ...