Bối cảnh toàn cầu hóa và quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
của Việt Nam đã đem lại những thời cơ, vận hội, đồng thời cũng làm xuất hiện cả
những thách thức, nguy cơ thực sự đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Vì vậy, vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay là cần nhận diện rõ và có
những chiến lược hợp lý, tận dụng được những thời cơ, khắc chế nguy cơ nhằm
phát triển đất nước nhanh, bền vững, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong
hội nhập và phát triển.
Toàn cầu hóa là xu thế tất yếu khách quan, đang lôi cuốn tất cả
các quốc gia trên thế giới tham gia và tác động sâu rộng tới các lĩnh vực của
đời sống xã hội, đến sự vận động, phát triển của mọi quốc gia, dân tộc. Toàn
cầu hóa là một quá trình có tác động hai chiều, cả tích cực lẫn tiêu cực, đem
lại cả thời cơ, vận hội phát triển lẫn thách thức, nguy cơ hiểm họa khó lường
đối với các quốc gia, dân tộc. Toàn cầu hóa liên quan chặt chẽ và tác động qua
lại biện chứng đối với quá trình hội nhập quốc tế của các nước nói chung và đối
với Việt Nam nói riêng. Về thực chất, hội nhập quốc tế là tiến trình một quốc
gia theo đuổi lợi ích, mục tiêu của mình thông qua việc tự giác, chủ động hợp tác,
liên kết sâu rộng với các quốc gia khác trên nhiều lĩnh vực (kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh…) dựa trên sự chia sẻ về nhận thức,
lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực và chủ động chấp nhận, tuân
thủ, tham gia xây dựng các “luật chơi” chung, chuẩn mực chung trong khuôn khổ
các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay cũng đang mở ra những vận
hội đi liền với những thách thức to lớn.
Những thời cơ, vận hội
- Thực tiễn vận động, phát triển của
những xu thế lớn trên thế giới, đặc biệt là xu thế hòa bình, hợp tác, phát
triển, hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho Việt Nam giữ vững ổn định để phát triển
đất nước
Bối cảnh mới làm xuất hiện nhiều xu thế mới đan xen nhau và có tác
động sâu sắc đến đời sống chính trị - xã hội thế giới. Có thể thấy, những xu
thế đó là: 1- Xu thế hoà bình, hợp tác, hội nhập quốc tế lôi cuốn nhiều nước
tham gia; 2- Cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, nhất là cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo điều kiện hình thành và phát triển kinh tế
tri thức ở nhiều quốc gia, khu vực; 3- Xu thế đa dạng hoá, đa phương hoá các
quan hệ quốc tế và khu vực; 4- Những xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp tài
nguyên biển, đảo ngày càng phức tạp; 5- Xu thế dân chủ hoá rộng rãi đời sống xã
hội thế giới; 6- Sự tồn tại và khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản hiện đại; 7- Sự
nổi lên của chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa nước lớn, chiến
tranh thương mại…; 8- Xu thế nêu cao ý thức độc lập, bảo vệ lợi ích dân tộc của
các nước; 9- Sự xuất hiện đa dạng, phong phú các mô hình xã hội xã hội chủ
nghĩa như là xu thế tất yếu khách quan, tạo ra dấu hiệu khôi phục của xã hội xã
hội chủ nghĩa ở một số quốc gia, khu vực.
Trong những xu thế trên thì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn và tạo cơ hội cho Việt
Nam mở rộng hợp tác, tập hợp lực lượng tiến bộ vì hòa bình, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội. Xu thế hướng đến hòa bình và phát triển thúc đẩy các quốc gia
xích lại gần nhau, cùng nhau hợp tác nhằm tìm kiếm những cơ chế kiểm soát, kiềm
chế xung đột, giảm thiểu nguy cơ chiến tranh. Vì vậy, vấn đề quan trọng đặt ra
hiện nay chính là việc nhận thức sâu sắc và tận dụng có hiệu quả những thời cơ
ấy trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, giữ vững hòa bình và
ổn định để phát triển, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ
vì hòa bình, dân chủ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Cơ hội hợp tác, giao lưu, nhất là trong tìm kiếm, tiếp thu những
thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, tạo nguồn lực phát triển kinh tế
Do tác động mang tính hai mặt, nên toàn cầu hóa
không chỉ đặt ra những thách thức, nguy cơ mà còn tạo ra những cơ hội lớn để
các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện chiến lược “hội nhập” vào nền kinh tế thế
giới, qua đó, một mặt, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội ở
trong nước; mặt khác, thông qua hợp tác quốc tế mà tranh thủ được
các nguồn vốn đầu tư, khoa học công nghệ và quản lý từ các nước phát triển.
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam có cơ hội kế thừa, tiếp
thu, sử dụng những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại, nhất là những thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Đây rõ ràng là lợi thế của những nước đi sau. Toàn cầu hóa làm cho thị trường
thế giới ngày nay càng rộng lớn về quy mô, hoàn thiện về cơ chế hoạt động.
Chúng ta có điều kiện để học hỏi, tiếp thu, trao đổi, nâng cao trình độ, kinh
nghiệm quản lý, nguồn vốn của thế giới, đặc biệt là những tri thức để phát
triển nền kinh tế số, tham gia chuỗi cung ứng sản phẩm toàn cầu. Qua
đó, chúng ta có cơ hội mở rộng sản xuất, giải quyết việc làm, ổn
định và cải thiện đời sống nhân dân, tham gia quá trình hợp tác và phân công
lao động quốc tế.
- Những thành tựu đạt được qua hơn 30 năm đổi mới đã tạo nên điều
kiện nền tảng và vận hội quan trọng cho đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
Trải qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Công cuộc xóa đói, giảm nghèo đạt được nhiều thành
quả quan trọng, được bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao; đời sống nhân dân
được cải thiện rõ rệt. Công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng đi vào
chiều sâu, sức mạnh tổng hợp và uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng
cao, tạo tiền đề để đất nước phát triển nhanh và bền vững. Tốc độ tăng trưởng
GDP năm 2018 rất ấn tượng, đạt 7,08% và trong năm qua, chúng ta đạt và vượt
toàn bộ 12 chỉ tiêu đã đề ra. Thế và lực của nước ta tiếp tục được nâng cao
trên trường quốc tế, mở ra những vận hội chưa từng có và đã góp phần củng cố
niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Đó chính là một
trong những nguồn lực nội sinh bảo đảm điều kiện, tạo cơ sở cho Việt Nam tiếp
tục vững bước trên con đường đã chọn. Điển hình là sự kiện Việt Nam được bầu là
Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc sau phiên bỏ phiếu vào
ngày 7-6-2019, với số phiếu rất cao (192/193 phiếu). Kết quả này phản ánh sự
tín nhiệm của cộng đồng quốc tế dành cho Việt Nam; đồng thời cũng là thành quả
xứng đáng của Việt Nam sau những nỗ lực đóng góp vào hòa bình, an ninh thế
giới.
- Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho chúng ta tiếp
thu những giá trị tinh hoa của nhân loại, tiếp tục phát huy những giá trị
truyền thống của dân tộc trong xây dựng con người xã hội chủ nghĩa
Đất nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện
đại hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và rõ ràng, muốn công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước thành công thì phải đặt con người vào vị trí trung tâm,
phải có con người đạo đức, trí tuệ với đầy đủ các phẩm chất cần có của con
người xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta quan tâm đặc biệt đến
con người, coi con người là trung tâm, mục tiêu và động lực của sự phát triển
và định hướng sự nghiệp xây dựng con người xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải gắn
liền với xây dựng nhân cách phát triển hài hoà, kế thừa truyền thống và hiện
đại, vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Giá trị truyền thống có vai trò rất quan trọng
đối với việc xây dựng và phát triển nhân cách con người Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay trên nhiều phương diện, là “bộ lọc”, “kháng thể” chống
lại tác động tiêu cực của toàn cầu hóa và kinh tế thị trường; góp phần xây dựng
nhân cách mới, gắn lý tưởng, ước mơ hoài bão với hành động của con người hiện
nay, nhất là thế hệ trẻ. Bối cảnh mới đang tạo ra cho Việt Nam cơ hội phát huy
những giá trị truyền thống, tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa của
nhân loại trong xây dựng con người mới vì sự nghiệp đổi mới và phát triển.
Những thách thức, nguy cơ
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994), Đảng ta đã chỉ ra những thách
thức, những nguy cơ lớn đối với sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. “Những thách thức là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới…; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa…;
nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Các nguy cơ đó có
liên quan mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau”(1) và hiện vẫn đang đe dọa sự tồn
vong của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như Báo cáo chính trị tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII (năm 2016) vạch rõ: “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã
chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước
trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ “diễn biến hòa bình” của thế lực
thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những
diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí…”(2). Vượt qua bốn nguy cơ để tiếp tục
phát triển nhanh và bền vững, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, giữ vững thành quả cách mạng mà nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng
phải hy sinh biết bao nhiêu xương máu mới có được, vẫn đang và sẽ là những
thách thức thực sự, đòi hỏi phải có những nỗ lực vượt bậc, sự đoàn kết cao
độ, cùng chung sức, đồng lòng của cả dân tộc nhằm bảo vệ và phát huy những
thành quả cách mạng trong bối cảnh mới.
- Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên
thế giới vẫn là nguy cơ thường trực và khó khắc phục
Toàn cầu hóa tạo ra những thách thức không nhỏ đối với những nước
đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, như Việt Nam, Trung Quốc, Cu-ba, Lào. Vì toàn
cầu hóa hiện nay, về bản chất, là toàn cầu hóa do chủ nghĩa tư bản độc quyền
chi phối, hơn nữa lại diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực đang
lâm vào thoái trào, nên tác động tiêu cực của nó đến các nước phát triển theo
con đường xã hội chủ nghĩa lại càng rõ rệt. Về phương diện kinh tế, đây là cuộc
cạnh tranh, đấu tranh hết sức cam go và phức tạp giữa các nước trong bối cảnh
các thế lực tư bản độc quyền gia tăng ảnh hưởng mạnh mẽ, chi phối toàn cầu hóa.
Hai thách thức lớn nhất về kinh tế là: Nguy cơ mất độc lập tự chủ về kinh tế và
nguy cơ tụt hậu trong cuộc cạnh tranh quốc tế đang diễn ra hết sức quyết liệt hiện
nay(3).
Cho dù Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế liên tục, ổn
định trong 20 năm qua, bình quân 7%, nhưng thực tế vẫn cho thấy: Xét về số
tuyệt đối thì GDP của thế giới vẫn đã và đang ngày một doãng ra với tốc độ rất
nhanh so với GDP của Việt Nam. Nếu cách đây 30 năm, GDP của thế giới hơn GDP
của Việt Nam là 3.900 USD thì nay con số đó là 7.500 USD. Nói cách khác, dù
Việt Nam đã đi được nhiều bước, song đó chỉ là những bước ngắn, nên vẫn tụt hâu
so với nhiều quốc gia khác trên thế giới dù bước chậm, nhưng họ lại đi được
những bước dài. Và rõ ràng, đây là một thách thức thực sự, là một vấn đề khó
đối với Việt Nam hiện nay, rất cần có chiến lược tổng thể, dài hạn để khắc
phục.
- Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tiềm ẩn
Trong cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
hiện nay, ngoài phân phối theo lao động còn phân phối theo vốn đóng góp, theo
hiệu quả kinh tế… nên dẫn tới thực tế là phân hóa xã hội ngày càng gia tăng,
bất công xã hội vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, gây căng
thẳng, xung đột xã hội và nhất là xuất hiện nguy cơ đẩy các quan hệ xã hội tới
chỗ xa rời bản chất công bằng, dân chủ, nhân đạo, nhân văn tốt đẹp của chủ
nghĩa xã hội. Các bất công ấy cùng với những vấn đề xã hội, tiêu cực xã hội
nhức nhối khác tiềm ẩn nguy cơ làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Nguy cơ chệch
hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở một số biểu hiện như sự giảm sút vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản và hiệu lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, sự gia tăng của tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân; sự yếu
kém của doanh nghiệp nhà nước và kinh tế tập thể; gia tăng sự suy thoái tư
tưởng chính trị, đạo đức và lối sống, sự băng hoại các giá trị tinh thần truyền
thống của dân tộc;...
- Âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình”
của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta với những biểu hiện mới, quyết liệt
và tinh vi hơn trước
Thông thường, “diễn biến hòa bình” được coi là chiến lược của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, phản động quốc tế thực hiện phương thức,
thủ đoạn mới, phi quân sự để chống phá, đẩy lùi và đi đến xóa bỏ chủ nghĩa xã
hội trên thế giới.
Tuy nhiên, bản chất thật sự của “diễn biến hòa bình” hiện nay là
hoạt động của các thế lực đế quốc tư bản lớn và cường quyền nhằm vào các nước
có chế độ chính trị mà họ coi là không phù hợp với lợi ích của họ, bằng tổng
hợp các biện pháp chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao, an
ninh… để chuyển hóa chế độ chính trị của các nước này theo quỹ đạo có lợi cho
họ(4). Hiện nay, “diễn biến hòa bình” đã có
những biểu hiện mới cả về chủ thể tiến hành, phương thức, nội dung, mục tiêu…
đã phát triển đến đỉnh cao, đến mức có thể coi là một “công nghệ”, đó là “công
nghệ lật đổ”, với rất nhiều kịch bản khác nhau. Đặc biệt là sự phát triển của
công nghệ số, các trang mạng, ứng dụng xã hội đã được các thế lực thù địch ráo
riết tận dụng triệt để trong thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm xóa
bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là nguy cơ không thể xem thường,
thực tế đó đòi hỏi chúng ta cần phải có những biện pháp, cách thức, đối phó và
khắc chế cho phù hợp, không để rơi vào tình trạng bị động, bất ngờ.
- Nguy cơ từ tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”, trong đó có tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí ở bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn chưa được ngăn chặn triệt để
Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Tập
trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất,
năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” đã nêu những kết quả đạt
được và ưu điểm trong xây dựng đội ngũ cán bộ như sau: Đa
số cán bộ có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối
sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện,
trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đa
số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -
xã hội ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín. Cán bộ cấp chiến lược có bản
lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục
tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội(5).
Tuy nhiên, thực tế cho thấy còn một số cán bộ có bản lĩnh
chính trị chưa thật sự vững vàng, có biểu hiện dao động về lập trường, quan
điểm; lười học tập, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đáng chú ý là gần đây có một số cán bộ, đảng viên đã thực sự “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”, đòi “đa nguyên”, “đa đảng”, sám hối, “chia tay ý thức
hệ”, từ bỏ chủ nghĩa xã hội… Một số cán bộ uy tín thấp, có biểu hiện sa sút về
đạo đức, lối sống, thiếu gương mẫu, thiếu tinh thần trách nhiệm, nói không đi
đôi với làm, xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; thậm
chí chưa vì lợi ích quốc gia - dân tộc và nhân dân trong thực hiện chức trách,
nhiệm vụ, đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích tập thể; đặc quyền, đặc lợi,
quan liêu, xa dân; có quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp “sân sau”, sa vào
“lợi ích nhóm”.
Tham nhũng là vấn nạn nhức nhối hiện nay, xuất hiện với nhiều hình
thức mới, như tham nhũng chính sách, tham nhũng đất đai, tham nhũng trong công
tác cán bộ… Tham nhũng làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, gây
bức xúc dư luận, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, gây
ra những nguy cơ tiềm ẩn, xung đột, làm mất ổn định kinh tế - chính trị - xã
hội của đất nước, gây phương hại to lớn tới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam và làm xấu đi hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế. Do vậy, đấu
tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng đang là một nhiệm vụ quan trọng
và cấp bách hiện nay, nhưng cũng là một nhiệm vụ rất khó khăn, gay go, đầy phức
tạp.
Chính vì vậy, để khắc chế nguy cơ này, chúng ta cần tiếp tục đẩy
mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng và chống, đấu tranh ngăn chặn,
đẩy lùi có hiệu quả những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”… Bởi lẽ, như Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã chỉ rõ: Sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có
thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại
lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
- Nguy cơ phai nhạt, đánh mất bản sắc
văn hóa, xói mòn những giá trị truyền thống của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế
Toàn cầu hóa hiện nay có những bước phát triển mới, cùng với cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông
tin, nền kinh tế số; đồng thời cũng đe dọa đến bản sắc văn hóa của các dân tộc
trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Một số ít nước lớn đang lợi dụng quá trình
toàn cầu hóa để tìm cách truyền bá các giá trị văn hóa, ngôn ngữ, tập quán, lối
sống của mình ra khắp thế giới, với sự hỗ trợ đắc lực của các công cụ, phương
tiện truyền thông đa nền tảng, thực hiện mưu đồ “bá quyền văn hóa” của mình,
làm phai nhạt các giá trị truyền thống dân tộc. Nhiều phản giá trị, phản văn
hóa, tư tưởng độc hại dễ dàng xâm nhập, làm biến dạng các giá trị văn hóa, đạo
đức truyền thống. Đây là một nguy cơ đang hiển hiện và ngày một gia tăng đối
với Việt Nam, nhất là những tác động tiêu cực của nó tới tầng lớp thanh niên và
sẽ gây ra hệ hụy hết sức nguy hiểm, khó lường. Bởi lẽ, giá trị truyền thống cơ
bản của dân tộc Việt Nam đóng vai trò quan trọng đối với việc xây dựng và phát
triển nhân cách con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Bối
cảnh mới hiện nay đặt ra yêu cầu phải kết hợp giữa bảo tồn, phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc, các giá trị truyền thống với việc tiếp thu có chọn lọc những
giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại, kết hợp hài hòa giữa truyền thống và
hiện đại trong xây dựng nhân cách con người Việt Nam, đáp ứng những đòi hỏi của
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Nguy cơ phân liệt, xuyên tạc, hạ thấp
ý nghĩa chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, cùng với những
biểu hiện dân tộc cực đoan gia tăng
Có thể thấy, những bước phát triển và thành quả của cách mạng thế
giới từ trước đến nay đều không tách rời sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước
chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, thống nhất với việc
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế. Thực tiễn lịch sử đã
chứng minh rằng, bất cứ khi nào mắc phải những lệch lạc và sai lầm trong giải
quyết mối quan hệ này thì khi đó phong trào cách mạng của mỗi nước cũng như của
thế giới đều vấp phải khó khăn, thậm chí là thất bại với những tổn thất hết sức
nặng nề.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày nay, hầu hết các chính phủ trên
thế giới đều công khai tuyên bố đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Mối quan hệ
giữa giai cấp và dân tộc, giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc sẽ lại
nổi lên, làm phân hoá các lực lượng chính trị thành nhiều đội ngũ, đặc biệt là
làm phân liệt phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, làm giảm sút tinh thần
và sức mạnh chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, gây ảnh hưởng
tiêu cực tới phong trào xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Cùng với đó, chủ nghĩa
dân tộc cực đoan và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, biệt phái cũng đang có xu hướng
ngày càng gia tăng, tác động phức tạp đến đường lối, chính sách đối nội và đối
ngoại của nhiều nước, ảnh hưởng xấu, làm tê liệt truyền thống, chủ nghĩa quốc
tế trong sáng của giai cấp công nhân trên phạm vi thế giới.
- Bối cảnh hiện nay đang đặt ra thách
thức rất lớn đối với sự bảo đảm vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hòa bình, ổn định để phát triển
Đây thực sự là một thách thức rất lớn đối với
Việt Nam, trong bối cảnh kinh tế - chính trị thế giới phát triển nhanh chóng,
khó lường như hiện nay. Nguyên tắc “bất biến” là độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, là mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, còn cách thức bảo đảm
những nguyên tắc bất di, bất dịch ấy thì có thể ứng biến tùy thuộc từng giai
đoạn phát triển. Thêm vào đó, quá trình hội nhập quốc tế hiện nay là quá trình
vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vậy cho nên cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược cần nắm vững phương châm: Hòa nhập nhưng
không hòa tan, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân
tộc trong môi trường làm việc quốc tế, cảnh giác với những âm mưu thông qua hội
nhập để thực hiện “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam.
Những thời cơ và thách thức, cơ hội và nguy cơ này luôn xuất hiện
đan xen nhau và việc nhận diện chúng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc
xây dựng những quyết sách, chính sách, chiến lược phù hợp với điều kiện lịch sử
- cụ thể của Việt Nam hiện nay, do đó, cần tận dụng được những thời cơ, khắc
chế nguy cơ nhằm phát triển đất nước nhanh, bền vững, giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trong hội nhập và phát triển, hướng tới mục tiêu cao cả là xây
dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
-------------------------------------------------------------------------
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn
phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 19
(3) Xem: GS.TS. Nguyễn Ngọc Long (chủ biên): Chủ nghĩa
Mác - Lê-nin với vận mệnh và tương lai của chủ nghĩa xã hội, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 429
(4) Xem: GS.TS.Phùng Hữu Phú, GS.TS. Lê Hữu Nghĩa, GS.TS. Vũ Văn
Hiền, PGS.TS. Nguyễn Viết Thông (Đồng chủ biên): Một số vấn đề lý luận
- thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
qua 30 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 732
(5) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2018, tr. 47
PGS, TS. Nguyễn Chí HiếuTạp chí Cộng sản
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét