Cách đây 100 năm (1919 - 2019), thay mặt nhóm
những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Tất Thành ký tên “Nguyễn Ái
Quốc” dưới bức thư kèm theo bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi Tổng thống Mỹ
và Trưởng Đoàn đại biểu các nước Đồng Minh thắng trận trong Thế chiến I họp Hội
nghị tại Versailles, Pháp1 (sau đây gọi tắt là bản Yêu sách). Bản
Yêu sách này, gồm 8 điểm2 được coi là một văn kiện chính trị,
pháp lý đầu tiên trong đời sống chính trị của Việt Nam; trong đó, nổi lên hai
vấn đề quan trọng nhất: quyền dân tộc tự quyết và quyền tự do, dân chủ. Bản Yêu
sách ra đời đến nay đã 100 năm, nhưng giá trị của nó không bị phai mờ.
Quyền dân tộc tự quyết và quyền tự do, dân chủ
“Dân tộc” được đề cập ở đây là dân tộc - quốc gia (Nation), chứ không
phải dân tộc/bộ tộc/tộc người (Ethnic). Thành phần dự Hội nghị Versailles năm
1919 chủ yếu đại biểu đến từ 27 nước đế quốc trong phe Đồng Minh thắng trận
trong chiến tranh thế giới lần thứ Nhất (1914 - 1918). Hội nghị bàn nhiều vấn
đề, trong đó có việc xác nhận sự thất bại của đế quốc Đức và các đồng minh của
nước này; phân chia thị trường thế giới như là chiến lợi phẩm cho các nước đế
quốc thắng trận. Một trong những người đồng chủ trì Hội nghị này là Tổng thống
Mỹ V.Wilson. Tại Hội nghị, Tổng thống V.Wilson tiếp tục tuyên bố theo tinh thần
“Chương trình 14 điểm” đã nêu từ năm 1918 (tâm điểm của Chương trình này là
nhằm thiết lập vai trò bá chủ thế giới của Mỹ và chống lại nước Nga Xô viết mới
ra đời năm 1917). Tổng thống Mỹ đưa ra những lời rất mỹ miều về quyền dân tộc
tự quyết, về quyền dân chủ, … chạm trúng vào tâm lý khát khao nồng cháy đối với
những người yêu nước của các dân tộc thuộc địa trên thế giới, trong đó có những
người Việt Nam yêu nước đang có mặt tại Pháp năm 1919.
Quyền dân tộc tự quyết là quyền thiêng liêng đối với mỗi dân tộc - quốc
gia, bao gồm bốn nội dung làm thành một thể thống nhất của quyền dân tộc cơ
bản: (1). Độc lập; (2). Chủ quyền; (3). Thống nhất; (4). Toàn vẹn lãnh thổ. Tất
cả các dân tộc - quốc gia trên thế giới, từ cổ chí kim, đều luôn muốn và giữ
được quyền này. Đó cũng là điều cơ bản nhất, xuất hiện trong các hiệp định mà Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa tham gia đàm phán và ký kết với các bên liên quan (đơn cử
là Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương (tháng 7-1954) và Hiệp định chấm dứt chiến
tranh, lâp lại hòa bình ở Việt Nam – Hiệp định Pari, tháng 01-1973).
Tuy nhiên, Bản Yêu sách chỉ là những điều “khiêm tốn”3 đặt
trong bối cảnh: “trong khi chờ cho nguyên tắc dân tộc sẽ từ lĩnh vực lý tưởng
chuyển vào lĩnh vực hiện thực do chỗ quyền tự quyết thiêng liêng của các dân
tộc được thừa nhận thật sự”4. Bởi, chúng ta thấy tuyên bố về quyền dân
tộc tự quyết của Tổng thống Mỹ tại Hội nghị Versailles năm 1919 chỉ là trên đầu
lưỡi, không có một chút nào về giá trị thực tế. Về sau, trong một loạt bài báo
có tên là Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “sau một thời gian nghiên cứu
và theo dõi, chúng tôi nhận thấy rằng “chủ nghĩa Uynxơn” chỉ là một trò bịp bợm
lớn”5.
Đối với quyền tự do, dân chủ, bản Yêu sách bao gồm
hai nhóm quyền: (1): Quyền dân chủ trong việc thiết lập và thực thi
quyền lực nhà nước. Với quyền này, bản Yêu sách đặt ra yêu cầu là việc cải
cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng
những bảo đảm về mặt pháp luật như người châu Âu. Xóa bỏ hoàn toàn các tòa án
đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong
nhân dân Việt Nam. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật.
Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ do người bản xứ bầu ra tại Nghị viện
Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ. (2): Quyền
tự do của người dân. Bản Yêu sách đề cập việc phải tổng ân xá cho tất cả
những người bản xứ bị án tù chính trị. Đòi các quyền tự do báo chí, ngôn luận,
lập hội, hội họp, cư trú ở nước ngoài và xuất dương, học tập; thành lập các
trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở các tỉnh cho người bản xứ.
Thật ra, đây chỉ là “những yêu sách khiêm tốn”. Nhưng, cái khiêm tốn
(tối thiểu) của những yêu sách đó, đặt trong hoàn cảnh của một dân tộc đang rên
xiết dưới chế độ thực dân xâm lược hà khắc thì chúng không còn là khiêm tốn
(tối thiểu) nữa mà là ở mức tối đa. Bởi vì dân chủ, tự do ở chế độ thuộc địa
nói chung và chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam lúc bấy giờ nói
riêng là giá trị quá xa xỉ.
Một số vấn đề đặt ra hiện nay
Những nội dung cơ bản của Yêu sách và hành động của Nguyễn Ái Quốc hoàn
toàn hợp với lôgíc tư duy và hành động của nhà cách mạng chuyên nghiệp. Cả cuộc
đời của Người là đấu tranh cho các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự do, dân chủ
cho nhân dân Việt Nam. Trên con đường đầy gian nan, nguy hiểm ấy, Hồ Chí Minh
đã cùng Đảng Cộng sản Việt Nam gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước, đem lại quyền tự do, dân chủ cho nhân dân nên đã đạt được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Hiện nay, đất nước Việt Nam đang được hưởng nền hòa bình, thống nhất,
độc lập, tự do, dân chủ, văn minh. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đang lãnh đạo nhân dân tiếp tục thực thi quyền dân
tộc tự quyết trong một thế giới toàn cầu hóa phức tạp; đồng thời, thực hành
quyền dân chủ, tự do ở một đất nước đổi mới vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, vẫn
còn một số mặt hạn chế mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang cố gắng khắc phục.
Đó là lẽ thường của biện chứng cuộc sống, vì không có cái gì trên đời này là
tuyệt hảo cả. Cái lý này không chung với những gì mà các thế lực thù địch cố
tình xuyên tạc về tự do, nhân quyền của Việt Nam. Cũng cần khẳng định rằng, một
sự vật dẫu có xuyên tạc, vu khống, bôi nhọ,… bằng những thủ đoạn tinh vi,
phương tiện tân kỳ đến đấu, thì nó vẫn luôn giữ nguyên bản chất.
Khi Việt Nam đã thiết lập chế độ chính trị mới do thắng lợi của cuộc
Cách mạng Tháng Tám (năm 1945), vấn đề quan tâm đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Trung ương Đảng, Nhà nước ta là thiết lập và thực thi những quyền tự
do, dân chủ thật sự của người dân. Trước hết, các quyền đó phải được bảo đảm
trong Hiến pháp - bộ luật cơ bản nhất của một quốc gia. Điều này cũng được thể
hiện bằng những chính sách cụ thể và chất lượng hoạt động của bộ máy, đội ngũ
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và cả hệ thống chính trị. Tinh thần cơ
bản nhất trong cấu tạo quyền lực của đất nước là: tất cả mọi quyền lực và quyền
lực tối cao đều thuộc về nhân dân. Đó là dân chủ theo đúng quan điểm của Hồ Chí
Minh: dân là chủ và dân làm chủ, chứ không phải “quan chủ”. Dân là chủ tức là
nói về vị thế của dân. Dân làm chủ là nói về trách nhiệm của dân. Đó là quan
điểm: Đảng từ trong xã hội mà ra chứ không phải từ trên trời sa xuống, nó phải
làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho đồng bào sung sướng; Đảng ra đời,
tồn tại và phát triển không phải vì mục đích tự thân mà là vì độc lập cho Tổ
quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Theo Hồ Chí Minh: “Đảng không phải làm
quan, sai khiến quần chúng, mà phải làm đầy tớ cho quần chúng và phải làm cho
ra trò, nếu không, quần chúng sẽ đá đít”6. Người khẳng định: “tiếng
dân chính là truyền lại ý trời”7; “người lãnh đạo, là người đày tớ
thật trung thành của nhân dân”8 và người cách mạng phải là
người phục vụ nhân dân: “sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành
của nhân dân”9.
Quan điểm thực tiễn của Nhà văn hóa dân chủ Hồ Chí Minh là: “Các công
việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh
phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi
dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân
thì phải tránh”10. Cán bộ Nhà nước phải: “làm sao cho được lòng dân,
dân tin, dân mến, dân yêu” và “muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết
phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần
chí công vô tư”11. Đồng thời, phải “gánh vác việc chung cho dân, chứ
không phải để đè đầu dân”12, “Dân làm chủ thì chủ tịch, bộ trưởng,
thứ trưởng, ủy viên này ủy viên khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân
dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”13; “Nước ta là nước dân
chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người
quét nhà, nấu ăn cho đến chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho dân”14.
Hiện nay, Việt Nam đang thực thi những quan điểm của Hồ Chí Minh về
quyền dân tộc tự quyết và quyền tự do, dân chủ trong điều kiện mới - Đảng Cộng
sản cầm quyền - quyền này không phải cứ tự nhận mà được, mà do nhân dân ủy thác
cho. Những điều về quyền dân tộc tự quyết cũng như quyền tự do, dân chủ mà nhóm
người Việt Nam yêu nước tại Pháp năm 1919 nêu lên, rõ ràng là có biểu đạt giống
nhau ở câu chữ nhưng đặt chúng vào hoàn cảnh rất khác nhau. Khác thì khác,
nhưng những giá trị chung vẫn còn nguyên đó. Do thế, hiểu về chúng trong điều
kiện hiện nay chắc chắn còn có nhiều ý kiến khác nhau. Đó là lẽ thường. Nhưng,
sẽ không là lẽ thường, khi có những kẻ cứ cố tình hiểu sai, xuyên tạc tình hình
tự do, dân chủ của Việt Nam. Đây là những người có cái tâm đen, chống đối sự
nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam.
Tự do là sự nhận thức và hành động theo cái tất yếu, tức là nhận thức
được và làm theo đúng quy luật khách quan. Không như thế thì không có tự do
đích thực. Tự do đi liền với kỷ cương, pháp luật. Vậy, một loạt quyền tự do nêu
trong Yêu sách năm 1919 và hiện nay cần được hiểu như thế nào? Từ bản Hiến pháp
(năm 1946) đến bản Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013)
đã quy định rõ những quyền về tự do báo chí, tự do lập hội, tự do cư trú, tự do
đi lại, tự do tín ngưỡng,... cho tổ chức, cá nhân. Trong thực tế, nhiều quyền
tự do đang được thực hiện và tiếp tục cụ thể hóa trong chế định của luật pháp.
Tuy nhiên, có thể ở chỗ này, chỗ nọ, tổ chức, cá nhân này, tổ chức, cá nhân nọ
vi phạm quyền tự do, dân chủ thì đó là những sai phạm cụ thể cần khắc phục,
nhưng đó nhất quyết không phải bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí
Minh đã diễn đạt về tự do trong lý lẽ khó ai bắt bẻ được, đó là: tự do bày tỏ ý
kiến, tự do thảo luận để tìm ra chân lý, khi đã đạt được đến mức tìm thấy giá
trị ấy rồi thì quyền tự do hóa ra quyền phục tùng chân lý, mà chân lý là những
gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Chúng ta có thể hiểu rằng, tự do như vậy
hoàn toàn và tuyệt nhiên không có chỗ đứng cho những suy nghĩ và hành động kích
động bạo lực, phản văn hóa, hy sinh chủ quyền quốc gia, làm tổn hại đến khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, lật đổ chế độ chính trị nước nhà.
Nhân loại đang ở vào thời đại Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư (4.0). Đó
là điều tuyệt diệu. Nhưng, sự tuyệt diệu này phải dành cho thế giới thiện
lương. Đáng tiếc, có nhiều kẻ bất lương đang lợi dụng những thành tựu của thời
đại này để mưu tính cho những điều xấu xa, họ tìm mọi cách mượn tự do, dân chủ
nhằm làm hỏng giá trị tự do, dân chủ đích thực. Hằng ngày, trên các phương tiện
media, trên mạng internet, các thế lực xấu xa này tác oai tác quái, đánh lừa
những người thiện lương, nhẹ dạ cả tin nghe theo những lời kích động, dối trá.
Đáng chú ý là, những kẻ bất lương kiểu này ở trong nước được sự hậu thuẫn từ
các thế lực phản động ở bên ngoài. Vì thế, ngăn chặn, đấu tranh, loại trừ những
kẻ bất lương ấy cũng chính là nhằm xây dựng, bảo vệ, phát triển quyền dân tộc
tự quyết, tự do dân chủ mà nhân dân ta đã đổ biết bao xương máu mới giành được.
Đó là trách nhiệm chính trị, dân chủ của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính
trị cũng như những người thiện lương, trước hết là cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân.
Những giá trị quyền dân tộc tự quyết và quyền tự do, dân chủ của Nguyễn
Ái Quốc kể từ khi bản Yêu sách gửi Hội nghị Versailles năm 1919 đến nay đã
xuyên qua 100 năm. Hành trình ấy chưa dừng lại và sẽ mở ra sự thăng tiến, bồi
đắp giá trị quyền dân tộc tự quyết, quyền tự do, dân chủ trong thời kỳ mới. Làm
phong phú thêm những giá trị quyền dân tộc - quốc gia tự quyết, giá trị quyền
tự do, dân chủ trong tình hình hiện nay là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và
những người Việt Nam yêu nước; đồng thời, nó phải đi liền với cuộc đấu tranh
với các thế lực xấu xa lúc nào cũng tìm mọi cách phá hoại chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
MẠCH QUANG THẮNG
_____________
1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, H. 2011, tr.
469 - 471.
2 - (1). Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị;
(2). Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được
quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu; xóa bỏ hoàn toàn
các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực
nhất trong nhân dân An Nam; (3). Tự do ngôn luận và tự do báo chí; (4). Tự do
lập hội và hội họp; (5). Tự do cứ trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; (6). Tự
do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh
cho người bản xứ; (7). Thay thế chế độ ra sức lệnh bằng chế độ ra các đạo luật;
(8). Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra tại
Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản
xứ.
3 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, H. 2011, tr.
469.
4, 5 - Sđd, tr.469, 441.
6 - Sđd, Tập 6, tr. 367.
7 - Sđd, Tập1, tr. 97.
8 - Sđd, Tập15, tr. 622.
9 - Sđd, Tập 7, tr. 50.
10 - Sđd, Tập 4, tr. 21.
11, 12- Sđd tr. 52, 65.
13 - Sđd, Tập 10, tr. 572.
14 - Sđd, Tập 7, tr. 434.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét